Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc của công ty cổ phần dệt may huế trên địa bàn thành phố huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 163 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Dệt may là một trong những ngành có truyền thống phát triển lâu đời tại Việt
Nam, các sản phẩm của ngành đặc biệt là sản phẩm may mặc trực tiếp phục vụ đời
sống dân sinh và hình thành bản sắc văn hóa riêng của người Việt. Đây cũng là một

thu nhập và việc làm của người dân trong toàn xã hội.

Ế

trong những ngành thu hút nhiều lao động, có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề ổn đinh

U

Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, ngành dệt may đã phát huy

́H

nhiều lợi thế trong nước để phát triển trở thành ngành đóng góp vào sự tăng trưởng



GDP ấn tượng của Việt Nam trong nhiều năm qua và trở thành một trong những
ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Hiện nay, Dệt may là ngành có kim

H

ngạch xuất khẩu lớn nhất của nước ta.

IN



Tuy nhiên, trong điều kiện suy thoái kinh tế toàn cầu, xuất khẩu gặp rất nhiều
khó khăn, nhiều công ty đóng cửa, công nhân mất việc làm thì vai trò của thị trường

K

trong nước đã trở nên hết sức quan trọng. Thị trường trong nước là cơ sở cho sự

̣C

phát triển bền vững của nền kinh tế do ít bị phụ thuộc vào sự biến động của kinh tế

O

thế giới. Có thể nói, thị trường trong nước là điểm tựa vững chắc cho các doanh

̣I H

nghiệp khi thị trường ngoài nước gặp những biến động bất lợi.
Ý thức được tầm quan trọng của thị trường nội địa, hiện nay đã có rất nhiều

Đ
A

doanh nghiệp, nhiều ngành đã nỗ lực hết mình trong việc chiếm lĩnh lại thị trường nội
địa bằng chất lượng và uy tín của mình. Đối với ngành Dệt may, hàng may mặc nội địa
đã có nhiều thương hiệu nổi tiếng, có vị thế vững chắc trên thị trường trong nước. Việc
chiếm lĩnh lại thị trường nội địa đã gặt hái được những thành công nhất định.
Trong quá trình chiếm lĩnh lại thị trường nội địa, việc phân tích nghiên cứu,
đánh giá tiềm năng của từng phân khúc thị trường hay từng thị trường nhỏ lẻ cũng như

xác định được năng lực cạnh của sản phẩm của mình trên mỗi phân khúc, thị trường đó
là một việc làm hết sức quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Xác định được vị thế,
chỗ đứng của mình là một trong những yếu tố quyết định thành công của doanh nghiệp.

1


Có thể nói thị trường nội địa là "sân nhà" của các doanh nghiệp Việt Nam thì
Thừa Thiên Huế nói chung và Thành phố Huế nói riêng là một "sân nhà nhỏ" của
các doanh nghiệp Thừa Thiên Huế. Việc ra chiến lược để thắng ngay trên sân nhà là
một điều quan trọng, nó phát huy được hết lợi thế của doanh nghiệp. Và để có thể
chiếm lĩnh được toàn bộ thị trường trong nước thì các doanh nghiệp cần thiết phải
tìm hiểu, nghiên cứu để làm sao chiếm lĩnh dần từng thị trường nhỏ một.
Đối với Công ty Cổ phần Dệt may Huế nói riêng, trong những năm qua,

Ế

công ty đã có những thành công đáng kể trong hoạt động xuất khẩu các mặt hàng

U

may mặc, được đánh giá là doanh nghiệp dẫn đầu trong thời kỳ kinh tế suy thoái.

́H

Song đối với việc chiếm lĩnh thị trường nội địa của công ty còn gặp nhiều khó khăn,
cần thiết phải có những định hướng cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế của công




ty. Từ những nhu cầu cấp thiết trên tôi quyết định chọn đề tài: “Năng lực cạnh
Thành phố Huế “ để nghiên cứu.

IN

2. Mục tiêu của đề tài

H

tranh của sản phẩm may mặc của công ty Cổ phần Dệt may Huế trên địa bàn

K

Mục tiêu chung: Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của sản
phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường thành phố Huế để đưa ra những khuyến cáo

̣C

cho công ty về các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh.

O

Mục tiêu cụ thể:

̣I H

- Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh sản
phẩm nói chung và sản phẩm dệt may nói riêng của các doanh nghiệp hoạt động

Đ

A

trong nền kinh tế thị trường.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng khả năng cạnh tranh sản phẩm Công

ty Cổ phần Dệt may Huế trong những năm qua.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
sản phẩm của Công ty Cổ phần Dệt may Huế trong những năm tới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề, hiện tượng liên quan đến cạnh tranh
và khả năng cạnh tranh sản phẩm may mặc của Công ty Cổ phần Dệt may Huế trên
ba đối tượng chủ yếu đó là: công ty, khách hàng và đối thủ cạnh tranh.

2


4. Phạm vi và nội dung nghiên cứu
4.1. Về không gian
Đề tài nghiên cứu khả năng cạnh tranh sản phẩm may mặc của Công ty Cổ
phần Dệt may Huế, trên cơ sở điều tra khảo sát ý kiến khách hàng tiêu thụ sản phẩm
may mặc tại Thành phố (Tp) Huế thuộc địa bàn Tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.2. Về thời gian
Đề tài được thực hiện trên cơ sở tổng hợp và phân tích số liệu phản ánh tình

Ế

hình hoạt động của công ty trong giai đoạn từ năm 2008 - 2010 và các số liệu sơ cấp

U


thu thập qua điều tra khảo sát ý kiến khách hàng được thực hiện trong khoảng thời

́H

gian từ tháng 01/2011 đến tháng 6/2011
4.3. Về nội dung



Việc phân tích và đánh giá khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường là một vấn đề rộng lớn và hết sức phức tạp. Tuy nhiên,

H

do điều kiện về thời gian nên đề tài chỉ tập trung phân tích đánh giá những khía

IN

cạnh mang tính cơ bản liên quan đến năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc của

K

Công ty cổ phần Dệt may Huế như các chính sách Maketing - Mix, các nhân tố ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh, yếu tố cạnh tranh trong ngành, điểm mạnh, điểm

O

̣C

yếu, cơ hội và các thách thức để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả


̣I H

năng cạnh tranh sản phẩm may mặc của công ty trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu

Đ
A

Để tiến hành nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định
tính kết hợp với phương pháp định lượng để đo lường những đánh giá của khách
hàng đối với sản phẩm của Công ty Cổ phần Dệt may Huế. Đồng thời xem xét đến
đánh giá của cán bộ công nhân viên (CBCNV) trong công ty về các yếu tố nội bộ
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh như thế nào.
5.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
Các số liệu và thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh nói
chung và năng lực cạnh tranh của công ty được thu thập từ nguồn thứ cấp và sơ cấp.
- Nguồn số liệu thứ cấp: Thu thập từ sách, báo, tạp chí, các quyết định của

3


Chính Phủ, các trang tin điện tử, và các tài liệu do công ty cung cấp có liên quan
đến đề tài như: báo cáo tài chính, báo cáo tổng kết, báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, kế hoạch phát triển công ty từ năm 2010 – 2015 v.v...
- Nguồn số liệu sơ cấp: Để tiến hành phân tích đánh giá giá trị khách hàng về
tiêu thụ sản phẩm dệt may trên thị trường, đề tài sử dụng nguồn số liệu sơ cấp được
thu thập bằng bảng hỏi đối với khách hàng tại các địa bàn nghiên cứu được thực
hiện từ tháng 01/2011 đến tháng 6/2011.


U

cứu trong và ngoài nước về lĩnh vực có liên quan đến đề tài.

Ế

Ngoài ra luận văn còn kế thừa hợp lý các kết quả của các công trình nghiên

́H

5.2. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu

Các số liệu sau khi thu thập được thông qua việc phỏng vấn trực tiếp khách



hàng và CBCNV công ty bằng bảng hỏi được tổng hợp và xử lý thông qua phần
mềm Excel và SPSS, sử dụng các phương pháp phân tích thống kê, so sánh, mô

H

hình hoá, phân tích nhân tố, kiểm định mô hình, phân tích diễn giải, phương pháp

IN

ma trận SWOT v.v... để phân tích thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và khả

K

năng cạnh tranh sản phẩm may mặc của công ty và đề xuất các giải pháp nhằm đáp

ứng mục tiêu nghiên cứu đề ra.

O

̣C

6. Kết cấu của đề tài

̣I H

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề về lý luận và và thực tiễn về năng lực cạnh tranh

Đ
A

Chương 2. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc của
Công ty Cổ phần Dệt may Huế trên thị trường Thành phố Huế.
Chương 3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc

của Công ty Cổ phần Dệt may Huế.

4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH
1.1. TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
Các học thuyết kinh tế thị trường, dù ở trường phái nào cũng đều thừa nhận

rằng: cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung –

Ế

cầu và giá cả hàng hóa là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản

U

của cơ chế thị trường, cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường.

́H

Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, do cách tiếp cận khác



nhau, nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Do vậy, để đưa ra khái niệm
này một cách có căn cứ, cần điểm lại một số lý thuyết về năng lực cạnh tranh và

H

năng lực cạnh tranh trên thế giới và trong nước.

IN

1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và có ý nghĩa

K


quan trọng đối với phát triển kinh tế ở các quốc gia. Việc nghiên cứu hiện tượng

̣C

cạnh tranh đã từ rất sớm với các các trường phái nổi tiếng như: lý thuyết cạnh tranh

O

cổ điển, lý thuyết cạnh tranh tân cổ điển và lý thuyết cạnh tranh hiện đại, có thể viện

̣I H

dẫn ra một số những quan niệm về cạnh tranh như sau:
Theo Các Mác: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các

Đ
A

nhà tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch” [17].
Cuốn từ điển rút gọn về kinh doanh đã định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh

đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại
tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”[42].
Theo cuốn Từ điển bách khoa của Việt Nam thì: “Cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương
nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung –
cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất” [32].

5



Tại diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp, quốc
gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh
quốc tế” [24].
Theo cuốn Kinh tế học của P.Samuelson thì: “Cạnh tranh là sự kình địch
giữa các doanh nghiệp với nhau để giành khách hàng, thị trường” [44].
Theo nhóm tác giả của cuốn “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách

Ế

cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh” cho rằng: “Cạnh tranh có thể được

U

hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất

́H

hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục
tiêu kinh cụ thể” [22].



Ngoài ra, còn có thể viện dẫn nhiều cách diễn đạt khác về khái niệm cạnh
tranh. Song có thể tóm lược một số nội dung cơ bản về lý thuyết cạnh tranh trong
Cạnh tranh là hiện tượng phổ biến mang tính tất yếu, là một quy luật cơ bản

-


K

trong nền kinh tế thị trường.

IN

-

H

điều kiện kinh tế thị trường hiện nay như sau:

Cạnh tranh có tính chất hai mặt: tác động tích cực và tác động tiêu cực. Cạnh

̣C

tranh là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các chủ thể kinh doanh hoạt động hiệu quả hơn

O

trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả vì sự sống còn và phát triển của

̣I H

mình. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có nguy cơ dẫn đến sự giành giật, khống chế lẫn
nhau… tạo nguy cơ gây rối loạn và thậm chí đổ vỡ lớn. Để phát huy được mặt tích cực

Đ
A


và hạn chế mặt tiêu cực, cần duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp và
kiểm soát độc quyền, xử lý cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể kinh doanh.
- Trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh chuyển từ quan điểm đối kháng sang

cạnh tranh trên cơ sở hợp tác, cạnh tranh không phải là khi nào cũng đồng nghĩa với
việc tiêu diệt lẫn nhau, triệt hạ nhau. Trên thực tế, các thủ pháp cạnh tranh hiện đại
dựa trên cơ sở cạnh tranh bằng chất lượng, mẫu mã, giá cả và các dịch vụ hỗ trợ.
- Như đã điểm qua ở trên, các quan niệm về cạnh tranh là rất nhiều và cho
đến nay vẫn chưa có một khái niệm nhất định, thống nhất về cạnh tranh. Tuy nhiên,
các quan niệm đưa ra trên đây cũng góp một phần làm sáng tỏ cạnh tranh là gì.

6


Tập hợp những quan điểm trên xin đưa ra một khái niệm về cạnh tranh trong
kinh tế, đặc biệt là cạnh tranh giữa doanh nghiệp:
Trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh luôn liên quan đến quyền sở hữu. Nói cách
khác, sở hữu là điều kiện để cạnh tranh kinh tế diễn ra. “Cạnh tranh” là sự ganh đua
giữa các chủ thể kinh tế (giữa các quốc gia, doanh nghiệp) trên cơ sở sử dụng hiệu quả
các nguồn lực kinh tế kết hợp áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất cũng như
dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu khách hàng bằng sản phẩm chất lượng và giá cả hợp lý

Ế

và “cạnh tranh” cũng tạo ra sự sai biệt giữa các sản phẩm cùng loại thông qua các

U

giá trị vô hình mà doanh nghiệp tạo ra. Qua đó, doanh nghiệp sẽ giành lấy những vị


́H

thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hàng hóa để tối đa hóa lợi nhuận.



1.1.2. Vai trò của cạnh tranh

Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng và

H

trong lĩnh vực kinh tế nói chung. Cạnh tranh không những có mặt tác động tích cực

IN

mà còn có những tác động tiêu cực. Về mặt tích cực:
Ở tầm vĩ mô, cạnh tranh mang lại: Động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp

K

phần vào sự phát triển kinh tế, giúp đất nước hội nhập kinh tế toàn cầu tốt hơn.

̣C

Ở tầm vi mô, đối với 1 doanh nghiệp cạnh tranh được xem như công cụ hữu

O


dụng để:

̣I H

Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp
hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao

Đ
A

hơn... để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng.
Người tiêu dùng được hưởng những sản phẩm hay dịch vụ tốt hơn với giá cả hợp lý.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong
muốn về mặt xã hội cũng như kinh tế.
Làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, gây ra hiện
tượng độc quyền, làm phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo.
Dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật
hay bất chấp pháp luật.

7


Vì lý do trên, cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các
định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước. Bên cạnh đó, cần thay đổi tư duy cạnh
tranh từ đối đầu sang hợp tác cùng có lợi.
1.1.3. Khái quát tiến trình phát triển lý thuyết năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung và cạnh tranh doanh nghiệp nói
riêng đã được nghiên cứu từ rất lâu. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh và việc nghiên
cứu năng lực cạnh tranh một cách có hệ thống lại bắt đầu khá muộn và chỉ mới từ


Ế

những năm 1980 đến nay. Theo kết quả tổng hợp các công trình nghiên cứu về năng

U

lực cạnh tranh của các nhà kinh tế người Anh là Buckley, Pass và Precott, đến năm

́H

1988 có rất ít định nghĩa về năng lực cạnh tranh được chấp nhận.

Còn M. E. Porter một chuyên gia hàng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh



lại chỉ ra rằng cho đến năm 1990, năng lực cạnh tranh vẫn chưa được hiểu một cách
đúng đắn, đầy đủ và chưa có một định nghĩa nào được chấp nhận một cách thống

H

nhất. Cho đến năm 2004, Henricsson và các cộng sự chỉ rõ rằng khái niệm năng lực

IN

cạnh tranh vẫn còn nhiều tranh cãi giữa các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh

K

tế, các nhà báo và các học giả ở nhiều nước.

Khi tổng thuật tài liệu nghiên cứu về năng lực cạnh tranh, một số tác giả như

̣C

Thorne (2002, 2004), Momay (2002, 2005) chỉ ra rằng, bắt đầu từ những năm 1990

O

đến nay, lý thuyết về năng lực cạnh tranh trên thế giới bước vào thời kỳ bùng nổ với

̣I H

số lượng công trình nghiên cứu được công bố rất lớn. Theo Thorne, các lý thuyết về
năng lực cạnh tranh tập trung lại 3 cách tiếp cận sau: lý thuyết thương mại truyền

Đ
A

thống, lý thuyết tổ chức công nghiệp và trường phái quản lý chiến lược.
-

Lý thuyết thương mại truyền thống nghiên cứu năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp dựa trên cách tiếp cận của “kinh tế trọng cung”, chú trọng tới mặt
cung, chủ yếu quan tâm tới khâu “bán hàng” của người sản xuất – kinh doanh. Theo
cách tiếp cận này, tiêu chí đầu tiên của năng lực cạnh tranh là giá cả và do đó sự
khác biệt về giá cả của hàng hóa, dịch vụ được coi là tiêu chí chính để đo lường
năng lực cạnh tranh.
Lý thuyết này chưa chú trọng đúng mức về cầu hàng hóa, dịch vụ cũng như
các yếu tố môi trường kinh doanh. Theo Van Duren và các cộng sự (1991), cách


8


tiếp cận này dẫn tới những sai lầm cố hữu do chưa chú trọng đúng mức đến sự khác
biệt về chất lượng sản phẩm, cách tiếp thị và những dịch vụ hậu mãi của doanh
nghiệp. Để khắc phục hạn chế của cách tiếp cận thương mại truyền thống, cần kết
hợp mặt cung với mặt cầu hàng hóa, dịch vụ khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh
doanh nghiệp.
-

Lý thuyết tổ chức công nghiệp nghiên cứu năng lực cạnh tranh trên cơ sở xác

định thông số tác động tới các hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp, nhấn mạnh tới

Ế

mặt cầu của hàng hóa, dịch vụ, coi trọng yếu tố ngoài giá hơn yếu tố giá cả. Tuy

U

nhiên, cách tiếp cận này không chú trọng đúng mức tới lý luận về năng lực cạnh

́H

tranh, chưa chú ý tới các yếu tố tác động năng lực cạnh tranh như vai trò của Nhà

-




nước hay chính sách.

Trường phái quản lý chiến lược được coi là mô hình khá mạnh nghiên cứu về

năng lực cạnh tranh, làm rõ nguồn lực bảo đảm cho năng lực cạnh tranh.

H

Một số nhà nghiên cứu đã có những công trình nghiên cứu công phu về năng

IN

lực cạnh tranh. Chẳng hạn như Momaya (2002), Ambastha và cộng sự (2005), hoặc

K

các tác giả người Mỹ như Henricsson và các cộng sự (2004)… đã hệ thống hóa và

̣C

phân loại các nghiên cứu và đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo 3

O

loại: nghiên cứu năng lực cạnh tranh hoạt động, năng lực cạnh tranh dựa trên khai

̣I H

thác, sử dụng tài sản và năng lực cạnh tranh theo quá trình.

Năng lực cạnh tranh hoạt động là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh tranh

Đ
A

chú trọng vào những chỉ tiêu cơ bản gắn với hoạt động kinh doanh trên thực tế như: thị
phần, năng suất lao động, giá cả, chi phí v.v… Theo những chỉ tiêu này, doanh nghiệp
có năng lực cạnh tranh cao là những doanh nghiệp có các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh
hiệu quả như năng suất lao động cao, thị phần lớn, chi phí sản xuất thấp…
Năng lực cạnh tranh dựa trên tài sản là xu hướng nghiên cứu nguồn hình
thành năng lực cạnh tranh trên cơ sở sử dụng các nguồn lực như nhân lực, công
nghệ, lao động. Theo đó, các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là những
doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực hiệu quả như nguồn nhân lực, lao động, công
nghệ, đồng thời có lợi thế hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực này.

9


Năng lực cạnh tranh theo quá trình là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh
tranh như các quá trình duy trì và phát triển năng lực năng lực cạnh tranh. Các quá
trình bao gồm: quản lý chiến lược, sử dụng nguồn nhân lực, các quá trình tác nghiệp
(sản xuất, chất lượng…).
Theo thống kê trong nghiên cứu của Momaya và các cộng sự 2005 thì
hướng nghiên cứu coi năng lực cạnh tranh như quá trình duy trì và phát triển năng
lực cạnh tranh được nhiều nhà nghiên cứu chú trọng và phát triển nhất cho đến nay.

Ế

Như vậy, cho đến nay, lý thuyết về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp trên thế


U

giới phát triển theo nhiều khuynh hướng, trường phái và cách tiếp cận khác nhau.

́H

1.1.4. Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những



năm 1990. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh
là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá

H

cả thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng

IN

nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu

K

nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp”. Định nghĩa này cũng được nhắc lại
trong “Sách trắng về năng lực cạnh tranh của Vương quốc Anh” (1994). Năm 1998,

O


̣C

Bộ thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với doanh nghiệp, năng

̣I H

lực cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và vào
đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và

Đ
A

hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác”
Tuy nhiên, khái niệm năng lực cạnh tranh đến nay vẫn chưa được hiểu một

cách thống nhất. Theo Buckley (1988), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần
được gắn kết với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp với 3 yếu tố: các giá trị
chủ yếu của doanh nghiệp, mục đích chính của doanh nghiệp và các mục tiêu giúp
các doanh nghiệp thực hiện chức năng của mình.
Điểm lại các tài liệu trong và ngoài nước, có nhiều cách quan niệm về năng
lực cạnh tranh doanh nghiệp. Dưới đây là một số cách quan niệm về năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp đáng chú ý.

10


Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá phổ biến
hiện nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với
các đối thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp.

Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước
sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách năng lực cạnh
tranh của Mỹ đưa ra định nghĩa: năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về hàng hóa

Ế

và dịch vụ trên thị trường thế giới… Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế có trích

U

dẫn khái niệm năng lực cạnh tranh theo Từ điển Thuật Ngữ chính sách thương mại

́H

(1997), theo đó, năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp “không bị
doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế”. Quan niệm về năng lực cạnh



tranh như vậy mang tính chất định tính, khó có thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ chức

H

Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức

IN

sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu


K

quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc
tế. Theo M. Porter (1990), năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng lực

̣C

cạnh tranh. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn với việc thực hiện các mục tiêu

O

và nhiệm vụ của doanh nghiệp.

̣I H

Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh
tranh. Chẳng hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm (2006) cho rằng, năng lực cạnh tranh của

Đ
A

doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp, tác giả Trần Sửu (2005) cũng có ý kiến tương tự:
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả
năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần
lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững”.
Ngoài ra, không ít ý kiến đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
với năng lực kinh doanh.
Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh tranh vẫn chưa được hiểu
thống nhất. Để có thể đưa ra quan niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù


11


hợp, cần lưu ý những đặc thù khái niệm này như Henricsson và các cộng sự (2004)
chỉ ra: đó là tính đa nghĩa, đa trị, đa cấp, phụ thuộc, có tính quan hệ qua lại, tính
chất động và là một quá trình. Ngoài ra, khi đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, cần lưu ý thêm một số vấn đề sau đây:
Một là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện, bối cảnh
và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trường tự
do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và năng lực cạnh tranh

Ế

đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn đối thủ cạnh tranh; trong điều

U

kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh trên cơ sở tối đa hóa số lượng hàng

́H

hóa nên năng lực cạnh tranh thể hiện ở thị phần; còn trong điều kiện kinh tế tri thức



hiện nay, cạnh tranh đồng nghĩa với mở rộng “không gian sinh tồn”, doanh nghiệp
phải cạnh tranh không gian, cạnh tranh thị trường, cạnh tranh tư bản và do vậy quan
niệm về năng lực cạnh tranh cũng phải phù hợp với điều kiện mới.


IN

H

Hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh giành
giữa các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng các yếu tố sản

K

xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa, mà cả khả năng mở rộng không gian sinh tồn của

̣C

sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.

O

Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được phương thức

̣I H

cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thức truyền thống và các phương
thức hiện đại – không chỉ dựa trên lợi thế so sánh mà dựa vào lợi thế cạnh tranh,

Đ
A

dựa vào quy chế.

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là


khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở
rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm
đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.
Theo đó, năng lực cạnh tranh không phải là chỉ tiêu đơn nhất mà mang tính
tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ tiêu cấu thành và có thể xác định được cho nhóm
doanh nghiệp (ngành) và từng doanh nghiệp.

12


1.1.5. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Đối với khái niệm năng lực cạnh tranh của sản phẩm, cho đến nay các tác
giả, các nhà nghiên cứu kinh tế cũng chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất. Các
khái niệm được đưa ra dựa trên cơ sở là khái niệm về năng lực cạnh tranh của quốc
gia, của doanh nghiệp. Có thể viện dẫn ra đây một số khái niệm được nhiều người
đồng tình nhất đó là:
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó (về các chỉ tiêu) so

Ế

với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường [22].

U

Khái niệm này cho thấy, việc xác định năng lực cạnh tranh của sản phẩm là xác

́H

định mức độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó về giá cả, đổi mới

công nghệ, dịch vụ sau bán hàng…, so với sản phẩm cùng loại mà đối thủ khác



cung cấp trên thị trường, chứ không quan tâm đến việc nó có vượt trội hơn so với
mọi sản phẩm hay không.

H

Một số tác giả khác lại cho rằng: năng lực cạnh tranh của sản phẩm chính là

IN

năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung

K

ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại của các chủ thể sản xuất, cung
ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường và thời gian nhất định [24].

O

̣C

Như vậy mặc dù chưa thống nhất khái niệm, song có thể hiểu rằng, năng lực

̣I H

cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố, nhưng có những yếu tố
chính như: khả năng sử dụng thay thế cho công dụng kinh tế của một loại sản phẩm


Đ
A

khác biệt tương tự với loại sản phẩm đó; yếu tố chất lượng của sản phẩm, yếu tố giá
cả của sản phẩm, có thể thỏa mãn cao hơn yêu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng,
được người tiêu dùng lựa chọn, chấp nhận tiêu thụ, đồng thời đem lại lợi nhuận có
thể chấp nhận được cho nhà sản xuất, cung ứng; ngoài các yếu tố chính trên, còn
nhiều yếu tố khác như kiểu dáng, mẫu mã hình thức sản phẩm, phương thức tiêu
thụ, quảng cáo, bán hàng…
1.1.6. Các yếu tố tác động năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cũng như bản thân doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chịu
tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau. Theo mô hình Kim cương của M. Porter

13


có thể thấy, có ít nhất 6 nhóm yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, điều kiện cầu (thị trường), điều kiện yếu tố (nguồn lực đầu vào), các ngành
cung ứng và liên quan (cạnh tranh ngành), các yếu tố ngẫu nhiên và yếu tố nhà
nước. Tuy nhiên, có thể chia các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp làm hai nhóm: các yếu tố bên trong doanh nghiệp và các yếu tố bên
ngoài doanh nghiệp.
1.1.6.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp

Ế

Có nhiều yếu tố bên trong doanh nghiệp tác động tới năng lực cạnh tranh của

U


doanh nghiệp. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đang sử dụng các chỉ tiêu thuộc 5

́H

nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp trong việc xác định năng lực cạnh tranh gồm:
năng lực quản lý (triết lý kinh doanh, sự tin tưởng vào quản lý nghiệp vụ, sự hiện



diện chuỗi giá trị), chất lượng nhân lực (mở rộng đào tạo nhân viên), năng lực
marketing (định hướng khách hàng, đổi mới mẫu mã, tăng cường tiếp thị, mở rộng

H

thị trường quốc tế, kiểm soát hoạt động phân phối ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới

IN

bán lẻ), khả năng đổi mới, năng lực nghiên cứu và phát triển (chỉ tiêu cho nghiên

K

cứu và phát triển).

Theo cách tiếp cận truyền thống, các yếu tố bên trong của doanh nghiệp ảnh

O

̣C


hưởng đến năng lực cạnh tranh gồm: năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp,

̣I H

trình độ công nghệ, năng lực tài chính, trình độ tay nghề của người lao động… Có
thể phân bổ thành 4 nhóm yếu tố bên trong tác động đến năng lực cạnh tranh của

Đ
A

doanh nghiệp là: Trình độ, năng lực và phương thức quản lý; Năng lực marketing;
Khả năng nghiên cứu phát triển; Năng lực sản xuất.
a. Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố quyết định sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở các mặt sau:
-

Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý: Trình độ của đội ngũ này không chỉ

đơn thuần là trình độ học vấn mà còn thể hiện những kiến thức rộng lớn và phức
tạp thuộc rất nhiều lĩnh vực liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh

14


nghiệp, từ pháp luật trong nước và quốc tế, thị trường, ngành hàng, … đến kiến
thức về xã hội, nhân văn.
- Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp: thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ

cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận.
Việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng tinh, gọn, nhẹ và
hiệu quả cao có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm hiệu quả quản lý cao, ra
quyết định nhanh chóng, chính xác, mà còn làm giảm tương đối chi phí quản lý của

Ế

doanh nghiệp. Nhờ đó mà nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

U

- Trình độ, năng lực quản lý của doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch

́H

định chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp… Điều này có ý
nghĩa lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn



và dài hạn và do đó có tác động mạnh tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.

H

b. Trình độ thiết bị, công nghệ

IN

Thiết bị, công nghệ sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến


K

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời
gian sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản

O

̣C

phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm của

̣I H

doanh nghiệp. Công nghệ còn tác động đến tổ chức sản xuất của doanh nghiệp,
nâng cao trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của doanh nghiệp.

Đ
A

c. Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp, lao động vừa là yếu tố đầu vào vừa là lực lượng trực

tiếp sử dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Lao
động còn là lực lượng tham gia tích cực vào quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa
quá trình sản xuất và thậm chí góp sức vào những phát kiến và sáng chế… Do vậy,
trình độ của lực lượng lao động tác động rất lớn đến chất lượng và độ tinh xảo của
sản phẩm, ảnh hưởng lớn đến năng suất và chi phí của doanh nghiệp. Đây là một
yếu tố tác động trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để nâng cao sức
cạnh tranh, doanh nghiệp cần chú trọng bảo đảm cả chất lượng và số lượng lao


15


động, nâng cao tay nghề của người lao động dưới nhiều hình thức, đầu tư kinh phí
thỏa đáng, khuyến khích người lao động tham gia vào quá trình quản lý, sáng chế,
cải tiến…
d. Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng
huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính… trong doanh
nghiệp. Trước hết, năng lực tài chính gắn với vốn – là một yếu tố sản xuất cơ bản và

Ế

là một đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn

U

nhanh… có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản

́H

phẩm. Đồng thời, vốn còn là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác.
Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê nhân



công, mua sắm thiết bị, công nghệ, tổ chức hệ thống bán lẻ… Như vậy, năng lực tài
chính phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc


H

phải có nếu muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao năng lục

IN

cạnh tranh.

K

Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải củng cố và phát triển
nguồn vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức. Đồng thời, phải

̣C

sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả để tạo uy tín

O

đối với khách hàng, với ngân hàng và những người cho vay vốn.

̣I H

e. Năng lực marketing của doanh nghiệp và khả năng xác định lượng cầu
Năng lực marketing của doanh nghiệp là khả năng nắm bắt nhu cầu thị

Đ
A

trường, khả năng thực hiện chiến lược 4P (Product, Place, Price, Promotion) trong

hoạt động marketing. Khả năng marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần
tiêu thụ sản phẩm, nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố rất quan
trọng tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa phát triển, văn minh tiêu dùng ngày càng
cao, thì người tiêu dùng càng hướng tới tiêu dùng những hàng hóa có thương hiệu
uy tín. Vì vậy, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là một tất yếu đối với những
doanh nghiệp muốn tồn tại trên thị trường.

16


Mặt khác, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều khâu như
tiêu thụ, khuyến mãi, nghiên cứu thị trường… do đó dịch vụ bán hàng và sau bán
hàng đóng vai trò quan trọng đối với doanh số tiêu thụ - vấn đề sống còn của mỗi
doanh nghiệp.
f. Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp
Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp là yếu tố tổng hợp gồm
nhiều yếu tố cấu thành như nhân lực nghiên cứu, thiết bị, tài chính cho hoạt động

Ế

nghiên cứu và phát triển (R&D), khả năng đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp.

U

Năng lực nghiên cứu và phát triển có vai trò quan trọng trong cải tiến công nghệ,

́H


nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất, hợp lý hóa
sản xuất.



g. Yếu tố liên quan đến mức độ cạnh tranh lĩnh vực kinh doanh của doanh
nghiệp, vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh

H

Vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp cùng loại khẳng định mức

IN

độ cạnh tranh của nó trên thị trường. Doanh nghiệp nào lựa chọn lĩnh vực có mức

K

độ cạnh tranh càng thấp thì càng thuận lợi, vì vậy, hiểu biết thị trường để quyết định
kinh doanh ở lĩnh vực có mức độ cạnh tranh thấp là yếu tố quan trọng dẫn đến sự

O

̣C

thành công và mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong môi

̣I H

trường cạnh tranh lành mạnh sẽ có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp nhiều hơn là

môi trường độc quyền.

Đ
A

Vị thế của doanh nghiệp được thể hiện qua thị phần sản phẩm, uy tín thương
hiệu sản phẩm đối với người tiêu dùng và sự hoàn hảo của các dịch vụ.
Ngoài ra, một số yếu tố khác nhau như lợi thế về vị trí địa lý, ngành nghề

kinh doanh của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp… có ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.6.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Có rất nhiều nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) dựa trên mô hình Kim cương của M.Porter
để đưa ra các yếu tố bên ngoài tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

17


dưới tiêu đề môi trường kinh doanh của doanh nghiệp” với 56 chỉ tiêu cụ thể (các
chỉ tiêu này được lượng hóa để xếp hạng cho các quốc gia) thuộc 4 nhóm yếu tố
như sau: các điều kiện yếu tố đầu vào (kết cấu hạ tầng vật chất – kỹ thuật; hạ tầng
hành chính, nguồn nhân lực, hạ tầng công nghệ, thị trường tài chính); các điều kiện
về cầu (sở thích của người mua, tình hình pháp luật về tiêu dùng, về công nghệ
thông tin…); các ngành cung ứng và ngành liên quan (trình độ phát triển của các
ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ, liên quan); bối cảnh đối với chiến lược và cạnh

Ế

tranh của doanh nghiệp (động lực và cạnh tranh: các rào cản vô hình, sự cạnh tranh


U

của các nhà sản xuất địa phương, hiệu quả của việc chống độc quyền).

́H

Theo logic truyền thống, các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp được chia thành
các nhóm sau đây: thị trường, thể chế - chính sách, kết cấu hạ tầng, các ngành hỗ trợ…



a. Thị trường

Thị trường là môi trường kinh doanh rất quan trọng đối với doanh nghiệp.

H

Thị trường vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm đầu vào thông qua hoạt động

IN

mua – bán hàng hóa dịch vụ đầu ra và các yếu tố đầu vào. Thị trường còn đồng thời

K

là công cụ định hướng, hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp, thông qua mức cầu,
giá cả, lợi nhuận… để định hướng chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Như vậy, sự ổn

O


̣C

định của thị trường có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp

̣I H

nói chung và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng. Để phát huy vai
trò của các yếu tố thị trường đối với doanh nghiệp, cần có sự can thiệp của nhà nước

Đ
A

vào thị trường nhằm ổn định thị trường, thông qua việc xây dựng và thực hiện tốt,
nghiêm pháp luật thương mại, tạo lập môi trường thị trường cạnh tranh tích cực và
hiệu quả, chống gian lận thương mại, hạn chế độc quyền kinh doanh,…
Điều quan trọng là tạo lập môi trường thị trường cạnh tranh tích cực, tăng
sức ép đổi mới quản lý, cải tiến quy trình sản xuất, ứng dụng thành tựu khoa học –
công nghệ, đổi mới và đa dạng hóa sản phẩm,… tạo động lực cho doanh nghiệp để
vươn lên.
Trong điều kiện thị trường lành mạnh và ổn định thì doanh nghiệp mới có
điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Ngoài ra, cần tạo

18


điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường, tạo ra nhiều nhà cung cấp cũng như
nhiều đối tác kinh doanh, nhiều khách hàng cho doanh nghiệp.
b. Thể chế, chính sách
Thể chế, chính sách là tiền đề quan trọng cho hoạt động của doanh nghiệp.

Nội dung của thể chế, chính sách bao gồm các quy định pháp luật, các biện pháp
hạn chế hay khuyến khích đầu tư hay kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ, ngành
nghề, địa bàn… Thể chế chính là các biện pháp điều tiết cả đầu vào và đầu ra cũng

Ế

như toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, đây là nhóm yếu tố rất

U

quan trọng và bao quát rất nhiều vấn đề liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp

́H

nói chung và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng.
Các thể chế, chính sách đối với doanh nghiệp có thể được đánh giá theo từng



chính sách hoặc bằng chỉ tiêu tổng hợp với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chẳng
hạn: về đăng ký kinh doanh, chính sách đất đai, tình hình thanh tra – kiểm tra, chính

H

sách phát triển, tính minh bạch, chi phí giao dịch, năng động của chính quyền.

IN

c. Kết cấu hạ tầng


K

Kết cấu hạ tầng bao gồm hạ tầng vật chất – kỹ thuật và hạ tầng xã hội, bao gồm
hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông tin, hệ thống giáo dục – đào tạo…

O

̣C

Đây là tiền đề quan trọng, tác động mạnh đến hoạt động của doanh nghiệp, ảnh hưởng

̣I H

đến chất lượng và giá cả của sản phẩm. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã sử dụng tới
tiêu chí phản ánh kết cấu hạ tầng trong tổng số 56 tiêu chí đánh giá về môi trường kinh

Đ
A

doanh được sử dụng để tính năng lực cạnh tranh quốc gia.
Để bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động bình thường và nâng cao năng lực

cạnh tranh, cần có hệ thống kết cấu hạ tầng đa dạng, có chất lượng tốt. Điều đó đòi
hỏi có sự đầu tư đúng mức để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
d. Các ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ
Hoạt động sản xuất kinh doanh với mỗi doanh nghiệp sẽ liên quan tới một
chuỗi các ngành khác và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như: những ngành cung cấp
nguyên liệu đầu vào, dịch vụ vận tải, cung cấp điện, cung cấp nước… Nếu sử dụng
các dịch vụ với chi phí thấp, chất lượng phục vụ tốt sẽ tạo ra lợi thế cho doanh


19


nghiệp tăng năng lực cạnh tranh, bởi vì mỗi lĩnh vực hoạt động sẽ có cơ hội để thực
hiện mức độ chuyên môn hóa cao hơn làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trong nền sản xuất hiện đại, cùng với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì
sự liên kết, hợp tác cũng phát triển mạnh mẽ. Thực tế chỉ ra rằng, khi trình độ sản
xuất càng hiện đại thì sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn.
e. Trình độ nguồn nhân lực
Trình độ nguồn nhân lực quốc gia nói chung có vai trò rất quan trọng đối với

Ế

sự phát triển doanh nghiệp. Trong nền sản xuất hiện đại, đặc biệt là trong xu hướng

U

chuyển sang nền kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia hay của

́H

một vùng lãnh thổ là yếu tố được quan tâm nhất khi các doanh nghiệp lựa chọn đầu
tư. Trình độ và các điều kiện về nguồn nhân lực thể hiện ở kỹ năng của nguồn nhân



lực, mức lương, hệ thống lương, điều kiện làm việc, sức khỏe và an toàn, đầu tư cho
đào tạo, vai trò của công đoàn.

H


1.1.7. Các mô hình và phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh doanh nghiệp

IN

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực

K

của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ
được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị

̣C

doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh

O

tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Trên cơ sở các

̣I H

so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập
được lợi thế so sánh với đối thủ của mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể

Đ
A

thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách
hàng của đối thủ cạnh tranh.

Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất

cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và
có hạn chế về mặt khác; vấn đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều này
và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những
đòi hỏi của khách hàng. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần
phải xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt
động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng.

20


Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh
của một doanh nghiệp bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm
và bao gói; kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến
thương mại; năng lực nghiên cứu và phát triển; thương hiệu và uy tín của doanh
nghiệp; trình độ lao động; thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị
phần; vị thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu vận dụng các mô hình đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ
và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp giúp doanh

U

Ế

nghiệp so sánh năng lực cạnh tranh tổng thể của mình với các đối thủ trong ngành là
1.1.7.1. Mô hình “Kim cương” của M. Porter

́H


một giải pháp mang tính khả thi cao. Sau đây, xin giới thiệu một số các mô hình:



Mô hình “Kim cương”, một lý thuyết về cạnh tranh nổi tiếng của M. Porter,
được ông nêu trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” (1990), đã nêu lên các yếu

H

tố quyết định sự cạnh tranh của một quốc gia trong thương mại quốc tế. Theo ông, khả

IN

năng cạnh tranh của một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự
năng động của ngành, của quốc gia đó. Khi thế giới cạnh tranh mang tính chất toàn cầu

K

hoá thì nền tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh

̣C

mà tự nhiên ban cho sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và duy trì vị

O

thế cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế.

̣I H


Mô hình Kim cương của Porter đưa ra khuôn khổ phân tích để hiểu bản chất

Đ
A

và đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (hình 1.1)

Hình 1.1: Mô hình kim cương của M. Porter, 1990
Nguồn: Năng lực cạnh tranh quốc gia, M. Porter, 1990.

21


Mô hình này đã lý giải những lực lượng thúc đẩy sự đổi mới và năng động
của các doanh nghiệp và qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp trên thị trường. Bốn nhóm nhân tố trong mô hình viên kim cương của
M.Porter phát triển trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và tác động quan trọng
đến việc hình thành và duy trì năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp
trong một ngành kinh tế - kỹ thuật nào đó. Sự sẵn có cả về số lượng và chất lượng
các nguồn lực cần thiết cho việc phát triển một ngành có khả năng cạnh tranh; thông

Ế

tin thông suốt về những cơ hội kinh doanh mà các doanh nghiệp có thể tiếp cận;

U

chiến lược của các doanh nghiệp trong khai thác và sử dụng các yếu tố nguồn lực;

́H


quan điểm, triết lý kinh doanh của chủ sở hữu, quản trị viên, các nhân viên trong
doanh nghiệp,… đều có thể “cộng hưởng” thúc đẩy các doanh nghiệp trong một



ngành phải hoạt động hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới nhanh
hơn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Vai trò của Nhà nước là thông qua

H

các chính sách vĩ mô tác động vào cả bốn “mặt” của “viên kim cương” sao cho

IN

chúng cùng phát triển tương xứng, đồng bộ và hỗ trợ lẫn nhau tạo thuận lợi cho các
1.1.7.2. Ma trận SWOT

K

doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương trường quốc tế

O

̣C

SWOT là viết tắt của 4 chữ: Strength - điểm mạnh, Weaknesses - điểm yếu,

Bảng 1.1: Ma trận SWOT


Đ
A

̣I H

Opportunities - cơ hội, Threatens - đe dọa.

Ma trận SWOT là ma trận cho phép đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của công
ty và ước lượng những cơ hội, nguy cơ của môi trường kinh doanh bên ngoài, để từ

22


đó có sự phối hợp giữa khả năng của công ty với tình hình môi trường. Nếu doanh
nghiệp có một ma trận SWOT phân tích kỹ lưỡng và chính xác, công ty có thể nâng
cao sức cạnh tranh qua việc phát huy hiệu quả năng lực bên trong của mình song
song việc nắm bắt tốt các cơ hội cũng như xác định các thách thức trong thời gian
tới. Trái lại, khi doanh nghiệp không thể có được sự chính xác trong đánh giá thị
trường bằng mô hình này, doanh nghiệp sẽ không có những phản ứng kịp thời trước
những biến động từ bên ngoài và không phát huy hết các nguồn lực sản xuất bên

Ế

trong, từ đó dễ dẫn đến những sai lầm to lớn cho doanh nghiệp.

U

Ma trận SWOT có tác dụng giúp doanh nghiệp xây dựng và phát triển 4 loại

́H


chiến lược sau để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình:



- Các chiến lược điểm mạnh – cơ hội (S – O): Sử dụng những điểm mạnh
bên trong để tận dụng cơ hội bên ngoài.

IN

trong để tận dụng cơ hội bên ngoài.

H

- Các chiến lược điểm yếu – cơ hội (W – O): Cải thiện những điểm yếu bên

- Các chiến lược điểm mạnh – đe dọa (S – T): Sử dụng các điểm mạnh để

K

tránh khỏi hay giảm bớt ảnh hưởng của mối đe dọa bên ngoài.

̣C

- Các chiến lược điểm yếu – nguy cơ (W – T): Cải thiện điểm yếu bên

O

trong để tránh hay giảm bớt ảnh hưởng của mối đe dọa bên ngoài.


̣I H

1.1.7.3. Điểm đánh giá năng lực cạnh tranh tổng hợp của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng tiêu dùng, năng lực cạnh

Đ
A

tranh được xác định theo công thức:
DSCTND = ∑ KiPi

[24]

Trong đó:
DSCTND: Điểm đánh giá năng lực cạnh tranh tổng hợp của doanh nghiệ.
Ki: Điểm bình quân tham số i của tập mẫu đánh giá.
Pi: Hệ số quan trọng của tham số i
Mỗi tham số được đánh giá bằng tập mẫu đại diện điển hình có liên qua (nhà

quản trị, các khách hàng...) và tính theo điểm bình quân.

23


Bảng 1.2. Hệ số xác định năng lực cạnh tranh
TT

Chỉ tiêu

Hệ số quan trọng


Thị phần

0,05

2

Tăng trưởng thị phần và lợi nhuận

0,1

3

Vị thế tài chính

0,1

4

Quản lý và lãnh đạo

0,1

5

Chất lượng và giá cả

0,1

6


Trình độ công nghệ

0,1

7

Hình ảnh và danh tiếng thương hiệu

0,1

8

Chi phí đơn vị

9

Hệ thống phân phối

10

Xúc tiến và truyền thông kinh doanh

11

Hiệu suất R&D

12

Kỹ năng quản trị nhân sự


Ế

1

U

0,05



́H

0,05
0,05
0,1
0,1

H

Để có được năng lực cạnh tranh bền vững, các doanh nghiệp cần phát triển

IN

hài hòa các năng lực quan trọng như: năng lực tài chính, năng lực quản trị, năng lực
của nguồn nhân lực, đặc biệt nhấn mạnh năng lực công nghệ, bởi lẽ nhìn từ góc độ

K

của nền kinh tế tri thức thì năng lực công nghệ đóng vai trò quan trọng nhất và


̣C

quyết định nhất.

O

1.2. TẦM QUAN TRỌNG VÀ TIỀM NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA

̣I H

ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT TRONG NƯỚC
1.2.1. Tầm quan trọng của thị trường nội địa

Đ
A

Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia đang phát triển, sức tiêu thụ tại thị
trường nội địa liên tục tăng mạnh và là điểm đến hấp dẫn của nhiều thương hiệu mạnh
trên thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, việc xúc tiến thương mại, chiếm lĩnh thị trường
nội địa và cạnh tranh với hàng ngoại nhập ngày càng trở nên quan trọng trong chính
sách điều hành của Đảng và Nhà nước. Thị trường nội địa được coi là động lực của
tăng trưởng kinh tế. Tầm quan trọng của nó được thể hiện sâu sắc qua các khía cạnh:
- Trong những năm gần đây, cùng với việc đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường
đầu tư, thị trường nội địa đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy GDP liên lục
tăng cao, trở thành đầu kéo cho tăng trưởng kinh tế.

24



Tính riêng trong năm 2009, trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu, kim ngạch
xuất khẩu giảm hơn 10%, FDI giảm hơn 70% nhưng mức bán lẻ trong nước vẫn
tăng lên 18,6% so với năm 2008 và đưa tổng mức bán lẻ và doanh thu hàng hóa
dịch vụ chiếm 77% tổng GDP của cả nước.
- Góp phần đẩy mạnh sản xuất, giải quyết việc làm, đảm bảo an ninh xã hội
Thị trường nội địa trên 89 triệu dân, trong đó 60% dân số trẻ trong độ tuổi
dưới 35 và 72% dân số sống ở vùng nông thôn, thị trường tiêu dùng nội địa Việt

Ế

Nam là giá đỡ thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, qua đó giải quyết hàng chục

U

triệu công ăn việc làm cho người dân, đảm bảo an sinh xã hội.

xuất khẩu gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ

́H

- Hỗ trợ đắc lực tạo nguồn hàng cho xuất khẩu và là chỗ dựa vững chắc khi



Thị trường nội địa Việt Nam lớn mạnh sẽ là tiền đề để hàng hóa Việt nam
vươn ra thị trường thế giới. Bên cạnh đó, trong trường hợp bối cảnh kinh tế toàn cầu

H

suy giảm hay thị trường bên ngoài có nhiều biến động bất lợi ảnh hưởng đến xuất


IN

khẩu thì thị trường nội địa sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp Việt nam duy trì và

K

khôi phục sản xuất.

1.2.2. Tiềm năng của thị trường nội địa

O

̣C

- Yếu tố dân số: Việt Nam hiện nay có dân số trên 89 triệu dân với tốc độ

̣I H

tăng dân số bình quân là 1,2%/năm; với tỷ lệ dân số thành thị và nông thôn tương
ứng là: 29,6% thành thị và 70,4% nông thôn và tỷ lệ về giới là 100nam/98 nữ. Bên

Đ
A

cạnh đó Việt Nam là một nước có tỷ lệ dân số trẻ cao. Theo kết quả Tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2009, dân số trong độ tuổi lao động cả nước là 55 triệu người
(chiếm 64,1% tổng dân số), trong đó có 45,2 triệu người thuộc lực lượng lao động
trong độ tuổi (chiếm 82,2% tổng dân số trong độ tuổi). Với những đặc điểm về dân
số của Việt nam hiện nay đã tạo nên một tiềm năng to lớn của thị trường nội địa.

Tiềm năng về nhu cầu tiêu dùng, tiềm năng về nguồn lao động.
- Thu nhập người dân ngày càng tăng nhanh: GDP của Việt Nam liên tục
tăng trong những năm vừa qua. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình
quân trên đầu người của nước ta ngày càng được cải thiện (năm 2009:

25


×