Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

CÁCH DÙNG BIỆN PHÁP SO SÁNH TU từ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.68 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
I.

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Có lẽ do tiếp xúc khá nhiều với văn chương Trung đại – trang trọng và mĩ lệ,
nên khi tìm hiểu để chọn đề tài cho bài tiểu luận này, chúng tôi ấn tượng sâu sắc
bởi Nguyễn Ngọc Tư – một gái chân chất, mộc mạc và giản dị như chính tên gọi và
dáng hình chị vậy.
Không phải là những người con của đất rừng phương Nam, nên chúng tôi và
nhiều người khác từng nghĩ rằng, nói chung, văn chương miền Nam không thể so
được với sự chỉnh chu truyền thống của văn chương miền Trung, miền Bắc.
Nguyễn Ngọc Tư sẽ làm những người đó phải nghĩ lại. Đọc truyện của Nguyễn
Ngọc Tư, họ sẽ khám phá rằng nếu dùng đúng chỗ, trong tay một tác giả cẩn trọng,
phương ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã miền Nam hoàn toàn có khả
năng cấu tạo một nhánh văn chương đặc biệt, không giống, nhưng chuẩn mực
không kém những miền khác Mỗi truyện viết của Nguyễn Ngọc Tư là một bữa ăn
văn chương thịnh soạn, dọn bày chu đáo, gồm toàn đặc sản miệt vườn, với những
vật liệu hảo hạng, tươi sống. Nên, chúng tôi ham thích thứ ngôn ngữ giản dị, duyên
dáng, ngọt ngào này đến kì lạ. Vì vậy, khi chạm vào mạch văn ngập tràn phương
ngữ Nam Bộ, những hình ảnh so sách rất mộc mạc, chân thực nhưng đầy ý vị ấy,

1


chúng tôi quyết định chọn đề tài này, cho bài tiểu luận của mình, như một sự thử
thách bản thân với phương ngữ của một vùng đất mới thông qua Nguyễn Ngọc Tư.

II.



LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:

Trong những năm 2005 – 2009, không ít nhà văn, nhà báo, nhà phê bình
nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Có nhiều luận văn, luận án nghiên
cứu một cách toàn diện về các đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, hoặc phát
hiện và đi sâu vào làm rõ một vấn đề nổi cộm trong truyện ngắn của chị, như “chất
Nam bộ”, “thế giới biểu tượng”, , “quan niệm nghệ thuật về con người”, “các kiểu
nhân vật”, “nghệ thuật trần thuật”, “các lớp từ vựng giàu sắc thái tu từ”,… Ngày
càng có nhiều bài báo cũng như bài nghiên cứu về nữ tác giả này.
Mặc dù vậy, chưa có một bài viết nào tập trung khai thác cách mà Nguyễn Ngọc
Tư đưa những hình ảnh so sánh vào các sáng tác của mình. Hy vọng bài viết này sẽ
tạo tiền đề cho các nghiên cứu chuyên sâu về sau.

III.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

Trong khuôn khổ bài luận ngắn này, người viết chỉ tập trung nghiên cứu về
phương thức so sánh trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Phạm vi nghiên cứu: tập truyện ngắn Gió lẻ và 4 câu chuyện khác của nhà văn nữ
Nguyễn Ngọc Tư, do Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2008.

IV.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Phương pháp hệ thống – cấu trúc, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI
I

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SO SÁNH TU TỪ:

1. Khái niệm
So sánh là đối chiếu hai đối tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đấy nhằm diễn
tả một cách hình ảnh đặc điểm của đối tượng định nói tới.

2


-

2. Cấu tạo dạng đầy đủ
Có hai vế: vế cần so sánh và vế dùng so sánh.
Có bốn thành tố cấu tạo: đối tượng so sánh; cơ sở so sánh; từ ngữ so sánh; hình ảnh
so sánh; trong đó, thành tố quan trọng nhất, không thể vắng mặt là hình ảnh so
sánh.
“Miệng cười / như thể hoa ngâu.”
ĐTSS

CSSS

TNSS

HASS

3. Phân loại
- Phân loại theo công thức so sánh:

+ A như B (như là, giống như, tựa, tựa như, dường như, …)
“Thân em như tấm lụa đào”
(Ca dao)
+ A bao nhiêu B bấy nhiêu
Cầu bao nhiêu nhịp, lòng sầu bấy nhiêu.”
(Ca dao)
- Phân loại theo độ đầy đủ về cấu trúc:
+ So sánh có cấu trúc đầy đủ
+ So sánh tỉnh lược cấu trúc
• Thiếu cơ sở so sánh:
“Công cha như núi Thái Sơn”
(Ca dao)
Thiếu từ ngữ so sánh:
“Gái thương chồng đang đông buổi chợ, trai thương vợ nắng quái chiều hôm.”


(Tục ngữ)
+

Phân loại theo tương quan cụ thể – trừu tượng:
So sánh cụ thể  cụ thể
“Quả cà chua như chiếc đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm những đêm thâu.”
(Phạm Tiến Duật, Lửa đèn)

+

So sánh cụ thể  trừu tượng
“Tình ta như hàng cây
3



Đã qua mùa bão gió”
(Xuân Quỳnh, Thơ tình cuối mùa thu)
+

So sánh trừu tượng  cụ thể
“Quả bắt đầu chín lự
Ngọt như nỗi nhớ nhà.”
(Anh Thơ, Tiếng chim tu hú)

+

So sánh trừu tượng  trừu tượng
“Anh nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng”
(Chế Lan Viên, Tiếng hát con tàu)

+
+
+
+
+

Phân loại theo một số đề tài như:
Hình ảnh so sánh là những sự vật, hiện tượng trong sinh hoạt hằng
ngày
Hình ảnh so sánh là thiên nhiên
Hình ảnh so sánh là sự vật, tính chất của con người
Hình ảnh so sánh là hiện tượng xã hội

Hình ảnh so sánh là sự vật tưởng tượng, phi thực

4. Ý nghĩa
Phép tu từ so sánh có vai trò chủ yếu là nhận thức. So sánh ví von, hình ảnh
thấm thía của phép so sánh giúp người đọc, người nghe , hiểu sâu sắc nội dung cần
truyền đạt.
Bên cạnh đó, so sánh còn tăng cường sức mạnh bình giá, thể hiện khả năng tạo
hình, diễn cảm; nêu lên một cách tri giác mới mẻ về đối tượng.

V.

NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC
TƯ:

1. Sơ lược về Nguyễn Ngọc Tư:
Nguyễn Ngọc Tư là nữ nhà văn trẻ sinh năm 1976, quê ở Đầm Dơi, Cà Mau.
Bắt đầu cho ra mắt tác phẩm từ năm 2000, Nguyễn Ngọc Tư được xem như một
làn gió mới của nền văn học Việt Nam.
4


Với tâm hồn đậm chất sông nước Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư luôn đem những đề
tài cũ mà mới về Miền Tây đến với độc giả bằng chất văn mộc mạc, giản dị nhưng
cũng đầy sâu lắng, như chính con người chị đến với độc giả.
1 Vài nét về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư:
“Văn của Nguyễn Ngọc Tư nghe như nhạc” – GS. Trần Hữu Dũng. Thật
vậy, mỗi tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là một khúc đời trên nền nhạc dân ca
Nam Bộ. Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn thì thầm của
một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt ngang, nhưng rất đủ, của
một người trẻ bổng nhiên phát giác những bất hạnh của cuộc đời, mà vẫn hi vọng.

Văn Nguyễn Ngọc Tư là văn của lời nói. Cách ngắt câu của cô là cách ngắt của âm
điệu. Cái tài của Nguyễn Ngọc Tư là đem những cảnh tượng rất bình thường,
khoanh lại, biến nó thành châu báu “Cãi qua cãi lại, hai má con ngã ngửa ra, ủa,
hơi đâu mà nói chuyện của người ta.” (Nhà cổ)
Hình ảnh trong thơ của Nguyễn Ngọc Tư cũng mang một nét riêng, thôn
quê, mộc mạc nhưng không xuề xòa, tầm thường, mỗi hình ảnh đều có một vẻ đẹp
mĩ miều đến mê đắm ẩn chứa bên trong khiến người đọc nếu đã chạm tới nó, sẽ
ngẫm hoài không thôi.

CHƯƠNG 2: VIỆC SỬ DỤNG HÌNH ẢNH SO
SÁNH TU TỪ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ.
I

ĐỐI TƯỢNG SO SÁNH TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
NGỌC TƯ:

Hình ảnh so sánh trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư không nhiều, nhưng đủ,
đủ nhấn tâm những thứ cần nhấn, và rất hữu ý, tinh tường. Những đối tượng so
sánh thường là những hình rất đỗi thân thuộc:
- Những sự vật gần gũi trong cuộc sống:
“Xa xa, đằng sau bờ lá, nhà chị ở đó, chữ nhà không bao gồm người chồng cười
hơ hơ hơ, nhà chị là đứa con đang ôm mền gối chui xuống dưới bộ ván mọt ăn lổ
chỗ như cái rổ, nằm chèo queo.”
5


(Một chuyện hẹn hò)
- Những hiện tượng tự nhiên:
“Câu cuối cùng em hạ giọng, nghe nhẹ như một lọn gió bấc buốt qua lớp áo.”

(Của ngày đã mất)
- Những âm thanh trong cuộc sống thường nhật:
“Có thể bà cũng không biết đó là tiếng kêu của em, vì nghe như tiếng chó tru,
tiếng chim đêm thảng thốt, tiếng mèo gào trong bụi cỏ…”
(Gió lẻ)
- Những khoảng thời gian giống nhau:
“Những đêm như thế này em cũng không ngủ.”
(Ấu thơ tươi đẹp)
- Đặc điểm hình dáng của con người:
“Tôi không bao giờ muốn nhớ điều đó, nhưng đôi kính lão, dáng người héo như
chỉ là da bọc lấy những đốt xương rời, mái tóc đã ngã màu bông lau chín… tất cả
những gì thuộc về tôi đều nhắc nhở, tôi đã quá già.”
(Của ngày đã mất)
- Thời gian cho một kiếp người:
“Khi em quay lại với cái áo đầm mới màu vàng chanh, bà Chín bắt đầu khóc hức
lên, chua xót, “trời đất ơi, kiếp người sao mau như nấu gói mì tôm vậy…?””
(Gió lẻ)
- Tâm trạng con người:
“Như anh Tìm Nội khi từ nhà quay trở lại, nhịp thở trong anh rất khác, như
hoang mang, như thắt thẻo, và trái tim đôi khi lay lắt, lúc lại bồn chồn.”
(Gió lẻ)

6


-

Những con vật gần gũi:

“Thằng Củi luôn miệng kể lể, nó bò lên trước, trông như con thằn lằn nằm vắt

trên những tảng đá dựng.”
(Sầu trên đỉnh Puvan)
Sau quá trình khảo sát một số truyện ngắn, chúng tôi nhận thấy:
- Phần lớn các hình ảnh so sánh là những sự vật quen thuộc trong cuộc sống và
những hoạt động trong sinh hoạt của con người.
- Tần số xuất hiện của các hình ảnh so sánh còn lại không có sự chênh lệch nhiều.
- Truyện ngắn Gió lẻ được tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ so sánh nhất và
cũng tập trung gần như đầy đủ nhất các kiểu hình ảnh so sánh như trên.

VI.

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC SỬ
DỤNG HÌNH ẢNH SO SÁNH TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ

Có lẽ, bởi lối sáng tác giản dị, thực tế của mình đã chi phối đến việc sử dụng
các biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm của chị Tư. Các biện pháp nghệ thuật ước
lệ, tượng trưng hầu như vắng bóng trong các tác phẩm của chị, trái lại, so sánh lại
là biện pháp xuất hiện dày đặc nhất trong văn chương Nguyễn Ngọc Tư. Nhờ
những hình ảnh so sánh ấy, lối văn chương của chị rất chân thật và hóm hỉnh, tới
mức, chẳng ai mảy may nghi ngờ có ngụ ý sâu cay nào đằng sau những mảng văn
đầy hóm hỉnh của chị hay không. Bởi vậy, những sự vật, hiện tượng vốn rất mơ hồ
và phức tạp thường thấy trong các tác phẩm của những nhà văn khác được chị đem
về, so sánh một cách rất ngồ ngộ và gần gũi với một sự vật, hiện tượng nào đó
khiến nó trở nên đơn giản, dễ hiểu vô cùng.
Chính sự giản dị, gần gũi kết hợp với sự sáng tạo, mới mẻ đó đã tạo nên những câu
văn so sánh rất lạ, rất hay, rất cụ thể, dễ nắm bắt, dễ cảm nhận. Sự giản dị trong
biện pháp tu từ so sánh của Nguyễn Ngọc Tư xuất phát từ cách chọn lựa những
hình ảnh so sánh đậm chất đời thường. Có thể thấy, những câu văn so sánh mà
chúng tôi chỉ ra trong phần Phụ lục, đều sử dụng những hình ảnh so sánh xoay

quanh cuộc sống thường nhật của con người với những hình ảnh thiên nhiên như
nắng, như gió, như sóng; những hình ảnh con người như đứa trẻ ngủ say, như đôi
7


tay khô cứng của tuổi già, như sự bàng hoàng, hoang mang trong tâm trạng hay
những hình ảnh của đời sống như con thằn lằn nằm vắt trên tảng đá, như dao chém
ngọt, như vắt một chiếc áo ướt,…
Cái độc đáo trong nghệ thuật so sánh của Nguyễn Ngọc Tư, đó là, đem ra so sánh
những cái tưởng chừng như không thể so sánh được. Đó là khi chị ví “thời gian
mềm nhũn, bời rời như cọng bún mắc mưa” trong Vết chim trời, khi cái tên “Á”
của cô gái trong Gió lẻ được chị ví “nghe như tiếng kêu thét đau đớn, như một nỗi
bàng hoàng”, khi cảnh thằng Củi của Sầu trên đỉnh Puvan đứng lóng ngóng lại
được ví “như bị nước nóng đổ đít”… Đọc các sáng tác của chị, ta sẽ còn bắt gặp
nhiều những kiểu so sánh “ngồ ngộ” như thế.
Tất cả những nét riêng đó, chúng tạo nên nét đặc sắc riêng, phong cách riêng cho
truyện ngắn của chị.

TỔNG KẾT
Tóm lại, có thể rút ra rằng, biện pháp so sánh tu từ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư rất gần gũi nhưng cũng rất sáng tạo. Gần gũi vì chị đưa vào đó
hơi thở của cuộc sống đời thường; sáng tạo ở chỗ chị lấy đối tượng so sánh này gắn
vào với hình ảnh so sánh kia, tưởng như không ai so sánh như vậy nhưng chúng lại
không hề khập khiễng mà trở nên mới lạ trong văn chị. Cùng với hệ thống phương
ngữ Nam bộ, không gian văn hoá Nam bộ, giọng điệu ngọt ngào chất Nam bộ, biện
pháp tu từ so sánh rất độc đáo này góp phần làm nên một văn phong rất cá tính, rất
Nam bộ, rất “lạ” Nguyễn Ngọc Tư.

PHỤ LỤC
GIÓ LẺ

- Nhưng sau vài ngày, gã thấy tên cô có gì không ổn, nghe như tiếng kêu thét
đau đớn, như một nỗi bàng hoàng, và nó gợi nhớ cái lỗi bất cẩn của gã, trong khi
vết thương đã gần như lành lặn.
- Nóc căn chòi em ở xù lên phơ phất, như tóc của một người vừa ngủ dậy.

8


- Mỗi lần qua một khúc quanh, hay khi phải phóng tầm mắt xa về phía trước, em
nhận ra nhịp tim của ông giống hệt em, máu chảy về đó rất ơ hờ, lãnh đạm, tựa
như không máu cũng chẳng sao, tim vẫn lay đúng nhịp.
- Mới thiu thỉu, vẫn nghe gió lẻ rờn trên mặt thì cô gái hét lên, nghe như một cái
tách rơi vỡ xuống nền nhà.
- Hồi sáu tuổi, có lần em lén lấy dao cạo râu của cha để tỉa lông cho con chó Lu
Lu, không ngờ vì chuyện đó mà cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em, hỏi mẹ, từng từ
khít như máu rỉ qua kẽ răng, “cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái thứ này?”
- Khi em quay lại với cái áo đầm mới màu vàng chanh, bà Chín bắt đầu khóc hức
lên, chua xót, “trời đất ơi, kiếp người sao mau như nấu gói mì tôm vậy…?”.
- Mặt em, tay em nóng rực như sắp tươm máu ra.
- Câu hỏi đầu tiên mà Dự chuẩn bị sẵn, rất đơn giản, “nhà cửa ở đâu mà đi bụi, hả
em cưng?” nhưng cô gái không trả lời. Cô vẫn không có vẻ gì muốn nói. Giống
như tiếng thét ở Mỹ Đức chỉ là một giấc mơ.
- Đó là câu trả lời mặn sẵng, làm rộp bỏng môi, như nước biển.
- Ba ngày nằm bệnh với Dự như bằng ba năm.
- Ngày Dự đi khỏi nhà với cái đầu cạo trọc bóng, như một lời thề, “không tìm
được bà nội con không về…”.
- Bắt đầu từ miệng, nụ cười bùng ra, gương mặt ông rạng rỡ, như có một hòn
than sẽ sàng cháy, làm rựng hồng lên những tro lạnh chung quanh.
- Có thể bà cũng không biết đó là tiếng kêu của em, vì nghe như tiếng chó tru,
tiếng chim đêm thảng thốt, tiếng mèo gào trong bụi cỏ…

- Khi dừng lại, vào quán nhỏ uống thứ cà phê pha bột bắp lạt nhách, nội Dự sai một
người đàn bà bưng con hải sâm ngang qua, Dự thấy lạ quá gọi vào nhìn cái con vật
lơ đãng vật vờ trong nước như một tảng rêu sẫm màu.
- Tiếng khóc của bà óng suốt, đen nhức nỗi buồn, nó không lẫn màu chua xót, màu
tức giận, màu tủi hờn… Thăm thẳm. Như một cái biển sâu và tối mà bà ngụp
lặn chỉ với đôi tay.
9


- Con Cò quỳ dưới chân em, từ tốn liếm láp đống nôn, cơm khô và cá khô. Cái lưỡi
dài và mềm của nó như thấu vào lòng em đang khô rốc.
- Sáp đèn cầy nham nhở đỏ như máu đông lại, hơ trên lửa, nó sẽ chảy thành
dòng.
- Vợ chồng tui đơn chiếc, nên tui cưng con nhỏ như con đẻ của mình vậy.
- Chị đã bước qua giao ước, chị yêu. Những ghen hờn bắt đầu giống như xảy ra
trong một gia đình, mà gã thì không có phần trong gia đình đó.
- Ăn ngủ dầm dề với tụi lái xe tải đường dài, thứ con gái tệ hơn giẻ rách…
- Nói giống như người… có lần em cũng nghĩ tới.
- Em cũng muốn nói với ông Buồn, em thích ông cười, những lúc đó máu chảy
trong ông thật sự giống như người sống.
- Nhưng nói-giống-người thì em cũng phải nói những lời dối, gây đau, nói để giày
vò nhau…
- Tối nay ông không ngủ lại với chị, chỉ vì bữa cơm quá đỗi đầm ấm, như một
gia đình.
- Em nghe trong anh ta đang sôi lên, máu ập vào tim như sóng, và trái tim đó
như sắp bục ra.
- Như anh Tìm Nội khi từ nhà quay trở lại, nhịp thở trong anh rất khác, như
hoang mang, như thắt thẻo, và trái tim đôi khi lay lắt, lúc lại bồn chồn.
- Gã nhớ những con đường như kẽ chỉ bên bờ vực, chạy ngoằn ngoèo trên những
triền núi đá vôi. Đôi tay người lái xe như múa.

- Hồi lái xe khách xuôi ngược cung đường đó, gã thích bấm còi xe, như những
tiếng gọi chơi vơi.
- Em nhớ cánh cổng nhà, hôm em khép lại và đi. Nó không một tiếng động, êm ái
như một cú lướt.

10


- Ở cái chòi trong rẫy gió Mai Lâm thì không có cửa, chỉ là một cái mành may
bằng bao ximăng, cứng và sột soạt suốt đêm, không phân biệt được âm thanh đó do
con Cò, gió hay của con người. Nó trơ khốc như nhau.
- Rồi khi ông Buồn bước vào căn phòng trọ hẹp và ngộp thở, em bỗng phát hiện ra
âm thanh cửa cũng liên quan nhiều tới bàn tay khép cửa. Nghe vẫn gọn ghẽ, nhẹ
nhàng như khi ông dập cửa xe.
- Nụ cười sẽ tắt lịm mãi trên môi ông, ý nghĩ đó vắt máu em ròng ròng như
người ta vắt một chiếc áo ướt.
ẤU THƠ TƯƠI ĐẸP
- Nếu mười ba, mười bốn tuổi mà âm mưu dập tắt một hơi thở, dù là của chó thì
cũng chẳng hợp chút nào. Dường như người cha cũng đang sắp lại chuỗi suy
đoán như em, mặt ông phảng phất lo âu, môi đã máy mấy lần nhưng không cất
thành lời.
- Những đêm như thế này em cũng không ngủ.
- Sói im lặng, như đã ngủ say rồi.
- Em vẫn thường xem cảnh chen chúc tắm táp như trò ảo thuật, người ta nhàu
nhĩ bước vào và tươi mới, phấn khởi khi trở ra.
- Thằng nhỏ Sói sẽ tan biến như chưa từng có trong đời.
SẦU TRÊN ĐỈNH PUVAN
- Sự bao dung đôi khi gây đau như mũi dao.
- Cũng như chụp ảnh cái hồ nước trống không với chú thích “hai con vịt”, hỏi
vịt đâu anh ta bảo vịt vừa bơi ra khỏi hồ.

- Cô nhìn khuôn mặt đẹp như tạc từ đá của người tình, cô không thấy lạ chút nào
nếu anh lạnh lùng, tàn nhẫn thêm chút nữa.
- Thằng Củi luôn miệng kể lể, nó bò lên trước, trông như con thằn lằn nằm vắt
trên những tảng đá dựng.

11


- Vĩnh còn mong gì hơn, cơn mưa đầu tiên sau hơn bốn trăm ngày nắng như thiêu
như rang, và sầu trổ những bông hoa đầu tiên.
- Thằng Củi lo tối quá không về nhà kịp, nó đứng lóng ngóng như bị nước nóng
đổ đít.
- Củi sướng như sắp ngất đi, nó lôi cái đầu lâu con dê tên Chương ra nói như
khóc, tắm mưa nè mầy, tao đã biểu mầy ráng chờ, thể nào cũng được tắm mưa,
mầy không nghe, mầy chết.
- Vĩnh thì như phát điên, như đang mộng du khi những vòm lá chết của những
cây sầu bỗng phát sáng.
- Chúng cuốn tròn lại như một búp hoa và từ từ rẽ thành từng cánh từng cánh lấp
lánh.
- Nên cô ta ngủ khi bông sầu vẫn nở và vẫn rạng rỡ những sắc màu, ngủ như khi
anh vẫn còn nằm trên người cô.
- Vĩnh gần như quị xuống khi những bông hoa bắt đầu tím thẫm, như màu môi
của Lam, mối tình đầu của anh khi người ta vớt xác cô ở ngã ba sông.
- Lúc Dịu thức dậy, người đã ướt đầm mồ hôi vì hình ảnh cái cây khắc tên thằng
Củi cứ chập chờn đau đáu, thảm thiết như một tấm bia mộ.
- Dịu thức dậy, bông sầu đã rụng tả tơi, những bông sầu bầm lại như máu khô.
- Đỉnh núi mờ sương xào xạc gió, như đang day diết lại lời nguyền.
MỘT CHUYỆN HẸN HÒ
- Không phải là thứ mưa nhão, ướt, đẫm nước, dịu dàng mà Cóc từng quen thuộc,
có cảm giác mưa hơi rát, trơ như một tiếng cười khan.

- Chị héo hắt, lam lũ, lúc nào cũng khô quắt, cả lúc chồng không đánh, chị cũng
gồng lên như gánh một gánh vô hình.
- Như lúc này, mưa cũng bị gió giật, xé bừa ra, tơi tả, tạt ướt cả bắp chân chị, dẫn
cái lạnh chạy buốt sống lưng.

12


- Cảm thấy mình hơi vô lý, chị cười, như ai đơm sẵn nụ cười, và chị gắn hờ lên
miệng.
- Anh lại mơn man cổ chân chị, bây giờ nó đã lạnh, cứng đờ như nước đá.
- Ngay cả tình yêu trong chị vừa giãy chết, anh ta cũng không biết, nên tay cứ miết
mãi trên da chị, giờ đã lạnh như đồng.
- Xa xa, đằng sau bờ lá, nhà chị ở đó, chữ nhà không bao gồm người chồng cười
hơ hơ hơ, nhà chị là đứa con đang ôm mền gối chui xuống dưới bộ ván mọt ăn lổ
chỗ như cái rổ, nằm chèo queo.
- Cóc vói ngó theo, màn mưa che khuất tầm nhìn, thấy cái đầu chị rướn cao, nhấp
nhô như con rùa đang bơi, đầm thì xa, rộng, sóng đang cồn lên, giận dữ.
- Một lần, ghé lại căn chòi hoang, tôi thấy con cóc đang nhìn mình, như khóc.

CỦA NGÀY ĐÃ MẤT
- Câu cuối cùng em hạ giọng, nghe nhẹ như một lọn gió bấc buốt qua lớp áo.
- Tôi không bao giờ muốn nhớ điều đó, nhưng đôi kính lão, dáng người héo như
chỉ là da bọc lấy những đốt xương rời, mái tóc đã ngã màu bông lau chín… tất
cả những gì thuộc về tôi đều nhắc nhở, tôi đã quá già.
- Em ngủ suốt đường đi, ngủ ngon lành như đứa trẻ con.
- Tôi sẽ ở bên em như thế này sao, như một bộ xương đang khô đi, rơi ra từng
lóng một.
- Cây viết tuôn mực như đang khóc.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Phong cách học Tiếng Việt (Đinh Trọng Lạc - Nguyễn Thái Hòa,
1995).
13


2.
3.
4.
5.
6.

Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam (Trần Hữu Dũng, diễn đàn 137 – tháng
2 năm 2004).
Không gian…của Nguyễn Ngọc Tư (Nguyên Ngọc, Báo Sài Gòn tiếp thị số
ra tháng 2 năm 2008).
Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ phương diện nội dung tự
sự (Nguyễn Trọng Bình).
Nguyễn Ngọc Tư, hiện tượng tiêu biểu của 40 năm văn xuôi Việt (Du Tử
Lê).
Luận văn: “Các lớp từ vựng giàu sắc thái tu từ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư” (Nguyễn Thị Mẫn Vy – Tuyển tập báo cáo Sinh viên nghiên cứu
khoa học lần thứ 8, Đại học Đà Nẵng, 2012).

---HẾT---

14




×