Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

NGUYỄN KHUYẾN NHÀ THƠ TRỮ TÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.65 KB, 35 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU

Đến với văn học nửa cuối thế XIX đầu thế kỉ XX ta không thể nào nào không nhắc
đến một “Nguyễn Khuyến chỉ trích thói đời một cách nhẹ nhàng kín đáo, rõ ràng bậc
đại nhân quân tử muốn dùng lời văn trào phúng để khuyên răn người đời”. Có lẽ mọi
người đã quen thuộc với Nguyễn Khuyến trong tư cách là nhà thơ trào phúng thế
nhưng ít người biết được rằng đằng sau những bài thơ trào phúng kia lại là một
Nguyễn Khuyến trữ tình xuất sắc với biết bao vần thơ về tình người, về tình bạn, về
quê hương làng cảnh Việt Nam. Đến với những trang thơ trữ tình nhẹ nhàng của
Nguyễn Khuyến ta thêm yêu những thôn cùng cùng, ngõ hẹp của làng quê Việt Nam,
cảm thông cho những số phận con người trong thời đại bấy giờ và thêm trân trọng
tấm lòng Nguyễn Khuyến đã dành cho non nước ta.


I. VÀI NÉT VỀ THỜI ĐẠI VÀ CON NGƯỜI NGUYỄN KHUYẾN
1.THỜI ĐẠI:
Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử Việt Nam có những
biến đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta từ một nước độc
lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến với yêu cầu bức thiết và cháy bỏng là:
“Độc lập dân tộc và người cày có ruộng”. Chế độ phong kiến Việt Nam cùng với hệ tư
tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc chống ngoại
xâm vì nền độc lập dân tộc.
Trong nội bộ giai cấp địa chủ phong kiến có sự phân hóa sâu sắc. Triều đình nhu
nhược, cam chịu làm tay sai cho thực dân. Vì vậy các phong trào đấu tranh của
nhân dân ta theo ý thức hệ phong kiến (tiêu biểu là phong trào Văn Thân và phong
trào Cần Vương) lần lượt đều bị thất bại. Vào giai đoạn này, chủ nghĩa tư bản đã từ
giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã xác lập
được sự thống trị trên phạm vi thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi, châu


Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của chúng. Đời sống nhân dân ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc vô cùng cực khổ, trong đó có nhân dân Việt Nam dưới
xiềng xích của chế độ thực dân Pháp. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc bắt đầu phát triển và có xu hướng lan rộng.
Ở nước ta, sau khi triều đình nhà Nguyễn bạc nhược ký “hòa ước” đầu hàng, những
năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã
hội Việt Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hóa sâu sắc. Sự xâm nhập của
chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới: Giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản. Sự tác động của tư tưởng tiến bộ ở phương Tây cũng
như cuộc cách mạng Tân Hợi và cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương
Khải Siêu ở Trung Quốc cũng có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, nhất là quá trình
chuyển biến về tư tưởng chính trị. Từ sự xuất hiện tư tưởng canh tân trong khuôn
khổ hệ tư tưởng phong kiến sang tư tưởng dân chủ tư sản và tiến gần đến chủ
nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng chính trị này là sự tiếp thu những giá trị, những tinh
hoa của phương Đông và phương Tây, đặc biệt là tư tưởng dân chủ, tiến bộ phương
Tây.
Mặc dù có những nội dung mới, cách mạng và tiến bộ, thể hiện tinh thần yêu nước
nhiệt tình, căm thù giặc cao độ nhưng do điều kiện, hoàn cảnh lúc bấy giờ, trong tư
tưởng chính trị giai đoạn này có những biểu hiện dao động, mơ hồ, thậm chí có lúc
đi đến thỏa hiệp với thực dân. Từ sự phê phán hệ tư tưởng phong kiến, các nhà dân
chủ tư sản đã đề xuất tư tưởng canh tân vào cuối thế kỷ XIX và sau đó, khởi xướng
tư tưởng dân chủ tư sản ở nước ta vào đầu thế kỷ XX, tạo nên ảnh hưởng lớn đối với
xã hội Việt Nam, làm dấy lên các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

2


diễn ra đa dạng, sôi nổi, nhất là phong trào có khuynh hướng dân chủ tư sản như
phong trào Đông Du (Phan Bội Châu), Đông Kinh Nghĩa Thục (Lương Văn Can,

Nguyễn Quyền), Duy Tân (Phan Chu Trinh)…
Đây là những diễn biến lịch sử cơ bản đã diễn ra trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX.
Bối cảnh lịch sử này đã chi phối tới đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp
nhân dân trong xã hội; tới mọi khía cạnh đời sống. Và đặc biệt nó có ảnh hưởng rõ
rệt và trực tiếp đối với sự phát triển của văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX. Trên
quan điểm vận động của lịch sử, có thể nói, giai đoạn văn học nửa cuối thế kỉ XIX đã
có những thành tựu đáng kể cho nền văn học nước nhà.
Văn học giai đoạn này bắt đầu bằng thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu và kết
thúc bằng thơ văn tố cáo hiện thực xã hội của Tú Xương và Nguyễn Khuyến. Đây
chính là giai đoạn mà ở đó nổi bật lên tên tuổi của những nhà văn nhà thơ với
những tác phẩm thể hiện rõ nét tinh thần yêu nước của mình.
Một ai đó đã nói rằng: Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực. Quả đúng như
vậy, tấm gương hiện thực này được chiếu lên bởi sự đóng góp của mỗi nhà văn, nhà
thơ chân chính, có tinh thần yêu nước. Và Nguyễn Khuyến là một trong những nhà
thơ tiêu biểu đó, thông qua những tác phẩm của ông, chúng ta có thể hiểu được
phần nào đặc điểm văn học Việt Nam ở giai đoạn này.
2. CON NGƯỜI
a)Tiểu sử:
Nguyễn Khuyến có tên là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Sinh ngày 15-21835 (tức 18 tháng Giêng năm Ất Mùi).
Ông xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có truyền
thống khoa bảng. Bên nội quê gốc ở vung Treo Vọt, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, di cư ra
Yên Đổ, cho đến thời nhà thơ đã được năm trăm năm. Cụ bốn đời Nguyễn Khuyến là
Nguyễn Tông Mại, đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Hiến sát sứ Thanh Hóa. Ông thân sinh
nhà thơ là Nguyễn Tông Khởi (có sách ghi là Nguyễn Liễn), vẫn theo đòi nho học, đỗ
ba khoa tú tài, chuyên nghề dạy học để kiếm sống ở xứ vườn Bùi.
Mẹ Nguyễn Khuyến là Trần Thị Thoan, quê làng Văn Khê, tục gọi là làng Ngòi, nay
thuộc xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Thuở nhỏ Nguyễn Khuyến học cha. Năm 1825, ông đi thi Hương lần thứ nhất cùng
với cha, song không đỗ. Ngay năm sau, địa phương có dịch thương hàn, ông mắc
bệnh suýt chết. Cha và em ruột, bố mẹ vợ cùng nhiều họ hàng thân thuộc đều qua

đời. Gia đình ông lâm vào cảnh “Tiêu điều, xơ xác, đời sống ngày càng đói rét”. Bà mẹ
phải may thuê và đi làm mướn lần hồi, còn ông thường phải “sách đèn nhờ bạn, một
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

3


ngày học mười ngày nghỉ ”. Từ năm 1854, ông đi dạy học lấy lương ăn để tiếp tục
học và đi thi. Song trong các khoa thi Hương tiếp theo 1855, 1858 đều bị trượt.
Nghĩ tôi lại gớm cái mình tôi,
Tuổi đã ba mươi kém một thôi...
Bốn khoá Hương thi không đậu cả,
Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.
Có lúc, ông đã nản đường khoa cử, định chuyển nghề dạy học để kiếm sống và nuôi
gia đình, thì được người bạn là Vũ Văn Báo nhận chu cấp lương ăn và khuyên đến
cùng học với cha mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang (Lý Nhân
ngày nay). Bà mẹ ông cũng ân cần, nghiêm khắc khuyên con chớ thoái chí. Do vậy,
khoa thi 1864 ông mới đỗ Cử nhân đầu trường Hà Nội. Tiếp theo ông thi Hội các
khoa 1865, 1868 đều bị trượt. Ông ở lại Huế, vào học Quốc Tử Giám, khoa năm 1869
lại trượt. Cho đến khoa năm 1871 mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình, khi ông đã
37 tuổi.
Dưới triều Nguyễn, cho đến lúc đó mới chỉ có hai người đỗ Tam nguyên (đỗ đầu cả 3
kỳ thi), thì Nguyễn Khuyến là một. Nhưng khác với Trần Bích San (quê ở Vị Xuyên,
Nam Định), ông phải lận đận gần 30 năm trời đèn sách, với 9 khóa lều chõng, đó là
một cố gắng phi thường.
Đầu tiên, ông được bổ làm Sử quan trong triều; năm 1873, ra làm Đốc học Thanh
Hóa, rồi thăng nhanh lên Án sát tỉnh. Năm 1874, ông phải mang quân chặn quân
khởi nghĩa (mà sử cũ gọi là lệ phỉ) phạm vào tỉnh Thanh ở vùng Tĩnh Gia, Nông
Cống. Đúng lúc ấy bà mẹ ông mất. Ông phải nghỉ ba năm về quê cư tang mẹ. Hết
tang, ông vào triều giữ chân Biện lý bộ Hộ. Năm 1877 ông lại ra làm quan ngoài, giữ

chức Bố chính Quảng Ngãi. Rồi làm Toản tu ở Sử quán, từ 1879 đến 1883, Nguyễn
Khuyến vẫn sống trong cảch thanh bần, lại thêm đau yếu, ông đã có tâm trạng chán
ngán cảnh quan trường.
Năm 1883, quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai. Rồi vua Tự Đức chết (19-71883), triều Nguyễn phải ký hiệp ước Harmand ngày 25 tháng 8 năm 1883. Nguyễn
Khuyến đã được cử làm Phó sứ sang Mãn Thanh. Ông đã ra Bắc, nhưng chuyến đi sứ
ấy bị bãi. Ông lấy cớ đau yếu, xin tạm về quê dưỡng bệnh, thì trung tuần tháng 12
năm 1883, triều Nguyễn cử ông làm tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, song ông không chịu
đến nhận chức, mà chính thức cáo quan về nghỉ hưu khi mới 50 tuổi.
Một phần tư thế kỷ về ở Yên Đổ này có ý nghĩa quyết định để nhà thơ trở thành bất
tử, khi ông tiếp tục sáng tác nhiều và hay hơn nhiều so với thời gian trước đó.
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

4


Ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5-2-1909 (tức 15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu),
thọ 75 tuổi.
b) Sự nghiệp sáng tác:

Nguyễn Khuyến làm quan tất cả có 11 năm từ năm 1872 đến năm 1883, còn phần
lớn cuộc đời của ông gắn bó với quê nhà, một vùng đồng ruộng chiêm trũng. Ông
rất có ý thức về khí tiết của chính mình. Trong khoảng thời gian ông ra làm quan
cho nhà Nguyễn, khi thì ở Huế, khi thì ở các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang,
lúc nào ông cũng sống một đời sống “cần, kiệm, liêm, chính”, không làm việc gì khả
dĩ làm nhơ bẩn đến đạo đức của ông. Ông đã tự ví mình như cái lược quý bằng đồi
mồi dùng để chải cho sạch hết các bụi bẩn. Trong thời gian từ quan về sống tại quê
nhà, Nguyễn Khuyến sống gần gũi với quần chúng nhân dân, do vậy hiểu được
những tâm tình, lo toan của những người xung quanh. Ông làm thơ tặng bạn bè,
tặng anh vợ, tặng ông hàng thịt… làm câu đối viếng người làng, viếng người thợ
rèn, hay mừng đám cưới, mừng tân gia… Nguyễn Khuyến viết rất nhiều về con

người, về thiên nhiên, cảnh vật xung quanh mình. Trước Nguyễn Khuyến, trong văn
chương Việt Nam không thiếu những tác phẩm viết về nông thôn, nhưng hình ảnh
nông thôn trong văn học nói chung còn mờ nhạt. Có thể nói, với Nguyễn Khuyến, lần
đầu tiên nông thôn Việt Nam mới thật sự đi vào văn học.
Nguyễn Khuyến để lại khoảng ba trăm bài thơ chữ Hán và chữ Nôm. Tác phẩm tiêu
biểu: Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, Bạn đến chơi
nhà, Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền
miệng.
II.

THƠ TRỮ TÌNH LÀ GÌ?

Thuật ngữ dùng để chỉ chung các thể loại thơ trữ tình trong đó, những cảm xúc suy
tư của nhà thơ hoặc nhân vật trữ tình trước các hiện tượng đời sống được thể hiện
một cách trực tiếp. Tính chất cá thể hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của
sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn,
thơ trữ tình có khả năng biểu hiện những biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm,
từ các cung bậc của tình cảm cho tới chính kiến, những tư tưởng triết học.
Thuật ngữ thơ trữ tình được sử dụng nhằm phân biệt với thơ tự sự.
Tùy theo truyền thống văn học cụ thể, người ta có thể phân loại thơ trữ tình theo
nhiều cách khác nhau. Trước đây, trong văn học Châu Âu, người ta thường dựa vào
cảm hứng chủ đạo mà chia thơ trữ tình thành bi ca, tụng ca, thơ trào phúng. Ngày
nay người ta dựa vào đối tượng đã tạo nên cảm xúc của nhà thơ hoặc nhân vật trữ
tình để phân chia thành thơ trữ tình tâm tình, thơ trữ tình phong cách, thơ trữ tình
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

5


thế sự, thơ trữ tình công dân. Các cách phân loại như trên đều hết sức tương đối,

nhiều khi xen lẫn và biến dạng.
III. NỘI DUNG THƠ TỮ TÌNH TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN
1. MỘT TÂM HỒN ĐẦY TÌNH YÊU THƯƠNG
a) Tình yêu thiên nhiên

Trải qua bao nhiêu năm lịch sử những sáng tác của Nguyễn Khuyến vẫn luôn để lại
trong ngươi đọc những ấn tượng sâu sắc. Làng quê Yên Đổ đã từng gắn bó, in đậm
trong hồi ức tuổi thơ của tác giả, sau khi từ quan về ở ẩn làng quê nghèo lại gắn bó
với ông suốt quãng đời còn lại. Chính điều này đã tạo nên sự hiểu biết sâu rộng và
tình cảm đẹp đẽ của nhà thơ với cảnh vật nông thôn. Thơ thiên nhiên của ông chỉ
chiếm một phần ba trong số hơn 400 bài thơ ông để lại, nhưng những cống hiến
quan trọng của nhà thơ trên phương diện này đã đưa ông lên vị trí những thi sĩ –
danh họa tầm cỡ của thơ ca cổ điển Việt Nam. Lúc nào ông cũng say sưa, chan hòa
với quê hương. Cảnh sắc được ông miêu tả hết sức sống động và chân thực. Một đề
tài nổi bật của Nguyễn Khuyến là miêu tả cảnh sắc thiên nhiên làng quê, sinh hoạt
của con người thôn quê, hình ảnh yên ả thanh bình của những làng quê Việt Nam
hiện diện rất nhiều trong thơ của ông. Qua từng vần thơ ta thấy rõ được tình yêu
quê hương dạt dào của Nguyễn Khuyến. Nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét rằng
“Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Nguyễn Lộc cũng đã từng
nhận xét: " Trước Nguyễn Khuyến, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng có
những tác phẩm viết về nông thôn, những hình ảnh của nông thôn trong văn học nói
chung còn mờ nhạt. Có thể nói, với Nguyễn Khuyến lần đầu tiên nông thôn Việt Nam
mới thực sự đi vào văn học ".
Mảng thơ phong cảnh được Nguyễn Khuyến viết bằng cả chữ Hán, Nôm nhưng có lẽ
thơ Nôm là tiêu biểu và thành công hơn cả.
*Cảnh làng quê thôn dã
Qua những vần thơ trữ tình tác giả đã vẽ lên những bức tranh về làng quê Việt Nam
với nhiều màu sắc khác nhau. Những bức tranh nông thôn ấy vừa mang vẻ tinh tế,
lại có chút yên ả thanh bình đến lạ. Bức tranh làng quê vào một buổi trưa hè:
Chuông trưa vẳng tiếng người không biết

Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
Làng quê vắng vẻ lạ thường có tiếng chuông chùa nhưng cũng không ai biết. Trong
bức tranh thanh bình ấy hiện lên hình ảnh con trâu đang nghỉ ngơi dưới bóng mát
cây xanh . Con trâu là một phần biểu tượng rất đẹp mang cái nét riêng mà chỉ có ở
nông thôn Việt nam. Yên Đỗ đã khéo léo thu được những nét điển hình của buổi trưa
thôn quê vào những câu thơ. Buổi trưa hè ấy đã khiến bao cõi lòng thấy xốn xang.
Cảnh quê hương bình dị đơn sơ:
Vườn Bùi chốn cũ
Bốn Mươi năm lụ khụ lại về đây
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

6


trông ngoài sân đưa nở mấy chòi cây
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế
Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế
Ôn Công rược nhạt chuốc chiều xuân
Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn…
(Bùi Viên cựu trạch ca- dịch)
Cảnh vật không quá màu mè, không được tô vẽ, chúng đơn giản chỉ là phác họa
những nét tinh túy nhất của hồn quê nhưng chốn cũ ấy đã chạm vào biết bao trái
tim. Quê hương ông đấy Yên Đỗ thật bình dị, mang những nét dân dã, đậm chất quê
nhưng không vì thế mà kém phần sinh động hấp dẫn. Bức tranh làng quê sinh động
cứ thế in sâu vào lòng người.
Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ nguồn cảm hứng dồi dào với mùa thu, với quê hương
qua chùm ba bài thơ thu: “Thu Vịnh”, “Thu Điếu”, “Thu ẩm”. Mùa thu ở miền Bắc rất
đặc biệt với tiết trời trong xanh mát lành dịu nhẹ tựa hồ như một cô gái đang e ấp
chào mùa đông. Tâm hồn con người trong cái tiết trời như thế cũng trở nên thoải

mái và nhẹ nhàng hơn. Và bởi có lẽ : “Thu là thơ của đất trời. Thơ là thơ của lòng
người” cho nên với các nhà thơ mùa thu là mùa của những cảm xúc thương nhớ
không nguôi.Tuy nhiên, vì khoảng cách thời đại khác nhau, nên cách viết về mùa thu
của các nhà thơ cũng không giống nhau. Thơ thu của Nguyễn Khuyến là thơ cả làng
cảnh Việt Nam mộc mạc đơn sơ và gửi gắm ít nhiều tâm sự. Các nhà thơ mới như
Huy Cận, Xuân Diệu thì lại khác họ chỉ mượn cảnh sắc mùa thu để gửi gắm tâm
trạng, nỗi lòng mà thôi.
Mỗi bài thơ thu của Nguyễn Khuyến miêu tả, cảm nhận mùa thu ở một không gian,
thời gian không giống nhau nhưng tất cả đó đều là những cảnh vật rất thật của
nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến không hề ước
lệ, trang trọng, khuôn sáo như trong văn chương sách vở mà chỉ là những cảnh gần
gũi, quen thuộc như trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu,…được tác giả thi vị hóa hết
sức tài tình. Khung cảnh yên ả thanh bình rất thân thuộc của làng quê Việt Nam:
bầu trời xanh ngắt, ao thu trong veo, một cần trúc hắt hiu trong gió, mấy gian nhà
tranh mái rạ,… Chùm thơ mùa thu mang đậm hồn quê xứ sở. Tất cả những ai từng
gắn bó với một vùng quê Việt Nam sẽ không thể kìm được xúc động trước cảnh vật
thân thuộc lạ thường. Nguyễn Khuyến cảm nhận vẻ đẹp làng quê Việt Nam bằng
một tâm hồn vô cùng tinh tế nhờ đó mà cái hồn của làng quê như một làn gió mát
thổi vào trong từng câu chữ. Khung cảnh bình yên với năm gian nhà cỏ đơn sơ:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đen sâu đó lập lòe
(Thu ẩm)
Nơi thi nhân uống rượu làm thơ là ngôi nhà nhỏ bẳng đơn sơ, mộc mạc được lợp
bằng mái rạ lụp xụp. Chính ngôi nhà bằng cỏ ấy đã đại diện cho vùng quê Bắc bộ,
chúng hơn hẳn lầu son gác tía.

Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

7



Một vùng đồng chiêm trũng một năm chỉ cấy được một mùa, còn toàn là ngập nước.
Trong làng chỉ toàn là ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái
tranh nghèo. Những chiếc ao chứa đựng dòng nước trong veo:
Ao thu lạnh lẽo nước tỏng veo
(Thu điếu)
Xuất hiện trên mặt ao là một chiếc thuyền câu làm cho cảnh thu thêm phần nào ấm
cũng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng
miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao!
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
(Thu điếu)
Những hình ảnh tiêu biểu chỉ có ở vùng quê Bắc Bộ như: những con đường nho nhỏ,
những bụi tre khóm trúc:
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Thu điếu)
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu
(Thu vịnh)
Ở làng quê thường có những cái ngõ dẫn đến các ngôi nhà, chúng nhỏ và quanh co
lúc nào cũng vắng người. Ai ở xa về quê chỉ cần nhìn thấy ngõ là cảm giác xao xuyến
lại hiện về. Cái ngỏ nhỏ như 1 phần linh hồn của quê hương. Những cành trúc với
búp lá non cong cong như một chiếc cần câu mềm mại uốn cong trên không trung.
Cần trúc hình ảnh quen thuộc như gợi lên cái nét riêng của vùng đồng bằng Bắc bộ.
Ấn tượng nhất của mùa thu lúc này đó là bầu trời trong xanh, cao vời vợi:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
(Thu vịnh)
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
(Thu điếu)
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
(Thu ẩm)
Từ “xanh ngắt” thể hiện gam màu xanh tuyệt đối và ở cả ba bài thơ ông đều sử dụng

. Màu xanh tươi mát tưới lên hồn người. Màu xanh còn gợi lên chiều cao vời vợi, cao
chót vót của bầu trời. Chính cái cao vời vợi đó như tôn thêm nét đẹp cho tiết trời
ngày thu chỉ có ở làng quê Việt Nam. Tiết trời ấy khiến cho tâm hồn con người
thanh thản dễ chịu hơn bao giờ hết.
Ánh trăng mờ ảo buổi đêm gợi lên bao tình cảm:
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

8


Làn ao long lánh bóng trăng loe
(Thu ẩm)
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc ánh trăng vào
(Thu vịnh)
Trong Thu ẩm nhà thơ nhìn thấy vẻ đẹp long lánh của ánh trăng “bóng trăng loe”.
Dưới ánh trăng mờ ảo đêm khuya, nó như gợi tình hơn với những chuyển động kì lạ.
Đến với Thu vịnh nhà thơ thấy hình ảnh nước biếc.Nước biếc là màu nước đặc
trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh.Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao,
mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ. Cảnh mặt nước khói sương
bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm
vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phụ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn,
có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Nước biếc cỏ tầng khói
phủ thì màu nước không còn biếc nữa mà lãn vào làn khói lam mờ, hoá mông lung,
huyền ảo. Đó là dáng thu dưới mặt đất, sau dáng thu trên bầu trời.
Ngõ nhỏ với những khóm tre khóm trúc, chiếc thuyền nan bé tẻo teo, chiếc ao bèo…
tất cả cảnh vật thật giản dị, mộc mạc nhưng vẫn đẹp lạ thường.
Ngôn ngữ ông sử dụng trong sáng và vô cùng mộc mạc bình dị không hề trau chuốt
nhưng vẫn đủ sức gợi cảm, gợi tình. Người đọc có cảm giác trong thơ ông có sự giao
thoa hòa hợp giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Nguyễn Khuyến với sự

quan sát nhạy bén đã cho ta thấy:
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
(Thu điếu)
Cảnh vật vận động một cách nhẹ nhàng, khẽ khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế
khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Cảnh được miêu ta mặc dù là
động nhưng vì động khẽ khàng quá nên thực chất là lấy động để tả cái tinh của mùa
thu trong không gian chiếc ao quê nhà.
Thu vịnh với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển, không gian cao rộng,
cảnh vật huyền ảo dưới ánh nắng trắng trong thể hiện nỗi lòng tha thiết của nhà
thơ đối với quê hương đất nước. Trong ba bài thơ, có lẽ Thu vịnh mang cái hồn của
cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái nhẹ, cái trong, cái cao. Cả khung cảnh mùa
thu thanh thoát dẫn đến ý hai câu kết: cớ sao ta lại còn bị buộc chân ở đây, sa lầy
trong vòng danh lợi phi nghĩa này? Sao ta chưa ngã mũ từ quan quy khứ như Đào
Uyên Minh cho nhẹ nhõm trong sáng?
Ngoài ba bài thơ thu đặc sắc, Nguyễn Khuyến còn có những bài thơ tả cảnh hè ( Đêm
mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày xuân) rất độc đáo.
*Danh lam thắng cảnh
Bên cạnh việc miêu tả phong cảnh thiên nhiên nơi thôn dã, Nguyễn Khuyến còn
miêu tả lại vẻ đẹp của những danh lam thắng cảnh mà nhà thơ đã từng đặt chân
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

9


đến. Nào là núi Tam Điệp, núi Dục Thúy, núi An Lão, núi Ngũ Hành, rồi cảnh chùa
Đọi, chợ trời Hương Tích, đền trên núi Dạ, sông Thạch Hãn…
Những bức tranh thiên nhiên được nhà thơ thể hiện lúc này không còn bó hẹp trong
phạm vi thôn Vị Hạ, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, Hà Nam nữa mà đã mở rộng ra
phạm vi danh lam thắng cảnh của đất nước. Mỗi tên núi, tên sông, tên chùa đều
được Nguyễn Khuyến miêu tả theo cách riêng. Nhưng qua cái nhìn của nhà thơ, ta

thấy từ sự quan sát thực tế đến khi đưa vào trong thơ, Nguyễn Khuyến đã có sự lựa
chọn và quan sát rất tinh tế. Chẳng hạn trong bài Vịnh núi An Lão.
“Mặt nước mênh mông nổi một hòn,
Núi già nhưng tiếng vẫn còn non,
Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc,
Ghềnh đá long lay ngấn chửa mòn.
Một lá về đâu xa thăm thẳm,
Nghìn nhà trông xuống bé con con,
Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?
Chống gậy lên cao gối chẳng chồn!”
(Vịnh núi An Lão)
Không chỉ làm hiện lên phong cảnh trước mắt nhà thơ mà còn hiện lên tư thế, và vị
thế của ông. Cụ Tam Nguyên lúc này đang chống gậy đứng trên núi nhìn xuống,
quan sát cảnh vật một cách tổng thể. Ta có thể hình dung được lúc nhà thơ đứng
trên núi nhìn xuống thì sẽ thấy cái gì cũng bé nhỏ hẳn đi. Và lúc này phải chăng
chính người ngắm cảnh cũng trở nên nhỏ bé, cô đơn trước phong cảnh bao la hùng
vĩ của quê hương đất nước. Những từ láy “xa thăm thẳm”, “bé con con” vừa chính
xác lại vừa mang tính gợi hình ảnh cao. Ta thấy đằng sau những từ ngữ ấy còn là sự
phát hiện mang tính hứng thú của nhà thơ. Có đi xa, có tận mắt chứng kiến thì nhà
thơ mới thấy được những hình ảnh bất ngờvà sinh động đến như vậy.
Hay ở bài thơ Núi Tam Điệp ta sẽ bắt gặp cái nhìn đầy phóng khoáng của nhà thơ.
Phóng mắt đầu non Tam Điệp rõ,
Ngoảnh đầu dòng nước Cửu Long xa.
Xanh pha sườn núi màu cây lẫn,
Trắng lộn chân mây mặt bể mờ.
Những muốn ăn thề cùng suối đá,
Biết đâu suối đá có tin mà.
( Núi Tam Điệp)
Một bên là núi, một bên là biển lại có màu xanh của cây và màu mây trắng mờ ảo
tạo nên một cảnh vừa hùng vĩ lại vừa nên thơ. Tầm nhìn tinh tế của nhà thơ đồng

thời cũng thể hiện tấm lòng yêu quý cảnh thiên nhiên, đất nước. Cách nhà thơ ngắm
cảnh cũng chứng tỏ ông rất yêu cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước nên mới dùng
thơ để ghi lại niềm xúc cảm của mình và những gì mình mắt thấy tai nghe.
Chim chiều đôi tiếng véo von,
Tình xưa gởi lại nước non bóng tà.
Tiếng lòng của nhà thơ tưởng như đang hòa cùng cảnh sắc quê hương đất nước.
Tấm lòng ấy thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao.

Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

10


Đọc những bài thơ vịnh danh lam thắng cảnh của Nguyễn Khuyến ta bỗng nhận ra
nhà thơ là một người rất say mê những cảnh đẹp của đất nước, ông đi nhiều nơi,
đến nhiều chỗ và làm nhiều bài thơ để vẽ lại phong cảnh và con người nơi đó:
Ai đi Hương Tích chợ trời đi !
Chợ họp quanh năm cả bốn thì.
Đổi chác người tiên cùng khách bụt.
Bán buôn gió chị lại trăng dì.
Yến anh chào khách nhà mây tỏa,
Hoa quả bài hàng điếp cỏ che.
Giá áo, lợn, tằm, tiền, gạo đủ.
Bán mua mặc ý muốn chi chi.
(Chơi chợ trời Hương Tích)
Bài thơ miêu tả cảnh buôn bán tấp nập, nhộn nhịp của chợ trời Hương Tích, sự
phong phú của hàng hóa nơi đây cũng như có nhiều người tập hợp buôn bán. Khung
cảnh của buổi chợ khiến cho người đọc cảm thấy thú vị với tài quan sát của nhà thơ
Yên Đổ, những tưởng ông chỉ quen với việc miêu tả những người nông dân chân lấm
tay bùn thế mà khi miêu tả cảnh tấp nập buôn bán, Nguyễn Khuyễn vẫn bộc lộ nét

duyên riêng trong miêu tả phong cảnh và sinh hoạt của con người trong cảnh.
Nếu cảnh chợ búa đông đúc, vui vẻ thì cảnh chùa Đọi lại hiện ra ở một không gian
khác hẳn, thật giản dị, mà vô cùng thanh tao, thoáng đãng.
Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây ?
Chuông trưa vẳng tiếng người không hiểu,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
Thơ là sự cách điệu của tâm hồn. Đến với thơ của Nguyền Khuyến, ta bắt gặp những
cảnh sắc không thể lẫn của vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. . Nguyễn Khuyến yêu
thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Thiên
nhiên mùa thu của quê hương làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của
Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng
thêm yêu, thêm quí quê hương đất nước của mình. . Đọc những bài thơ của ông
chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất
nước.Chính vì vậy ông được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Với
Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước.
Những bức tranh thu ấy được vẽ nên bằng tấm lòng yêu mến quê hương mình, bằng
tình yêu cuộc sống thanh cao, tĩnh lặng chốn thôn quê của cụ Tam nguyên Yên
Đổ.Thành công của những bài thơ này cũng chứng tỏ tâm hồn tinh tế, ngòi bút tài
hoa của Nguyễn Khuyến. Chúng đưa ông lên địa vị danh dự trong các thi nhân viết
về làng cảnh Việt Nam. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ
vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
b) Tình yêu thương con người

Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

11



Yêu thương con người nhất là người dân quê việt nam ngòi bút của Nguyễn Khuyến
đã miêu tả họ thật là sinh động , thân thương. Có thể nói trái tim ông đã rung lên
cùng một nhịp với trái timcon người lao động nghèo. Nhà thơ hiểu rõ tất cả những
công việc của nhà nông, của nỗi nhọc nhằn quanh năm cực nhọc lam lũ với đồng
áng, làm cho những con người nghèo khổ quanh năm chân lấm tay bùn mà không
khi nào được nghỉ ngơi.
Nguyễn Khuyến là một trong những tác giả nói được một cách xúc động thấm thía
nhất về lo toan những đói no của người dân nghèo trong cuộc đời thường, những ly
hợp buồn vui của tình người. Ngoài những cảnh thanh bình của đồng quê tác giả
còn ghi lại những cảnh thiên tai, đói rách, mất mùa, ngoại xâm. Giọng thơ của ông
những lúc đó trở nên bi thiết như là ông đang nhỏ lệ trước những số phận bất hạnh
của cuộc đời.
Ông than thở cho việc cày cấy vất vả quanh năm mà lại mất sạch chẳng thu được gì:
Có yêu thương con người, thấu hiểu những nỗi thống khổ mà người dân lao động
phải gánh chịu thì ông mới phản ánh chân thực được thực tại khắc nghiệt đó. Ông
miêu tả cảnh sống tằn tiện nhịn nhục của người nông dân:
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng giám mua
(Chốn quê)
Hay cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa đói khổ:
Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm hết hơi lung tung
(Chợ đồng)
Thương con người nghèo khổ quanh năm vất vả không chỉ bị mất mùa đói kém mà
tác giả còn thương cho số phận nhỏ bé, không có tiếng nói trong xã hội luôn bị bọn
địa chủ cường hào đè ép vơ vét. Đó là những bọn nhà giàu không lao động nhưng
cướp thóc lúa của nông dân khi mùa đến, chúng tìm mọi cách để kiếm ăn trên lưng
người nông dân:
Hoa tuyết có ý cứu dân khỏi đói
Chuột lớn kia thù gì mà ăn lúa của ta ?

Tình thương với những con người nghèo khổ, ông không chỉ đau xót trước cuộc đời
cơ cực của họ, ông đã sống với tâm trạng của họvà mơ ước tới một tương lai tốt
đẹp. Tác giả đã miêu tả sinh động niềm vui của người nông dân vào ngày được mùa,
vui đến phung phí, vui cả xâu thịt, cái bánh trưng:
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài ngõ bi bô rủ chung thịt.
(Cảnh tết)
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

12


Nguyễn Khuyến cáo quan về quê nhưng không hề thoát ly cuộc sống. Ngoài tình cảm
yêu nước ra Nguyễn Khuyến gắn bó với cuộc đời bằng nhiều tình cảm khác nhau:
tình thương vợ con,bạn bè, tình làng nghĩa xóm...đó là những tình cảm rất bình
thường trong cuộc sống hằng ngày nhưng trong tác giả những cái bình thường ấy
đã đi vào thơ vănvới một giá trị đặc biệt, trở thành những tình cảm chân thật đáng
quý. Từ những tình cảm rất đỗi bình thường ấy ta thấy ông là một con người tình
cảm và tế nhị. Đối với vợ ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà. Cuộc sống tuy nghèo
nhưng nhờ có người vợ đảm đang chu đáo nên sinh hoạt hằng ngày cũng đỡ hơn.
Khi vợ ông mất ông thật sự rất đau xót, lời ông khóc vợ đã thể hiện tình cảm và tấm
lòng thủy chung, đó là một tình cảm chân thành xúc động, một tiếng khóc thầm kín
trong tâm hồn tác giả: "nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm
thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tưởi chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần
trong mọi việc. Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, tóc búi củ hành,
buông quần lá tọa, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể chuyện trăm năm!..."
Tình yêu thươngđối với con của ông cũng vô bờ bến. Ông luôn quan tâm lo lắng đối
với các con của mình, khi con vào Huế đi thi ông lo lắng:
Bấm đốt con ta đường vào Huế
Hôm nay chắc sẽ qua đèo ngang

Ông dạy con phải học hành nhưng không được xao nhãng việc cày cấy, phải sống
làm xao có ích cho xã hội:
Khu nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất
Nghiệp cũ chẳng có gì, ngoài một bó sách
Các con nối chí ta nên biết
Bút nghiên đừng quên lúa, đậu, cà
(Ngày xuân dặn các con I)
Không chỉ có tình cảm sâu đậm với vợ con, ngay cả với bạn bè ông cũng rất gần gũi.
Nguyễn Khuyến cũng là con người, cũng biết đau xót trước những mất mát gia đình
bạn bè... Ông không chỉ làm thơ làm câu đối về vợ con ông còn làm thơ để tặng bác
thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng thịt,...câu nào bài nào cũng chân thành tha
thiết. Khi nghe tin có lụt ở quê bạn ông viết thư hỏi thăm như một người quê mùa
thật thà:
Ai lên nhắn hỏi bác Châu-cầu
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con mua đắt rẻ,
Vài gian nếp cái ngập nông sâu?
(Nước lụt thăm bạn)
Khi nghe tin Dương Khêu mất tác giả làm bài thơ khóc Dương Khuê nói lên tình
cảm đau xót của mình với bạn
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

13


Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe tin tôi bong chân tay rụng rời
Nguyễn Khuyến buồn khi tuổi già mà bạn bè cứ thưa dần, bởi bạn già cùng lứa
chính là người để chia sẻ, tâm sự, an ủi. Điều này cho thấy sự mong mún được cùng
bạn bè chia sẻ vui buồn của tác giả, đi cùng đi, ở cùng ở:

Ngày trước cùng lên lạy cửa trời
Lâu nay vắng vẻ bặt tăm hơi
Nước non man mác về đâu tá?
Bè bạn lơ thơ sót mấy người !
Hay sự gần gũi, thân thiết và vui vẻ của tình bạn- một thứ tình cảm đẹp khônh hề
toan tính vụ lợi. Tác giả đã miêu tả một cách chân thực trong bài "bạn đến chơi
nhà":
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
...
Bác đến chơi đây ta với ta.
Mở đầu bài thơ là một câu chào hỏi vồn vã, thân tình như reo lên khi người bạn tri
kỉ đến. Bằng giọng văn hóm hỉnhông nêu lên những tiếu thốn về vật chất để khẳng
định một tình bạn gắn bó giữa mình và bạn. Đó phải là một tình bạn cao đẹp vượt
lên trên tất cả những tầm thường về vật chất và của cải để đến với nhau bằng tấm
lòng.
2. MỘT TÂM HỒN ĐẦY NHỮNG SUY TƯ
a) Chí hướng và nguyện ước lúc vào đời

Nguyễn Khuyến một nhà thơ đặc biệt của nền văn học Việt Nam, ông là nhà thơ trữ
tình sâu sắc, một nhà nho yêu nước của thời đại. Khi bước vào đời với truyền thống
gia đình cử nghiệp, bản thân ông đã tự ý thức được mình phải gánh trách nhiệm lớn
lao đối với gia đình và đất nước. Ông luôn ôm ấp những chí hướng, hoài bão lớn
muốn giúp sức cho đời, cho nước. Cũng như các nhà thơ, nhà văn lớn khác ông luôn
muốn thể hiện chí làm trai của mình, muốn vùng vẫy cánh chim bằng tung hoàng
ngang dọc cho phỉ. Nhưng cái chí hướng ấy chỉ được kéo dài một thời gian rồi tàn
lụi đi vì bất lực trước thời cuộc. Tuy vậy ngọn lửa yêu nước, thương dân của ông
vẫn âm ỉ cháy đến cuối cuộc đời. Ông không lúc nào ngưng nghỉ nuôi dưỡng cái chí

hướng, ước vọng cứu non sông đất nước của mình.
Nguyễn Khuyến sinh ra trong gia đình nghèo khó, nhưng để tiếp bước con đường
truyền thống nho gia của gia đình đã đưa ông đến sự lựa chọn phải biến mình thành
đứa con bất biếu, trút mọi gánh nặng cơm áo gạo tiền lên vai người mẹ già để thực
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

14


hiện hoài bão,chí hướng cứu dân, cứu nước, làm rạng rỡ gia đình. Đây là một quyết
định khó khăn, nhưng ông đã đặt xã tắc lên hàng đầu. Ông dấn thân vào chốn quan
trường gánh vác trách nhiệm “ kinh bang tế thế” một trách nhiệm mà nho sĩ, bậc
anh hùng nào cũng phải xem trọng. Trong bài văn sách Thi Đình 1871 đã thể hiện
rất rõ chí hướng của ông. Bài văn đã nói lên vấn nạn tham nhũng của bọn quan lại
chuyên vơ quét của cải nhân dân, những kẻ mua quan bán chức quấy nhiễu dân
lành, ông đưa ra những quan điểm cá nhân, lên án gây gắt cũng như đề xuất những
biện pháp khắc phục. Cho thấy Nguyễn Khuyến không những chứng tỏ tầm hiểu biết
của mình vể chính trị, xã hội mà còn thể hiện bản lĩnh cứng cỏi của một kẻ sĩ.
Nhưng dù có chí hướng cao đến đâu mà đặt vào một xã hội thối nát thì nó cũng bị
tàn lụi. Nguyễn Khuyến chỉ có khoảng hơn ba mươi năm để theo đuổi hoài bão của
mình. Trong suốt thời gian được thực hiện ước nguyện ấy ông đã dốc hết tâmsức
của mìnhđể làm thơ, để cống hiến cho đời. Nhưng chưa thể nói đây là một chặng
đường thơ đột xuất, vì âm hưởng trữ tình còn đơn điệu. Nhưng bù lại thơ ông rất
đặc biệt, thể hiện cái tôi của mình ở chỗ rất ít tuyên ngôn, cho nên thơ ông nhạt màu
về “ ngôn chí”. Tuy nhiên mổi áng thơ ông đều khảm vào đó những chí hướng riêng
tư của mình. Trong bài Vịnh Trần Hưng Đạo, ông ca ngợi tài năng kiệt xuất của
những anh hùng đi trước để làm chí hướng, mục tiêu cho mình:
Xắn áo đỡ trời ôm chí lớn,
Vung tay phá giặc trổ tài cao.
Bể Đông sóng lặn uy dường ấy,

Cõi Việt bia ghi công xiết bao.
Hay ông mong muốn có đủ trí tuệ, bản lĩnh để chống trời như Nguyễn Trãi:
Rắp đêm mưu lược lui quân Bắc,
Thu lại giang sơn rạng giống hồng.
Dậy đất, thanh danh lừng cõi giặc,
Chống trời, sự nghiệp nức non sông.
Thật là một tấm lòng đáng quý của nhà nho yêu nước. Ông luôn mong muốn được
như những anh hùng đi trước có những chiến công hiểm hách, lẫy lừng. Chí hướng
ông muốn tiếp bước ngọn cờ yêu nước của dân tộc. Bên cạnh đó ông luôn trân trọng
và mong mỏi mình cũng có tấm lòng trung kiên như Tô Hiến Thành, một nhân cách
cứng cỏi, tiết tháo như Chu Văn An, không phải ông tham lam muốn có tất cả những
đức tính tốt đẹp về mình. Ta xét hoàn cảnh lúc bấy giờ ở chốn quan trường đầy cám
dỗ, vua chúa ăn chơi sa đọa, có cả giới “ hiệp khách, văn chương”. Vì vậy mà ông
luôn răn mình và lấy gương tốt của những người đi trước làm chí hướng cho mình
noi theo. Ông ra sức phê phán những thói xấu tật hư, ham mê tửu sắc của vua chúa,
phẩn nộ lối lót đường sai trái của bọn “hiệp khách, văn chương” đã đưa đất nước
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

15


đến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân khốn khổ. Trong chính lúc này lòng yêu nước,
thương dân của ông dâng cao đỉnh diểm, chí hướng, quyết tâm của ông càng thêm
cao. Vì vậy trong bài thơ Vịnh Trần Hậu chú ông đã buông ra những vần thơ đầy
ngậm ngùi, chua xót thương cho cảnh “cố quốc thế lương”.
Kinh doanh lâu các lãm sơn hồ,
Đạt đán hàm ca hứng bất cô
Đương nhật nguyệt hoa lâm hết ỷ,
Hà thời mi lộc đáo Cô Tô?
Trường giang khoảnh khắc nhân phi độ,

Cố quốc thê lương cảnh dĩ thù.
Khả hận nhất thân táng tỉnh khứ,
Từ chương, hiệp khách khẳng tòng vô?
Một con người đầy nhiệt huyết khi bước vào đời những gặp cảnh đất nước suy tàn,
hẳn ông không tránh khỏi sự chán nản. Bản thân ông cũng trót một lần dấn thân
vào con đướng hoạn lộ.Nhưng rồi với nhãn quan chính trị của bậc hiền triết, ông đã
nhìn rõ chân tướng của thời đại ông và giữ vững lại một phẩm chất của sĩ phu biết
liêm sĩ và của một người yêu nước chân chính, ông dứt khoát bỏ mọi thứ vinh hoa
phú quý để mình khí tiết sạch trong thật là một con người có ý thức cá nhân cao, đủ
thấy đối với ông nhân cách, chí hướng của mình là quan trọng lớn lao việc “ ta còn
là ta” hay “ta không còn là ta” là vấn đề quan trọng. Chính vì vậy mà ông được xem
là nhà thơ điển hình cho văn học Việt Nam.
Ngoài ra, cũng có thể thấy chí hướng của Nguyễn Khuyến kín đáo bày tỏ qua một số
bài vịnh cảnh, vịnh vật: Miêu tả chim ưng “mắt như chớp, móng như dao” như thể
nói:
“ Kim cổ anh hào vô dị chí,
Đắc thời mimh khởi khuất lung lao”.
( Thu ưng )
Tức là những bậc anh hào xưa nay chí không có gì khác nhau. Gặp thời đâu chịu
khuất trong cõi lòng. Nguyễn Khuyến mượn cánh chim bằng để nói lên cái ý như
phân biệt cái chí giữa kẻ tiểu nhân và người quân tử:
Siêu nhân tự hữu ngang tiêu chí,
Đường nội nguyên phi yến tước tri.
Ta thấy ở đây có sự bắt gặp tư tưởng của Nguyễn Khuyến và các bậc gia Trung
Quốc đã lấy hình ảnh chim bằng đại diện cho người quân tử, chim sẻ đại diện cho
tiểu nhân. Qua đây Nguyễn Khuyến muốn đề cao cái chí của bậc quân tử đi đúng
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

16



hướng giúp cho dân, cho nước, không như chí của tiểu nhân hóa là hại nước hại
dân. Ý chí, ước nguyện của Nguyễn Khuyến không đặt cao ở chỗ báo đáp ơn vua mà
cái chí ở đây phải gắn liền với trọng trách và danh dự của kẻ sĩ. Vì vậy mà ta không
thấy các tác phẩm giai đoạn “ trước khi trở lại vườn bùi” không thấy ông còn hăm
hở “còn ra tay chèo lái trận cuồng phong” của một Nguyễn Công Trứ, cũng không
còn sâu nặng việc phục vụ triều đình như Nguyễn Trãi nữa. Mà ông còn coi trọng
danh dự, khí tiết như Khuất Nguyên trong Ly Tao có nói:
Tránh điều rỗi, mặc đời xoi mói,
Nén chí xưa, cam nỗi xót xa
Thánh hiền xưa cũng như ta :
Thẳng ngay mà chết, ấy là chết trong!
( Ly Tao – Nhượng Tống Dịch )
Có thể nói trước sự suy thoái của triều đình cái chí hướng đem sức mòn, tài hèn của
mình để phục vụ cho đất nước không còn hăng hái nữa. Nó dần tàn lụi và đi dần. Vì
vậy cái ước muốn cá nhân được trỗi dậy, mong muốn một cuộc sống bình thường
nhưng vẫn đau đáu trong lòng ý thức trách nhiệm của bản thân:
Hiểu mai thiên lý dịch,
Vãn thụ cố viên tình.
Khởi bất dục cao ngọa.
Hoài an thực bai danh.
( Phong Doanh Lộ )
Mối quan hệ giữa ước muốn cá nhân và ý thức trách nhiệm đã ràng buộc ông. Là
con người toàn tâm toàn ý phục vụ dân tộc luôn luôn sống trong trạng thái “ biếng
nhắp năm canh chầy, gà đã sớm giục giã” đã làm ông boăn khoăn ta cầu an không
nghĩ đến đất nước thì thật ta đã đánh mất thanh danh không? Cho thấy một con
người có chí hướng cao cả, đáng khâm phục. Ông đã vượt qua khỏi tâm trạng u ám
của một nhân vật bi kịch trước ngã rẻ của cuộc đời để biết hành động cho lí tưởng
yêu nước, yêu dân. Biết tìm và hưởng thụ niềm tin của cuộc sống, đúng như lời thi sĩ
Đức Chiller nói: “ Mọi thiên tài đều hạnh phúc nhờ sự hoàn thiện của bản thân.”

Dường như những năm tuổi trẻ và những ngày mới bước vào chính trường ông đã
rất hứng khởi, ông luôn có niềm tin vào tài chí của mình hăng say trong công việc
nên chí hướng của ông đượcđi đúng. Và sự ma sát với đời, với người đã nuôi dưỡng
chí hướng của mình trong khí tiết trong sạch, một phần nào đó đã thực hiện được
tuy chỉ trong thời gian ngắn nhưng những đóng góp của ông luôn được công nhận.
Tuy chí hướng, ước nguyện Nguyễn Khuyến dừng lại, ông cáo quan về ẩn nhưng từ
chí hướng lớn lao ấy đã giúp ông xoay chuyển được ván cờ sự nghiệp của chính cuộc
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

17


đời mình, từ “ vô vi” biến thành “ hữu vi” , từ bại thành thắng . Thay vì có cái kết
thúc như những sĩ phu yêu nước cùng thời bị “thân bại danh liệt” nhưng ông lại lập
nên một sự văn chương chói lọi ngàn thu cho dân tộc ta, chính nhờ cái chí hướng,
khát vọng tốt đẹp thời trai trẻ của ông đã ban tặng . Vì vậy ông được mệnh danh
một con người ưu tú, một nhân cách Việt Nam tiêu biểu ở thời đại bấy giờ.
b) Những day dứt, bất an trên con đường làm quan

Sau những hoài bão, những khát khao hăm hở được phò vua giúp nước, bước vào
chốn quan trường , con người tâm huyết như Nguyễn Khuyến không khỏi có những
trăn trở, bất an trước những biến động của thời cuộc: hơn một năm sau, thực dân
Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất.
Đất nước bỗng nhiên rơi vào cảnh bế tắc, từ sự cố sức trì kéo thế yên bình tạm bợ
của nhà Nguyễn bị phá vỡ đến cảnh khốn khổ lầm than của dân tình trước loạn lạc,
chiến tranh lại còn hạn lụt… Ngay từ bước đầu thực hiện hoài bão đưa nước nhà
trở lại thời thịnh trị đã vấp phải thực tại gay gắt, tài năng cũng như tâm huyết của
Nguyễn Khuyến đã không thể tác động được gì nhiều, có lẽ vì thế mà văn chương
của ông đã xuất hiện một cái nhìn mới, một cái nhìn mang nặng ưu tư.
* Nhận thức phũ phàng về giá trị của chữ “tài”, chữ “tâm” trong thời cuộc gian nan:

Cái tôi của kẻ sĩ cảm nhận rõ nỗi nhục nếu phải chịu thua kẻ thù: “Tứ giao đa lũy,
thử khanh đại phu chi nhục dã” (Đồn giặc đóng khắp ngoại vi kinh thành, đó là cái
nhục của khanh đại phu – Lễ Ký). Nhưng cái điều day dứt lớn hơn mà Nguyễn
Khuyến đang phải chịu, ấy là đang bị thực tế loại dần ra, trở thành người ngoài
cuộc, khi mà đến vốn học vấn tinh túy nước nhà cũng trở nên vô dụng:
Khói tuôn mặt nước tàu lao vút,
Đá lở sườn non pháo nổ tung.
Đời có thi thư thành vật bỏ,
Trời sinh nước lửa được người dùng!
(Cảm sự)
Nguyễn Khuyến không ôm hận vì “ngoài tài bất sự” mà ông cảm nhận chân giá trị
của chữ “tài”:
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
(Ngày xuân dặn các con)
Và nỗi day dứt ấy càng rõ ràng hơn khi nói về chính bản thân mình trong bài Nhàn
vịnh:
Thuật nghiệp vô tha lán thả dung,

Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

18


Án nhiên nhất thất vũ hoàn trung.
Dĩ ưng bất khí thiên tâm hậu,
Hà hạnh vô thu thánh lượng hồng.
Tài tiểu nan phân đa luỹ nhục,
Vị ty hề bổ tứ thời công.
Vị vong nhất điểm thương sinh niệm,

Hảo hướng Nam Dương khởi ngoạ long.
(Công nghiệp thuật theo người xưa không có gì khác là lười và rỗi,
Được yên ổn trong một ngôi nhà giữa cõi nhân gian
Đã không bỏ tấm lòng trung hậu trời phú cho,
May mắn sao lại không nhận ơn lớn vua ban.
Tài kém không thể chia sẻ nỗi nhục bốn cõi đầy đồn giặc
Chức quan thấp bổ ích gì cho công việc bốn mùa ?
Chưa quên được nỗi niềm đối người dân mọn,
Hãy hướng về đất Nam Dương gọi dậy con rồng đang ngủ)
Điều mâu thuẫn là đang trong thời tại chức, và giữa một tình thế nước sôi lửa bỏng
khắp từ Bắc chí Nam, vậy mà quan Tam nguyên lại có đến mười bài Nhàn vịnh. Ông
trở đi trở lại mấy tứ thơ : vụng, kém tài, việc nhàn, vô vị, chỉ còn cách di dưởng lấy
bản chất của mình, mong sẽ có lúc được phát huy tài năng.

Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

19


* Mong muốn lui về ở ẩn
Càng về sau ý mong chờ được đắc dụng càng nhạt dần, Nguyễn Khuyến bắt đầu có
tư tưởng “muốn trở về vườn cũ”. Ông đặt nhiều câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, của
sự nghiệp. “Sự nghiệp bá vương qua nghìn năm” cũng chẳng còn gì, “chỉ thấy quả
núi Dạ, khói cây man mác” (Dạ Sơn miếu). Có phải chăng đó là nỗi buồn đến bực dọc
trở đi trở lại trong tâm hồn nhà Nho học,trào lên đỉnh điểm dẫn đến ước muốn lui
về, dù rằng bao năm trước đây đó là một tâm hồn hăm hở cống hiến.
* Cuộc đấu tranh trong tâm tưởng
Trong Nguyễn Khuyến lúc này lại mang hai nỗi giằng co: một đằng là ơn vua, là tấm
lòng thương dân lo đời khiến ông đau buồn mà chưa thể từ quan, nhưng đằng khác
ông lại tỉnh táo khi thấy rằng chí của thuở tráng niên chỉ làm mái tóc thêm bạc, đạo

học thì đã vào hồi cuối, văn chương cũng khồng còn giá trị nữa:
Thượng hữu nhân tâm tê nhất điểm
Khả vô thế cục lệ tam thăng
Thủy niên ý chí quy song mấn
Mạt học văn chương nhập hạ tầng
(Hữu cảm)
Nguyễn Khuyến coi cuộc đời là giấc mộng lớn, trong đó hoạn đồ chỉ là “mộng trong
mộng” mà thôi (“Hoàng lương nhất chẩm mộng phục mộng” – Ngẫu hành I)
Dù thế, cuộc đấu tranh giữa “ở và về” vẫn chưa được giải quyết, Nguyễn Khuyến vẫn
trong tâm trạng phân đôi:

Tiêu dao độc tiến lăng phong địch
Bán thượng trùng tiêu bán lạc trần
(Ngẫu hành I)
(Thèm được như khúc sáo tiêu dao vượt lên trong gió
Nửa vút tầng mây, nửa rơi xuống cõi trần)

Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

20


Nguyễn Khuyến bị bao mối ràng buộc:
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời
Hòa ước Hác măng 1884 đã giúp Nguyễn Khuyến chấm dứt tình trạng không dứt
khoát ấy. Ông kiên quyết không nhận chức Tổng đốc Sơn Tây mà vào tận Kinh đô để
xin chiếu chỉ vua cho về nghỉ. Việc quyết định rút khỏi chính trường nhanh chóng và
quyết liệt như vậy cho thấy thái độ của ông đã không tán thành sự chấp nhận quyền
cai trị của thực dân Pháp. Hành động từ quan về làng chứng tỏ ông là một trí thức

thanh cao, trong sạch.
Từ quan đối với Nguyễn Khuyến là một việc nhẹ nhàng nhưng trên con đường trở về
nhà ông lại không hoàn toàn thanh thản, vừa ảm đạm vừa phân mang. Đó là cái
cảm giác “tủi phận” vừa đau yếu mắt mờ, phải bỏ dở nghiệp lớn, buồn cho cuộc đời
dâu bể, đất nước loạn li, hoạn đổ hiểm trở, phải chia xa bạn bè và cả tâm lý hoang
mang, thậm chí “không tin chắc gì” sẽ có được thú nhàn dật khi trở lại quê nhà:
Mặc thụ đồng chương thập nhị niên,
Thử thân nhật vọng thánh triều liên.
Bệnh nhân đa sự thả hưu hĩ,
Phúc hữu nhất xan do quả nhiên.
Khứ quốc khởi vô bằng bối tại,
Quy gia vị tất tử tôn hiền.
Mông lung bả trản tòng kim sự,
Chỉ khủng di ô đáo giản biên!
(Cảm tác)
(Dây thao đen, ấn đồng đã mười hai năm,
Thân này ngày ngày mong được thánh triều thương.
Ốm đau vì nhiều việc, thôi hãy nghỉ,
Dù chỉ một bữa ăn bụng vẫn còn no.
Bỏ nước mà đi nhưng bạn bè vẩn còn lại đó,
Về nhà chưa chắc đã có cháu con hiền.
Nâng chén say tít là việc của ta từ nay,
Chỉ e lại làm nhớ đến sử sách)

Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

21


Đây là lời tâm sự thể hiện đầy đủ và thực chất con người Nguyễn Khuyến khi “hoàn

gia”. Vào thời điểm rẽ ngoặt của cuộc đời mình, con người ấy đã bỏ rơi mất thói
quen thi vị hóa hoàn cảnh để che giấu nỗi lòng. Những sắc thái tương phản trong
tình cảm của Nguyễn Khuyến cho thấy ông đang ở vào một hoàn cảnh bất đắc dĩ, dù
có giấu cũng không được nữa, và từ nay ông sẽ thẳng thắn đối diện với nó.

c) Tâm trạng cô đơn thất vọng trong những năm cáo quan về nghỉ dưỡng.

Với một con người luôn dành nhiều tâm huyết cho việc học tập và luôn hết mình
cống hiến cho đất nước như Nguyễn Khuyến. Tâm trạng cô đơn, tự bộc bạch lòng
mình qua những vần thơ là một nét nổi bật trong thơ chữ Hán của ông. Nguyễn
Khuyến luôn âm thầm giữ lại nỗi cô đơn ấy như một khoảng lặng cho riêng mình khi
ông còn đang rong ruổi trên con đường xây dựng sự nghiệp, đã có những đêm thu
một mình:
Sơn hà liêu lạc tứ vô thanh
Độc tọa thư đường khán nguyệt minh
Hà xứ thu phong xuy nhất diệp,
Dẫn lai vô hạn cố viên tình.
(Thu dạ hữu cam)
Dịch thơ
Bốn mặt non sông phẳng lặng tờ,
Phòng văn tựa ghế ngắm gương Nga.
Lá thu một chiếc bay trong gió,
Khêu gợi bao nhiêu nỗi nhớ nhà
(Hoàng Tạo dịch)
Khi thực dân Pháp lấn càng sâu vào bờ cõi nước ta và nhiều vùng đã bị chúng thâu
tóm, đất nước bước vào thời kì rối ren, nguy kịch, triều đình bộc lộ rõ bộ mặt đầu
hàng, sự suy tàn và hèn nhát. Lòng dân hoang mang, cuộc sống cơ cực nay lại càng
bi đát và thê thảm hơn. Chứng kiến cảnh ngộ ấy, trong hàng khoa giáp quan lại, một
số tiếp nối hào khí dân tộc đứng lên anh dũng chiến đấu chống Pháp. Nhưng phần
nhiều là những kẻ hám danh chịu cúi đầu trước kẻ thù xâm lược làm tay sai cho

chúng; hoặc làm kẻ gian hùng phản bội đàn áp các phong trào chống Pháp để được
leo lên ghế đại thần; hoặc là những tên ưa đi xua nịnh, ton hót, bợ đỡ mà làm quan
to; hoặc là những kẻ bất tài vô dụng bưng tai bịt mắt để giữ lấy địa vị và đục khoét
nhân dân. Nguyễn Khuyến chọn cho mình một con đường khác, ông không cầm
gươm cũng không chịu hợp tác với thực dân mà ông từ quan về quê nhà sống ẩn
dật. Tâm trạng cô đơn, thất vọng lúc này trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết, chẳng
những ông “một mình” ở nơi đất khách mà còn “một mình” ở trong ngôi chùa quen
thuộc ở quê hương:

Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

22


Vị biện sắc không giới,
Đãn cầu nhân thế liên.
Hà xứ tiểu phong dẫn,
Ngạch thủ chuyên sàng miên.
Nhất chung khấu tàn mộng,
Quy lai minh nguyệt thiên.
(Thanh giang tự tỷ thử)
Dịch thơ
Không, sắc chửa phân biệt,
Tình người mong sẻ chia.
Từ đâu gió thoảng tới,
Gối gạch ngủ bên hè.
Chuông giục khua tàn mộng,
Trăng mênh mang đường về.
(Trần Thị Băng Thanh dịch)
Một mình ôm sầu muộn, ông than thở một mình, một mình uống rượu lúc tỉnh lúc

say cũng một mình, rồi lặng lẽ một mình ngắm trăng, ngắm hoa đi dạo… Đến cả khi
gửi thư cho bạn hay khuyên răn con cái, Nguyễn Khuyến cũng không tránh được nỗi
cô đơn, như hai câu trong bài Ký hữu:
Non sông tan tác biết ở nơi nào
Bạn bè hao mòn lấy ai cùng họp mặt
Đọc những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến đa phần độc giả cảm thấy cái nét
buồn nó như thấm vào từng câu chữ, từng ý tứ trong bài thơ. Nhưng cái sắc thái
này lại càng trở nên da diết, thâm trầm và khắc khoải hơn vào những năm cuối đời
của ông.
Trong thơ ông bày tỏ nguyên nhân dẫn đến nỗi niềm ưu uất của mình. Chứng kiến
cảnh đất nước lâm nguy, loạn lạc, lẽ ra đó là thời của các ông – “trai thời loạn” theo
quan niệm truyền thống về chủ nghĩa anh hùng phong kiến. Nhưng bản thân ông tự
thấy mình không hoàn thành được nhiệm vụ này. Nguyễn Khuyến nhìn thấy bộ mặt
xấu xa của thực dân, sự bạc nhược của triều đình nhà Nguyễn và sự đê tiện đến thối
nát nhân cách của những kẻ bán nước, hại dân. Hơn thế nữa Nguyễn Khuyến là
người sớm có cái nhìn sáng suốt về sự vai trò của hệ tư tưởng Nho gia. Có thể nói từ
niềm tin còn xót lại một cách yếu ớt trong Sơ chí Đà Tấn phụng tống đương sự có
ghi “ngày nay hẳn không thiếu những bậc phò tá việc trung hưng”, giờ đây trong tư
tưởng của Nguyễn Khuyến đã xảy ra sự chuyển biến gay gắt đến bất ngờ. Ông nhận
rõ sự bất lực, lỗi thời của mình và của cả một lớp người như ông, ý nghĩ đó là sự tự
phủ nhận vai trò chủ chốt của tầng lớp kẻ sĩ, phủ nhận cả lí tưởng kinh bang tế thế
của Đạo học mà ông đã suốt đời theo đuổi. Trong bài Ký Châu Giang Bùi Ân Niên,
ông chua xót kết luận:
Người đã cùng mà trời chưa định
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

23


Đạo học mất rồi biết đi về đâu

Bốn bể mở ra phong hội mới
Trên nghìn non rau quyết, rau vi cũng già
Một sáng tác của Nguyễn Khuyến cũng cho thấy nỗi thất vọng, trách kẻ sĩ bất lực
cũng chính là tự trách mình và nhận thấy người dùng văn chương quá yếu hèn:
Văn chương thời nay còn dùng gì nữa
Áo xiêm về già hổ thẹn nhiều.
(Xuân nhật thị chư nhi, II)
Cho nên việc Nguyễn Khuyến rút lui còn là tự phán xét mình. Ông chưa bao giờ lấy
việc đi ở ẩn, từ quan là để chứng tỏ nhân cách thanh liêm, ý chí cứng cỏi của mình
và nhân đó mà cao ngạo với đời. Đó là cái khuynh hướng bao trùm lên trên hết là
tấm lòng trong sáng, cái khí tiết thanh cao, tấm lòng son sắc đối với nước nhà, khí
tiết nhà nho yêu nước, truyền thống bất khuất của dân tộc mà ít ai làm được như
Nguyễn Khuyến.
Không chỉ dừng lại những dòng suy nghĩ cho hiện tại mà nhiều lần Nguyễn Khuyến
nói đến “sự gánh vác” của thế hệ sau:
Trên hội phong vân cha đang trước tuổi già
Ngày ngày mong con sẽ cùng đời rong ruổi
( Trích trong Tứ tử Hoan Hội thi trúng Phó bảng)
Tuy nhiên chính Nguyễn Khuyến cũng suy đoán được rằng thế hệ kế tiếp vẫn chưa
tìm ra được phương hướng nào tốt đẹp hơn. Cái buồn ngậm ngùi của ông nhìn học
trò lên đường “định sứ quân” vừa day dứt vừa bồn chồn:
Minh thiên hựu thị giang kiều lộ,
Bại nhứ tàn vân thất nguyệt thiên.
(Tiễn môn đệ Nghĩa định sưa quân, Lê Như Bạch nhân ký kinh thành chư môn đệ)
Dịch thơ:
Sớm mai con lại lên đường qua sông qua cầu
Giữa tiết tháng Bảy mây tan, bông bay xơ xác
Nguyễn Khuyến còn khuyên con nếu mong cho dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc thì
khi đã đỗ đạt cũng chỉ làm chức quan giữ cửa, cố gắng khoan dung cho dân được
phần nào hay phần đó, trong bài thơ Xuân nhật thị tử Hoan có nêu rõ quan niệm

này của ông.
Ngã dĩ từ quan, nhĩ tố quan,
Tố quan năng hội tố quan nan.
Danh cư quá mãn ưu lăng tiết,
Sở hữu nhân bần thả bảo quan.
Đương nhật sự tùy đương nhật ứng,
Nhất phần tứ nhị, nhất phần khoan.
Hành tai, liêu tá xuân phong tặng,
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình

24


Đương nhĩ hư hòa thích táo đan.
Tiễn học trò, tiễn con đi làm quan mà Nguyễn Khuyến ưu sầu, bất đắc dĩ đến thế! Nỗi
đau mất nước, lòng thương dân cùng sự trăn trở cho cuộc sống thực tế đời thường,
sự bực dọc vì những hiện tượng bất như ý đã đưa Nguyễn Khuyến đến tâm trạng bế
tắc, chán nản. Nhiều lần ông nghĩ đến cái chết, coi cái chết như một cách giải thoát
nhẹ nhàng: “Một giấc ngon lành chết hóa xong” (Tự trào). Và nhân đây ông để lại lời
trăn trối với gia đình mình, khẳng định tấm lòng son của mình đối với đất nước, đối
với dân tộc.
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu!
(Trị mệnh)
Thơ Nguyễn Khuyến đậm nét về cái “tôi” trữ tình khắc khoải là nỗi ưu tư lớn lao đến
trở thành ưu uất về tình hình đất nước và sự vô dụng của tầng lớp mình.
3. MỘT TÂM HỒN ĐẦY BI KỊCH

Cùng nằm trong chùm thơ thu được đánh giá là tam tuyệt nhưng Thu điếu có nét
đặc sắc riêng về thể hiện cảnh thu và sự tương hợp giữa cảnh và tình. Đó là sự cộng

hưởng giữa mối sầu ủ sẵn trong cảnh và niềm cô đơn ẩn sâu trong lòng người. Là
nhà thơ của làng quê Việt Nam, gần suốt đời mình ông gắn bó với thôn quê, hòa hợp
và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Vì thế, cảnh vật làng quê trong thơ ông hiện lên
chân thực và giản dị. Đọc Thu điếu ta đã như được đắm mình vào một không gian
thu của vùng tác giả. Sự giàu có những hình ảnh, chi tiết gợi tả đầy tính hiện thực
trong bài thơ cho ta ấn tượng đó. Nét riêng của hồn quê Bắc Bộ, cái hồn dân dã
được gợi lên từ khung ao hẹp, từ cánh bèo, từ ngõ trúc quanh co. Không khí mùa
thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật. Ở màu sắc: nước trong veo,
sóng biếc, trời xanh ngắt. Ở đường nét, sự chuyển động: sóng hơi gợn tý, lá vàng khẽ
đưa vèo, tầng mây lơ lửng. Ở sự hòa sắc tạo hình: “cái thú vị của bài Thu điếu là ở
các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một
màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi” (Xuân Diệu). Ở đây tất cả sự vật
đượcnhắc tới đều xứng hợp với nhau, như tuân theo một trật tự: ao thu nên thuyền
câu bé, gió nhẹ nên sóng gợn tý: Trời xanh nên nước thêm trong; khách vắng teo
nên người ngồi câu cũng trầm ngâm yên lặng; đặc biệt mảng màu xanh của nước,
của tre hòa hợp với màu xanh của trời. Cảnh vật được miêu tả ở bài thơ nổi bật
nhất với đặc điểm trong và tĩnh. Ao nước trong có thể nhìn thấy đáy (trong veo).
Sóng biếc phản chiếu màu mây trời, màu cây cối. Trời ít mây nên càng nổi bật màu
xanh ngắt. Bên cạnh phạm trù trong là thuộc tính tĩnh: mặt ao lặng (lạnh lẽo), sóng
hơi gợn (gợn tý), gió khẽ đưa lá vàng, khách vắng teo, tiếng cá đớp động nghe như
có như không, càng làm tăng sự yên ắng, tịch mịch của cảnh vật.Đến với Thu điếu là
đến với vẻ đẹp của cảnh thu gần gũi, thân thuộc cho mùa thu làng cảnh Việt Nam
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đến với Thu điếu là đến với cõi lòng ẩn kín đầy tâm sự của
thi nhân qua mọi yếu tố cấu thành của bài thơ: từ ngữ, vần, nhịp, sự đối xứng, hòa
thanh, phối sắc. Đến với Thu điếu không phải đến với câu chuyện câu cá bởi phải
chăng đó chỉ là cái cớ để mượn cảnh nói tình theo lối đề vịnh. Nói câu cá nhưng thực
ra là để đón nhận trời thu, cảnh thu vào cõi lòng. Một cõi lòng yên tĩnh, vắng lặng,
một tâm trạng u hoài. Cõi lòng đó được thể hiện qua sự cảm nhận độ trong veo của
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình


25


×