Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Quy định về quyền của người bị giam giữ theo công ước của LHQ về các quyền dân sự chính trị năm 1966 được thể hiện trong chính sách pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.46 KB, 10 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Thi hành bản án hình sự là một khâu chiếm vị trí quan trọng trong quá trình
giải quyết vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự của một người có tội. Thi hành
án hình sự hay hiện thực hóa các quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật trong thực tế chính là việc lấy lại trật tự công bằng trong xã hội, mà cụ thể là
việc bắt buộc người bị kết án phải chịu sự lên án của Nhà nước, của xã hội; phải chịu
sự giáo dục, cải tạo để có thể trở thành người có ích cho xã hội. Với ý nghĩa là giai
đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu
cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án
không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó
cũng trở nên vô nghĩa. Một trong những yếu tố để đảm bảo việc thực hiện mục đích
của thi hành án hình sự đó là quyền của người bị giam giữ được tôn trọng và bảo
đảm thực hiện trong thực tế. Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự,
chính trị năm 1966 quy định về quyền này như sau:
Điều 10:“1. Những người mất tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn
trọng nhân phẩm.
2.a) Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, các bị cáo chưa được xét xử phải
được giam giữ cách biệt với những người đã can án, và phải được đối xử theo quy
chế của những người không can án.
b) Các bị cáo chưa thành niên phải được giam giữ cách biệt với người lớn và
phải được xét xử trong thời hạn sớm nhất, phải được đối xử tùy theo tuổi tác và tình
trạng pháp lý của chúng.
c) Chế độ lao tù phải đặt trọng tâm vào việc cải huấn tù nhân, tạo cho họ cơ
hội cải hóa và hội nhập vào đời sống xã hội.”.
Việt Nam đã trở thành thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về các
quyền dân sự - chính trị năm 1966, do đó chúng ta đã thể hiện, đã cụ thể hóa quy
định này vào chính sách pháp luật thi hành án hình sự. Việc thể hiện chúng ra sao,
như thế nào sẽ được trình bày trong phạm vi bài viết này.

1



B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề chung về quyền con người và chính sách pháp luật thi
hành án hình sự.
Thi hành án là giai đoạn cuối của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nếu các
giai đoạn tố tụng trước đó là các hoạt động chứng minh, làm rõ và xử lý tội phạm thì
thi hành án hình sự sẽ làm cho trách nhiệm hình sự (TNHS) của người phạm tội
được thực thi trong thực tế. Xét dưới góc độ bảo vệ nhân quyền, người bị kết án
thuộc nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Họ phải đối mặt bởi sự lên án gay
gắt và kỳ thị ở các mức độ khác nhau từ phía cộng đồng và phải đối mặt với cả hệ
thống cơ quan thi hành án hình sự. Họ có thể là những nạn nhân thường hay bị xâm
phạm quyền con người chứ không chỉ dừng lại ở mức độ nguy cơ bởi vi phạm quyền
con người thường hay xảy ra ở nơi giam, giữ người phạm tội.
Chính sách pháp luật thi hành án hình sự (THAHS) là một bộ phận cấu thành
của chính sách hình sự, xác định những phương hướng cơ bản có tính chất chỉ đạo
của Nhà nước đối với hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật THAHS và các văn
bản liên quan, nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ thống pháp luật THAHS, lợi ích của
Nhà nước và xã hội; bảo đảm quyền của người chấp hành án, bảo đảm các yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có và không thể bị tước đoạt hay hạn
chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào. Người phạm tội khi thực hiện TNHS
của mình sẽ bị hạn chế hoặc tước đoạt một số quyền con người nhưng không phải
một cách tùy tiện mà phải dựa trên cơ sở các quyết định của bản án có hiệu lực pháp
luật. Do đó, mặc dù bị tước bỏ các quyền và lợi ích theo bản án hình sự mà Tòa án
đã tuyên thì các quyền con người khác của người chấp hành án vẫn phải được tôn
trọng và đảm bảo. Đối với những người chấp hành án là người bị giam, giữ, các
quyền cần phải được đảm bảo là các quyền lao động, học tập, giải trí, thể thao, tín
ngưỡng, gặp gỡ thân nhân…

2



Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 đặt ra
các quy định về trách nhiệm của quốc gia trong việc đảm bảo quyền của những
người bị mất tự do do giam giữ, cụ thể:
Điều 10:
“1. Những người mất tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân
phẩm.
2.a) Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, các bị cáo chưa được xét xử phải
được giam giữ cách biệt với những người đã can án, và phải được đối xử theo quy
chế của những người không can án.
b) Các bị cáo chưa thành niên phải được giam giữ cách biệt với người lớn và
phải được xét xử trong thời hạn sớm nhất, phải được đối xử tùy theo tuổi tác và tình
trạng pháp lý của chúng.
c) Chế độ lao tù phải đặt trọng tâm vào việc cải huấn tù nhân, tạo cho họ cơ
hội cải hóa và hội nhập vào đời sống xã hội.”
Việc đối xử nhân đạo với những người bị tước tự do như quy định trong
khoản 1 Điều 10 là một nghĩa vụ của các quốc gia thành viên. Bản chất của nghĩa vụ
này là phải tôn trọng nhân phẩm của những bị mất người tự do tương tự như nhân
phẩm của những người tự do. Những người bị mất tự do vẫn có những quyền dân sự,
chính trị như trong Công ước đã quy định, chỉ bị hạn chế một số quyền bắt nguồn từ
môi trường bị quản chế. Nghĩa vụ đối xử nhân đạo với những người bị tước tự do
bao gồm việc tuân thủ các quy định về cấm tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc sử dụng họ vào các thí nghiệm y tế hay khoa học mà trái ý muốn của
họ (theo quy định tại Điều 7 đoạn 3 của Công ước). Đối xử nhân đạo và với sự tôn
trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do là một nguyên tắc cơ bản về quyền
con người trong tố tụng hình sự mà đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Các quốc
gia thành viên phải áp dụng nguyên tắc này như một yêu cầu tối thiểu, không phụ
thuộc vào nguồn lực sẵn có của quốc gia và không mang tính phân biệt đối xử dưới


3


bất kỳ hình thức nào. Công ước xác định các quốc gia thành viên cần chủ động thực
hiện những biện pháp thực hiện quyền được đề cập trong khoản 1 Điều 10, bao gồm
các biện pháp lập pháp và hành chính. Quốc gia cần có những biện pháp cụ thể để
giám sát có hiệu quả việc thực thi những quy định về đối xử với những người bị tước
tự do, cần quan tâm đến hệ thống quản lý, việc thiết lập trại giam, các biện pháp
ngăn chặn hành động tra tấn, đối xử và trừng phạt độc ác, vô nhân đạo và hạ nhục,
có hệ thống giám sát vô tư. Điều 10 của Công ước đã xác định rõ ràng hơn nghĩa vụ
của các quốc gia thành viên trong việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình
sự. Theo các nguyên tắc này, không nên coi trại giam là nơi để trừng phạt phạm
nhân mà cần coi đó là nơi để giúp họ hoàn lương.
Và việc đối xử phù hợp với lứa tuổi và tư cách pháp lý của người chưa thành
niên nêu ở khoản 3 Điều 10 phải thể hiện ở những yếu tố như: điều kiện giam giữ tốt
hơn phạm nhân đã thành niên; giờ lao động ngắn hơn; được liên lạc với người
thân…
Là thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị
từ năm 1982, chính sách pháp luật Việt Nam, trong đó có chính sách pháp luật thi
hành án dân sự đã thể hiện các nội dung về quyền của người bị giam giữ. Luật Thi
hành án hình sự năm 2010 ra đời, vấn đề quyền con người trong thi hành án hình sự
có nhiều thay đổi đáng kể, thể hiện sự tiến bộ trong chính sách pháp luật thi hành án
hình sự ở nước ta. Các nhóm quyền của phạm nhân lần đầu tiên được quy định trực
tiếp ở cấp độ đạo luật và được quy định tương đối đầy đủ trong các quy định chung
mang tính nguyên tắc của luật. Quy định cụ thể tại Chương III với 3 mục: Thủ tục
thi hành án và chế độ quản lý giam giữ (từ Điều 21 đến Điều 41); Chế độ ăn, mặc ở,
sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân (từ Điều 42 đến Điều 49); Những quy
định đối với phạm nhân là người chưa thành niên (từ Điều 50 đến Điều 53). Quyền
con người của phạm nhân nữ mặc dù chưa được tách thành mục riêng nhưng đã
được quy định tương đối cụ thể như chế độ cấp phát đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chế

độ ở đối với người có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi sống chung với mẹ, chế độ làm

4


việc phù hợp với lứa tuổi, giới tính, chế độ chăm sóc sức khỏe đối với phụ nữ có
thai….
II. Các quy định về quyền của người bị giam giữ theo Công ước của Liên
Hợp quốc về các quyền dân sự - chính trị năm 1966 được thể hiện trong chính
sách pháp luật Thi hành án hình sự Việt Nam
1. Quyền của người bị kết án tử hình khi bị giam giữ tại trại tạm giam để chờ
kết án.
Thi hành án tử hình là việc cơ quan, người có thẩm quyền tước bỏ quyền sống
của người chấp hành án theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Một trong
những hình thức đảm bảo quyền sống của con người trong thi hành án tử hình là quy
định về những nguyên tắc khi áp dụng hình phạt này đảm bảo "không ai bị tước đoạt
mạng sống một cách tùy tiện". Hình thức thi hành án tử hình cũng là một khía cạnh
thể hiện sự đảm bảo quyền con người. Bảo vệ các quyền con người trong thi hành án
tử hình còn được thể hiện trong những quy định về quyền của người bị kết án tử
hình. Đó là quyền được hưởng các tiêu chuẩn về ăn, uống, khám chữa bệnh, gửi
nhận thư, quà thăm nuôi, quyền khiếu nại, tố cáo trong thời gian chờ thi hành án tử
hình. Sau khi đã bị thi hành án, tiền và tài sản khác gửi lưu ký tại trại tạm giam được
trả lại đầy đủ cho người thân hoặc người được ủy thác của họ. Khi chờ kết án tử tù
bị giam giữ tại trại tạm giam và có các quyền: Ngoài việc được tự mình đọc quyết
định thi hành án, quyết định không kháng nghị của viện trưởng VKSND tối cao và
chánh án TAND tối cao hoặc quyết định bác đơn xin ân giảm của Chủ tịch nước...,
tử tù còn được ăn uống, viết thư cho người thân. Thậm chí còn cho phép tử tù ghi âm
lại lời nói của mình để gửi cho thân nhân. Luật thi hành án hình sự có quy định về
việc giải quyết trường hợp thân nhân xin nhận tử thi, hài cốt của người bị chấp hành
án tử hình. Quy định này là chính sách nhân đạo thể hiện tư tưởng bảo vệ quyền con

người của Đảng và Nhà nước ta; giải quyết yêu tố tâm linh cho gia đình người bị
chấp hành án tử hình; phù hợp với truyền thống, đạo đức của dân tộc ta.

5


2. Quyền của người bị giam giữ khi chấp hành án phạt tù.
Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của
Luật thi hành án hình sự buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục,
cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội.
Án phạt tù bao gồm tù có thời hạn và tù chung thân. Tù có thời hạn là việc
buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất
định. Tù có thời hạn áp dụng đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là ba năm,
tối đa là hai mươi năm; áp dụng tổng hợp đối với một người phạm nhiều tội tối đa là
ba mươi năm. Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với
người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Hình
phạt này không áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Những giới hạn áp
dụng hình phạt tù (có thời hạn và tù chung thân) là một hình thức để đảm bảo quyền
con người.
Đối với người đang chấp hành hình phạt tù, họ bị coi là tội phạm và bị áp
dụng các chế tài có tính chất nghiêm khắc. Họ có thể phải lao động hoặc chấp hành
một số quy định khắt khe của tù nhân. Các quyền của họ đôi khi bị hạn chế hơn
nhưng các quyền cơ bản nhất để họ tồn tại đúng nghĩa là một con người thì không
thể bị tước bỏ. Tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi quốc gia cũng như môi
trường, hoàn cảnh các tù nhân có thể được thêm quyền này hoặc bớt đi quyền nào đó
nhưng một số quyền của họ không bao giờ bị xâm phạm cho dù dưới bất kỳ hình
thức nào hay nhân danh cái gì chăng nữa.
Về nguyên tắc thi hành án hình sự, khoản 3 Điều 4 Luật Thi hành án hình sự
2010 quy định nguyên tắc: Bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân
phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án.

Theo đó, trong thời gian chấp hành hình phạt tù, phạm nhân được học văn
hóa, học nghề, hưởng chế độ khám chữa, điều trị bệnh, được gửi, nhận thư, bưu
kiện, bưu phẩm, gặp gỡ thân nhân, nhận quà thăm nuôi theo đúng quy định chung;

6


nếu chết hoặc bị thương tật do tai nạn lao động thì được hưởng chế độ bảo hiểm;
được quyền khiếu nại tố cáo về những quyết định, những hành vi trái pháp luật của
các cán bộ cơ quan thi hành án hoặc cán bộ cơ quan khác; được xét giảm thời hạn
chấp hành, hoãn việc chấp hành án hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù theo
quy định của pháp luật.
- Về chế độ học tập, căn cứ vào yêu cầu quản lý, giáo dục phạm nhân và thời
hạn chấp hành án, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện có trách nhiệm tổ chức dạy học cho phạm nhân theo chương trình, nội dung
do Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quy định.
Việc tổ chức cho phạm nhân học pháp luật, giáo dục công dân và học văn hoá, học
nghề, làm những công việc phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp ứng yêu cầu quản
lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng đã thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của
Nhà nước ta.
- Về chế độ lao động của phạm nhân: Phạm nhân được tổ chức lao động phù
hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng
đồng; được nghỉ lao động các ngày thứ bảy, ngày chủ nhật, lễ, tết theo quy định của
pháp luật. Đồng thời quy định cụ thể thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi trong
ngày, việc làm thêm giờ, việc nghỉ bù…
Đối với kết quả lao động của phạm nhân sau khi trừ chi phí vật tư, nguyên liệu,
tiền công thuê lao động bên ngoài; chi phí điện, nước; tiền ăn thêm do lao động nặng
nhọc, độc hại theo ngành, nghề ngoài tiền ăn của phạm nhân theo tiêu chuẩn do ngân
sách nhà nước cấp; tiền bồi dưỡng cho phạm nhân làm thêm giờ hoặc làm ngày nghỉ;
khấu hao tài sản, chi phí quản lý trực tiếp cho hoạt động lao động của phạm nhân,

được sử dụng để bổ sung mức ăn cho phạm nhân; lập quỹ hòa nhập cộng đồng để
chi hỗ trợ cho phạm nhân khi chấp hành xong án phạt tù; bổ sung vào quỹ phúc lợi,
khen thưởng của trại giam; chi thưởng cho phạm nhân có thành tích trong lao động;
chi hỗ trợ đầu tư trở lại cho trại giam phục vụ việc tổ chức lao động, giáo dục, dạy
nghề đối với phạm nhân.

7


- Về chế độ ăn, ở của phạm nhân: Phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn định
lượng về các loại nhu yếu phẩm cần thiết. Đối với phạm nhân lao động nặng nhọc,
độc hại theo quy định của pháp luật, thì định lượng ăn được tăng thêm. Có quy định
về định mức ăn của phạm nhân phù hợp với điều kiện kinh tế, ngân sách và biến
động giá cả thị trường.
- Về chế độ mặc và tư trang của phạm nhân: Phạm nhân được cấp quần áo
theo mẫu thống nhất, khăn mặt, chăn, chiếu, màn, dép, mũ hoặc nón, xà phòng;
phạm nhân nữ được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ.
- Về chế độ hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ đối với
phạm nhân: ngoài giờ lao động và trong các ngày nghỉ chủ nhật, ngày lễ, tết, phạm
nhân đều được tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui
chơi, giải trí, đọc sách, báo, nghe đài, xem truyền hình phù hợp với điều kiện phù
hợp với điều kiện của nơi chấp hành án. Thời gian hoạt động được thực hiện theo
quy chế trại giam.
Đồng thời, tăng cường đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới các cơ sở giam
giữ, trong đó, quan tâm đến các hạng mục công trình phục vụ tổ chức các hoạt động
văn hóa, như: nhà học tập tập trung, thư viện, khu thể thao, vui chơi giải trí cho
phạm nhân. Kịp thời trang bị, bổ sung các phương tiện, dụng cụ phục vụ cho hoạt
động văn hóa, thể thao, nghe nhìn, nhất là hệ thống truyền thanh, truyền hình, sách
báo thư viện cho phạm nhân. Đẩy mạnh các hoạt động sáng tác văn học, biểu diễn
văn nghệ trong phạm nhân, tạo sân chơi bổ ích và phát huy những khả năng sẵn có

của phạm nhân vào công tác giáo dục và tự giáo dục, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác cải tạo phạm nhân. Và chủ động phối hợp với các bộ, ban, ngành, các đoàn
thể, tổ chức xã hội trong việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, giao lưu,
sinh hoạt văn hóa, tinh thần, thể thao với phạm nhân. Đẩy mạnh việc phối hợp giữa
Trại giam với thư viện các cấp để có thêm sách báo cho phạm nhân.
- Về thực hành quyền về tôn giáo: được thực hành một tôn giáo theo sự
lựa chọn của tù nhân, sở hữu các vật phẩm cần thiết cho việc thực hành tôn giáo.

8


- Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi: Phạm
nhân nữ có thai nếu không được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì được bố trí
nơi ở hợp lý, được khám thai định kỳ hoặc đột xuất, được chăm sóc y tế trong
trường hợp cần thiết; được giảm thời gian lao động, được hưởng chế độ ăn, uống bảo
đảm sức khoẻ. Phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con
theo quy định của Bộ luật lao động. Trong thời gian nghỉ sinh con, phạm nhân được
bảo đảm tiêu chuẩn, định lượng ăn theo chỉ dẫn của y sĩ hoặc bác sĩ, được cấp phát
thực phẩm, đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh. Phạm nhân nữ nuôi con
dưới 36 tháng tuổi được bố trí thời gian phù hợp để chăm sóc, nuôi dưỡng con.
- Về chế độ gặp thân nhân, nhận quà của phạm nhân: Phạm nhân được gặp
thân nhân một lần trong 01 tháng, mỗi lần gặp không quá 01 giờ, trường hợp đặc
biệt thì được kéo dài thời gian nhưng không quá 03 giờ. Phạm nhân được khen
thưởng thì được gặp thân nhân thêm số lần trong tháng. Phạm nhân chấp hành
nghiêm chỉnh nội quy, quy chế trại giam hoặc lập công thì được gặp vợ hoặc chồng
ở phòng riêng theo thời gian quy định.
- Về chế độ liên lạc của phạm nhân: Phạm nhân được gửi thư mỗi tháng theo
số lượng nhất định; trường hợp cấp bách thì được gửi điện tín. Phạm nhân được liên
lạc điện thoại trong nước với thân nhân số lần theo quy định trong tháng.
- Về chế độ chăm sóc y tế đối với phạm nhân: Phạm nhân được hưởng chế độ

phòng, chống dịch bệnh. Phạm nhân bị ốm, bị thương thì được khám và điều trị tại
cơ sở y tế của trại giam, trại tạm giam hoặc tại cơ sở chữa bệnh cấp huyện. Trường
hợp phạm nhân bị bệnh nặng hoặc thương tích vượt quá khả năng điều trị của các cơ
sở chữa bệnh đó thì được chuyển đến cơ sở chữa bệnh cấp tỉnh, bệnh viện quân đội
hoặc bệnh viện trung ương để điều trị.
Đặc biệt, việc thi hành còn chú trọng tới công tác tái hòa nhập cộng đồng cho
người mãn hạn tù; các phạm nhân mắc bệnh hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc
tinh thần có thể được xem xét miễn hoặc giảm thời gian lao động; quyền được vui

9


chơi, giải trí của phạm nhân chưa thành niên bắt đầu được quy định trong luật; vấn
đề sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn của ngành y tế…
Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, họ được trả lại đầy đủ tiền bạc và tài sản
khác đã ký gửi ở trại giam; được cấp tiền tàu xe, tiền ăn trên đường về nơi cư trú…
Đảm bảo quyền con người trong thi hành án phạt tù còn được thể hiện trong chế độ
giam giữ, quản lý có tính chất phân loại phù hợp với từng lứa tuổi, giới tính, mức độ
nguy hiểm của tội phạm.
Cùng với Luật thi hành án hình sự năm 2010, hàng chục văn bản dưới luật
liên quan đến quyền của phạm nhân liên tiếp được ban hành nhằm hướng dẫn thực
thi các quyền của phạm nhân trong quá trình chấp hành án phạt tù đã thể hiện càng
rõ nét hơn về chính sách pháp luật thi hành án hình sự ở nước ta đảm bảo thực hiện
các quy định về quyền của người bị giam giữ theo Công ước của LHQ về các quyền
dân sự, chính trị. Theo đó, các quyền của phạm nhân được quy định chi tiết, mang
tính có hệ thống và đầy đủ hơn trước.
C. KẾT LUẬN
Thi hành án hình sự liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua,

hoạt động thi hành án hình sự đã được tổ chức, thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh,
khoan hồng, nhân đạo, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Là một thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự - chính
trị năm 1966, Việt Nam đã nội luật hóa thành công quy định của Công ước về quyền
của người bị giam giữ vào Luật thi hành án hình sự, thể hiện rõ ràng chính sách thi
hành án hình sự của Đảng và Nhà nước ta.

10



×