Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

những điểm mới cơ bản của chế định chứng minh và chứng cứ trong BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.49 KB, 10 trang )

Đề bài: Phân tích những điểm mới cơ bản của chế định chứng minh và
chứng cứ trong BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003.
BÀI LÀM
A.

MỞ ĐẦU
Ngay sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, việc hoàn thiện

hệ thống pháp luật để đưa Hiến pháp vào cuộc sống đã được đặt ra rất khẩn
trương và nghiêm túc. Trong số đó, có Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS), đạo
luật có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, quyết định hiệu quả công
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, liên quan trực tiếp đến những
quyền cơ bản nhất của con người, của công dân. Chứng minh và chứng cứ là
yếu tố xương sống của pháp luật tố tụng nói chung trong đó có pháp luật tố tụng
hình sự. Mọi hoạt động tố tụng đều tập trung làm rõ những vấn đề cần phải
chứng minh bằng việc thu thập và đánh giá chứng cứ.
Chế định chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật TTHS là một trong
những nội dung trọng tâm, cốt lõi và xuyên suốt toàn bộ hoạt động TTHS từ
giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử. Việc thu thập đầy đủ, chính xác chứng
cứ cũng như việc xem xét, đánh giá chứng cứ trung thực, khách quan, toàn diện
không chỉ góp phần giúp cho việc xem xét và giải quyết vụ án được kịp thời,
chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà còn cơ bản khắc phục được
những thiếu sót trong hoạt động TTHS, giải quyết được những vấn đề mà thực
tiễn đang đặt ra, đồng thời phúc đáp được các yêu cầu về cải cách tư pháp.
Quá trình thi hành BLTTHS năm 2003 cho thấy quy định về chứng cứ
còn bất cập, chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được
yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát
triển của khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những nguồn
chứng cứ truyền thống, chưa công nhận là chứng cứ đối với các dữ liệu điện tử
được thu thập từ mạng internet, từ các thiết bị điện tử. BLTTHS năm 2015 ra
đời đã khắc phục những bất cập đó của BLTTHS năm 2003 bằng các quy định


cụ thể trình bày trong phần nội dung sau đây.

1


B. NỘI DUNG
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH.
Chứng cứ và chứng minh là một trong những vấn đề quan trọng nhất của tố
tụng hình sự. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự thực chất là quá trình
thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ (hoạt động chứng minh), mặc dù cách
thức tiến hành ở mỗi giai đoạn có khác nhau. Ở Việt Nam, chứng cứ được hiểu
là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định,
được dùng làm căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án (có hay không
có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý
nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Chứng cứ có ba đặc điểm là: tính khách quan
(phải có thật, tồn tại khách quan không phụ thuộc ý chí chủ quan của chủ thể
chứng minh); tính liên quan (thông tin liên quan mật thiết tới vụ án) và tính hợp
pháp (được thu thập theo đúng quy định của pháp luật).
Chứng minh là việc sử dụng các chứng cứ để làm sáng tỏ bản chất và các
tình tiết của vụ án. Quá trình chứng minh bao gồm: phát hiện chứng cứ, thu thập
chứng cứ, kiểm tra đánh giá chứng cứ. Những vấn đề cần làm rõ trong quá trình
chứng minh bao gồm:
- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết
khác của hành vi phạm tội;
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do lỗi cố ý hay
vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích hoặc động cơ phạm
tội;
- Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo và những đặc
điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 đã chỉ ra một số hạn chế, bất
cập trong các quy định hiện hành về chứng cứ làm ảnh hưởng đến yêu cầu giải
quyết vụ án, nhất là chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong tình
hình mới, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm “mạng”... Do đó, BLTTHS năm
2015 đã đổi mới một số nội dung sau về chế định chứng minh và chứng cứ:
2


I.

NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ CHẾ ĐỊNH CHỨNG MINH VÀ CHỨNG CỨ
TRONG BLTTHS NĂM 2015.
1.

Về khái niệm chứng cứ.

BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 1 Điều 64 : “Chứng cứ là những
gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay
không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.”
BLTTHS năm 2015 có những sửa đổi về khái niệm chứng cứ tại Điều 86
như sau: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành
vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý
nghĩa trong việc giải quyết vụ án.”
Như vậy, BLTTHS năm 2003 quy định chỉ cơ quan tiến hành tố tụng mới
có quyền thu thập chứng cứ. Còn BLTTHS năm 2015, để phù hợp với yêu cầu
của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 về tăng cường tranh tụng, bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội, BLTTHS năm 2015 điều chỉnh khái

niệm về chứng cứ theo hướng không chỉ cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng mới được quyền thu thập chứng cứ mà những người tham gia tố
tụng (người bị buộc tội, người bào chữa và một số người tham gia tố tụng khác)
cũng có quyền này. Điều này đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong TTHS về
hoạt động chứng minh, đó là: trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền
bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm
rõ sự thật khách quan của vụ án.
2.

Bổ sung một số nguồn chứng cứ và quy định về loại trừ chứng cứ

BLTTHS năm 2003 quy định nguồn chứng cứ gồm: Vật chứng; Lời khai
của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị
3


cáo; Kết luận giám định; Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ
vật khác. Khoản 2 Điều 64 BLTTHS 2003 quy định: “Chứng cứ được xác định
bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác”.
Trong BLTTHS năm 2015, để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, tháo gỡ
những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn, phù hợp với sự phát triển của khoa học

công nghệ hiện đại và yêu cầu hội nhập quốc tế, Khoản 1 Điều 87 BLTTHS
2015 quy định: “Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
a) Vật chứng;
b) Lời khai, lời trình bày;
c) Dữ liệu điện tử;
d) Kết luận giám định, định giá tài sản;
đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
g) Các tài liệu, đồ vật khác.”
Như vậy, BLTTHS năm 2015 bổ sung vào hệ thống nguồn chứng cứ
gồm: (1) Dữ liệu điện tử; (2) Kết luận định giá tài sản; (3) Kết quả thực hiện ủy
thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh chống tội phạm.
Đồng thời, nhằm đáp ứng các yêu cầu của chứng cứ về tính khách quan,
tính liên quan và tính hợp pháp, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về loại
trừ chứng cứ, theo đó: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình
4


tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được
dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”. Quy định này nhằm khắc phục
những biểu hiện tùy tiện, vi phạm phạm quyền con người, quyền công dân có
thể xảy ra trong quá trình chứng minh về vụ án.
3. Quy định cụ thể về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử và việc thu

thập dữ liệu điện tử.
Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là các tội
phạm sử dụng công nghệ cao, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về dữ liệu
điện tử với tính cách là một loại nguồn chứng cứ như: khái niệm về dữ liệu điện
tử; các nguồn chứa dữ liệu điện tử; yêu cầu về giá trị chứng cứ của dữ liệu điện
tử; trình tự, thủ tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách

quan, tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ này. Cụ
thể, Điều 99 BLTTHS 2015 quy định:
“1. Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng
tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện
tử.
2. Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng
viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.
3. Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức
khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì
tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu
tố phù hợp khác.”
Điều 107 BLTTHS 2015 quy định cụ thể việc thu thập phương tiện điện
tử, dữ liệu điện tử như sau:
“1. Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực
trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữ. Việc niêm phong, mở niêm phong
được tiến hành theo quy định của pháp luật.

5


Trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện
điện tử và bảo quản như đối với vật chứng, đồng thời yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân liên quan lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng đã sao lưu và cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật.
2. Khi thu thập, chặn thu, sao lưu dữ liệu điện tử từ phương tiện điện tử, mạng
máy tính, mạng viễn thông hoặc trên đường truyền, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng tiến hành phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
3. Khi nhận được quyết định trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng thì cá nhân, tổ chức có trách nhiệm thực hiện phục hồi, tìm
kiếm, giám định dữ liệu điện tử.
4. Việc phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử chỉ được thực hiện trên
bản sao; kết quả phục hồi, tìm kiếm, giám định phải chuyển sang dạng có thể
đọc, nghe hoặc nhìn được.
5. Phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử được bảo quản như vật chứng theo quy
định của Bộ luật này. Khi xuất trình chứng cứ là dữ liệu điện tử phải kèm theo
phương tiện lưu trữ dữ liệu hoặc bản sao dữ liệu điện tử.”
Quy định cụ thể trình tự, thủ tục thu thập dữ liệu điện tử như trên nhằm
bảo đảm tính khách quan, tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của loại
chứng cứ này. Có thể nói, những sửa đổi, bổ sung nêu trên đã góp phần hoàn
thiện lý luận về chứng cứ; tạo cơ sở pháp lý vững chắc để đấu tranh hiệu quả
hơn với tội phạm nói chung và tội phạm công nghệ cao nói riêng trong thời kỳ
đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại và hội nhập quốc tế sâu rộng
ngày nay.
4. Về quy định người bào chữa thu thập chứng cứ.
BLTTHS 2003 cũng quy định người bào chữa được quyền thu thập các
đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án nhưng chúng chỉ có thể là chứng cứ khi được
6


nộp cho các cơ quan tiến hành tố tụng và được các cơ quan này chứng nhận,
đưa vào hồ sơ. Hơn thế nữa, mặc dù luật sư được quyền "đọc, ghi chép, sao
chụp" các tài liệu trong hồ sơ vụ án, nhưng chỉ là những tài liệu liên quan đến
việc bào chữa mà không phải là toàn bộ những tài liệu của vụ án. Thậm chí, luật
sư bảo vệ bị can, bị cáo cũng phải lấy hồ sơ của vụ án do cơ quan tố tụng xây
dựng lên làm căn cứ để bào chữa (gỡ tội) cho thân chủ của mình.
Nhằm tháo gỡ những bất cập trong pháp luật hiện hành, BLTTHS năm
2015 đã có những đổi mới quan trọng, đó là bổ sung cho người bào chữa có
quyền thu thập chứng cứ, người bị buộc tội có quyền đưa ra chứng cứ (Điều

86). Quy định cụ thể cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ nhằm bảo
đảm tính khả thi, tránh gây khó khăn trong thực tiễn thực hiện (Điều 88). Và bổ
sung, quy định cụ thể trách nhiệm, trình tự, thủ tục các cơ quan tố tụng tiếp
nhận và đánh giá chứng cứ do những người tham gia tố tụng cung cấp (Điều
88).
Để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng, BLTTHS năm 2015 quy
định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa
thu thập chứng cứ, gồm: gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người
biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án;
đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và
các tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Việc bổ sung về quyền thu thập chứng
cứ của người bào chữa là hoàn toàn cần thiết. Đây là một quy định mới, rất tiến
bộ nhằm đảm bảo việc tranh tụng trong quá trình tố tụng hình sự.

7


5. Quy định chặt chẽ và chi tiết việc xử lý vật chứng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự, BLTTHS năm 2015 đã
sửa đổi, bổ sung chi tiết việc xử lý vật chứng theo từng trường hợp: vật chứng là
công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành; vật chứng là tiền bạc hoặc tài
sản do phạm tội mà có; vật chứng là vật không có giá trị hoặc không sử dụng
được; vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản; vật chứng là động vật
hoang dã và thực vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quy hiếm, động vật, thực
vật ngoại lai và một số trường hợp khác (Điều 106 BLTTHS năm 2015), cụ thể:
“…2…a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu
hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;
b) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp
ngân sách nhà nước;
c) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu

hủy.
… 3…..c) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được
bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy;
d) Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết
luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử
lý theo quy định của pháp luật”.
6. Về các biện pháp Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ (Điều
252)
Để thống nhất với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và phù hợp với
vị trí của Tòa án trong tố tụng hình sự, BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án tiến
hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ thông qua 05 hoạt động:
- Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp;
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án;
8


- Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa;
- Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ
án;
- Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài những trường hợp bắt buộc
phải trưng cầu giám định, định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 221 của
Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài
sản.
Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân thì quy định này là chưa hợp lý bởi
Thẩm phán không được đào tạo nghiệp vụ điều tra, xác minh, thu thập chứng
cứ. Sự chồng lấn này vô hình chung đã không tách bạch các chức năng điều tra,
truy tố, xét xử.
7. Về thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng
đặc biệt.

Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được quy định gồm: (1) Ghi âm, ghi
hình bí mật; (2) Nghe điện thoại bí mật; (3) Thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều
223). Các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và Luật tố tụng hình sự
của hầu hết các nước đều quy định những biện pháp này. Bên cạnh đó,
BLTTHS 2015 còn quy định căn cứ, đối tượng, thẩm quyền, thời hạn áp dụng,
giá trị chứng cứ và phạm vi chứng minh của các biện pháp điều tra đặc biệt.
Về các trường hợp được phép áp dụng biện pháp này gồm: các tội xâm
phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng
bố, tội rửa tiền; các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng (Điều 224). Về thẩm quyền áp dụng, xuất phát từ tính chất đặc biệt quan
trọng của các biện pháp này, BLTTHS năm 2015 quy định thẩm quyền áp dụng
phải do Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên ra quyết định và phải được
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Quy định
trách nhiệm của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát phải
kiểm tra, giám sát quá trình áp dụng các biện pháp này (Điều 225).
Nhằm bảo đảm tính chặt chẽ trong việc quy định thời hạn áp dụng các biện
pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân, đồng thời, phù hợp với đặc
9


điểm của từng biện pháp, BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn áp dụng không
quá hai tháng kể từ ngày phê chuẩn; trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng
không quá thời hạn điều tra (Điều 226).
Các thông tin, tài liệu thu được trong quá trình này nếu tuân thủ nghiêm
ngặt quy định của luật thì được công nhận là chứng cứ. Đồng thời, quy định rõ,
các thông tin thu được chỉ sử dụng vào mục đích chống tội phạm, nghiêm cấm
làm ảnh hưởng đến cá nhân, công dân (Điều 227).

III.


KẾT LUẬN
Việc đổi mới chế định chứng cứ, chứng minh trong BLTTHS năm 2015

so với BLTTHS năm 2003 đã xuất phát từ điều kiện phát triển kinh tế- xã hội và
khoa học công nghệ, từ nhu cầu điều tra, xử lý đối với các hành vi phạm tội
trong tình hình mới để mở rộng các biện pháp chứng minh và nguồn ghi nhận
chứng cứ; khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập trong các quy định của
pháp luật hiện hành; bảo đảm phù hợp với việc đổi mới vị trí, vai trò của các
chủ thể trong thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, bảo đảm sự
bình đẳng giữa các chủ thể trong quá trình chứng minh vụ án.

10



×