Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Đầu tư phát triển tại tổng công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị HUD – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.83 KB, 82 trang )

SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh

MỤC LỤC
3.3.1 Đối với cơ quan quản lý nhà nước..........................................................................................81
3.3.2. Đối với Bộ xây dựng...............................................................................................................82


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh

DANH MỤC BẢNG BIỂU
3.3.1 Đối với cơ quan quản lý nhà nước..........................................................................................81
3.3.2. Đối với Bộ xây dựng...............................................................................................................82

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động đầu tư phát triển được hiểu là hoạt động sử dụng nguồn vốn và
các nguồn lực khác mà doanh nghiệp hiện tại đang có tiến hành một hoạt động
nào đó nhằm duy trì sự hoạt động và làm phát triển thêm tài sản của doanh
nghiệp. Đầu tư phát triển đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp.Vì vậy, bất cứ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ
cũng cần quan tâm đến hoạt động đầu tư của mình.
Với vị trí của các doanh nghiệp đang ngày càng được khẳng định trong nền
kinh tế quốc dân. Trong thời gian qua đầu tư phát triển trong doanh nghiệp đã đạt
được những kết quả to lớn, đã đưa nền kinh tế tiến lên những bước thêm vững chắc
hơn trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên công tác
thực hiện đầu tư phát triển có hiệu quả hay không vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc
trong các doanh nghiệp
Vì vậy , Qua quá trình tìm hiểu tình hình thực tế hoạt động đầu tư phát
triển của tổng công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị HUD , cùng sự giúp đỡ chỉ
bảo tận tình từ các anh, chị, cô chú trong Công ty đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình


của TS. Đào Văn Thanh em đã quyết định chọn đề tài : “ Đầu tư phát triển tại
tổng công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị HUD – Thực trạng và giải pháp “
làm đề tài thực tập tốt nghiệp .


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh

CHƯƠNG I : NHỮNG LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Tổng quan về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm đầu tư phát triển và đầu tư phát triển trong doanh
nghiệp :
Đầu tư phát triển là quá trình lâu dài sử dụng vốn trong hiện tại nhằm tạo ra
những tài sản trí tuệ và vật chất mới , năng lực sản xuất mới và duy trì tài sản hiện
có , tạo thêm việc làm , vì mục tiêu phát triển lâu dài và nâng cao lợi ích của kinh tế
xã hội .
Đây là bộ phận cơ bản của đầu tư thông qua đó tiến tới tương lai phát triển lâu
dài từ năng lực sản xuất cũng như phục vụ của nền kinh tế
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tái sản
xuất hoặc mở rộng thông qua các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng , mua sắm và
lắp đặt máy móc thiết bị , nghiên cứu công nghệ cũng như thị trường và thực hiện
các chi phí phục vụ cho phát huy tác dụng trong một chu kì. hoạt động của các cơ
sở vật chất – kĩ thuật này .
Như vậy , với hàm sản xuất của doanh nghiệp là Q=f(K,L,T,R…) , đầu tư sẽ
tác động trực tiếp đến các yếu tố này ( Vốn , các nguồn lực công nghệ , tài nguyên ,
lao động… ) nghĩa là cụ thể hóa khái niệm đầu tư phát triển trên quan điểm vi mô .
Do vậy , hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp mang đầy đủ các đặc điểm
của đầu tư phát triển nói chung .
1.1.2


Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp :

- Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn. Vốn đầu tư nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
Tiền, vật tư, lao động huy động là rất lớn và phải sau một thời gian dài sau mới phát
huy tác dụng.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài.
- Các thành quả của đầu tư phát triển mà là công trình xây dựng thường phát


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư
cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố
về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng.
- Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Đầu tư là loại hình hoạt động kinh tế gắn
liền với rủi ro và những bất trắc. Thời gian đầu tư càng dài thì rủi ro càng cao, ngoài
những rủi ro thường gặp về tài chính, thành toán hay thu nhập thì còn có những rủi
ro khác về chính trị, kinh tế, xã hội .
1.1.3

Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển :

Đầu tư phát triển là hoạt động không thể thiếu cho sự ra đời và phát triển của
mỗi doanh nghiệp, bất kể doanh nghiệp đó hoạt động trong lĩnh vực nào. Cụ thể,
tầm quan trọng của hoạt động này được thể hiện qua những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, đầu tư tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Nhu cầu của con người càng phát triển, kéo theo đó là yêu cầu các doanh

nghiệp đáp ứng cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong bối cảnh ngày càng
nhiều doanh nghiệp gia nhập thị trường, áp lực vả về cung lần cầu khiến mỗi doanh
nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh: số lượng đủ lớn, chất lượng cao, mẫu mã
đa dạng, dịch vụ uy tín…, mà không có cách nào khác ngoài đầu tư phát triển.
Thứ hai, đầu tư tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm chỉ được nâng cao thông qua đổi mới phương thức sản
xuất, hiện đại dây chuyền công nghệ, đó là một trong những nội dung cơ bản của
đầu tư.
Thứ ba, đầu tư giúp giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.
Suy cho cùng, mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Đầu
tư hiệu quả tạo ra những tác động làm tăng doanh thu, giảm chi phí, không những đem
lại lợi nhuận mà còn giúp quy mô lợi nhuận cho doanh nghiệp mở rộng, gia tăng.
Thứ tư, đầu tư góp phần đổi mới công nghệ, trình độ khoa học kỹ thuật trong
sản xuất.
Công nghệ, kĩ thuật là loại tài sản đặc biệt với những hao mòn vô hình do sự
lạc hậu gây ra. Đầu tư là sự can thiệt vào quá trình này, từ đó tạo điều kiện đổi mới
về công nghệ, nâng cao trình độ cho sản xuất.


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
Thứ năm, đầu tư góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Người lao động – nguồn lực con người là thành phần đặc biệt trong lực lượng
sản xuất. Trình độ, kĩ năng của người lao động ảnh hưởng quyết định đến quá trình
sản xuất, vì suy cho cùng, con người tạo ra mọi tư liệu sản xuất khác. Đầu tư vào
nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển của toàn doanh nghiệp.
1.1.4

Những điểm nổi bật của đầu tư phát triển tại doanh nghiệp xây


dựng so với các lại hình doanh nghiệp khác :
- Về tình hình và điều kiện sản xuất , đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói
riêng trong ngành xây dựng thiếu tính ổn , các dự án luôn biến đổi theo địa điểm
xây dựng . Cụ thể là trong xây dựng con người và công cụ lao động , máy móc thiết
bị luôn phải di chuyển từ công trình này đến công trình khác , còn sản phẩm xây
dựng ( công trình , dự án ) thì hình thành và đứng yên tại một vị trí nhất định , một
điều đặc biệt mà không có ở các lọai hình doanh nghiệp khác .
- Chu kì sản xuất ( thời gian xây dựng công trình ) thường kéo dài do vậy kèm
theo nhiều rủi ro tài chính . Đặc điểm này làm cho vốn ứ đọng lâu dài ở một dự án
hay một địa điểm , khó tái sử dụng vốn . Hơn nữa , ngành xây dựng này còn dễ gặp
phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian , các công trình xây dựng cũng dễ bị hao
mòn vô hình do nhiều tác động bên ngoài . Đây là lí do mà bất cứ doanh nghiệp xây
dựng nào cũng cần phải chú ý đến nhân tố thời gian khi lựa chọn phương án đầu tư ,
phải có chế độ thanh toán và kiểm tra chất lượng trung gian thích hợp dự trữ hợp lí ,
lựa chọn phương án có thời gian xây dựng hợp lí .
- Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do điều kiện địa
điểm xây dựng đem lại . Cùng một loại công trình , nếu nó ở nơi đông dân nguồn
cung lao động tốt , có sẵn nguồn vật liệu xây dựng thì doanh nghiệp xây dựng hoàn
toàn có nhiều cơ hội để hạ thấp chi phí sản xuất và thu được lợi nhuận cao hơn .
- Tốc độ phát triển kĩ thuật xây dựng thường chậm hơn nhiều ngành khác .
Tất cả các điều kiện trên đã ảnh hưởng đến sản xuất xây dựng, ảnh hưởng đến
phương pháp tính toán các chi phí thống kê xây dựng và ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình phát triển của các doanh nghiệp xây dựng .
1.2

Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp :


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh

1.2.1
a.

Đầu tư xây dựng cơ bản ( đầu tư vào tài sản cố định )
Khái niệm , vai trò và phân loại :

Tài sản của một doanh nghiệp được chia ra 2 loại bao gồm : Tài sản cố định
( TSCĐ hữu hình , TSCĐ vô hình … ) và tài sản lưu động ( tiền mặt , tiền gửi ,
hàng tồn kho … ) mà doanh nghiệp có quyền chiếm hữu và sử dụng theo quy định
của pháp luật .
Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử
dụng trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn
hoặc bằng 1 năm), giá trị của nó được chuyển dần vào sản phẩm theo mức độ hao
mòn. Như vậy, trong các loại tài sản, TSCĐ đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn
đến năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm, nghĩa là ảnh hưởng tới lợi nhuận và
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Lưu ý, do lĩnh vực hoạt động khác nhau mà TSCĐ của doanh nghiệp là khác nhau.
Với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất công nghiệp hay kinh doanh thương
mại, dịch vụ, TSCĐ biểu hiện rất rõ ràng với hình thái như nhà xưởng, phương tiện
vận tải, máy móc thiết bị... TSCĐ của doanh nghiệp có thể hình thành từ đầu tư mua
sắm, xây dựng mới, cũng có thể có được từ nhận cấp phát, nhận góp vốn, trao đổi,
giao thầu hoặc tự chế… Tài sản này là hữu hình, nhưng cũng có thể là vô hình dưới
dạng các bằng phát minh, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích, phần
mềm… Trong phạm vi bài viết này, chúng ta chỉ đi sâu nghiên cứu hoạt động đầu
tư TSCĐ từ mua sắm, xây dựng và sửa chữa, nghĩa là đồng nhất hai khái niệm đầu
tư TSCĐ với đầu tư XDCB.
Đầu tư vào tài sản cố định ( đầu tư xây dựng cơ bản) là hoạt động đầu tư nhằm
tái tạo tài sản cố định của doanh nghiệp.
- Đầu tư TSCĐ có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mọi
doanh nghiệp.

 Đầu tư TSCĐ là điều kiện cần cho các doanh nghiệp tồn tại.
Trong doanh nghiệp, đặc biệt trong sản xuất kinh doanh, để các hoạt động
diễn ra bình thường đều cần xây dựng nhà xưởng, kho tàng, các công trình kiến
trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị….
 Đầu tư TSCĐ là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp mở rộng hoạt động


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
sản xuất, kinh doanh.
 Đầu tư TSCĐ tạo tiền đề và cơ sở đầu tư vào các nội dung khác như: hàng
tồn trữ, đầu tư nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ, đầu tư phát triển nguồn
nhân lực và đầu tư cho hoạt động marketing…
Tóm lại, nội dung đầu tư này đòi hỏi nguồn vốn lớn và chiếm tỉ trọng cao
trong quy mô đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
- Các cách tiếp cận khác nhau về TSCĐ là cơ sở phân loại hoạt động đầu tư
XDCB theo các cách khác nhau.
 Xét theo nội dung, đầu tư XDCB bao gồm: Đầu tư xây dựng nhà xưởng,
công trình kiến trúc, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận tải, truyền dẫn; đầu tư mua
sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị sản xuất; đầu tư sửa chữa, nâng cấp, cải tạo những tài
sản hư hỏng, lỗi thời…; đầu tư vào tài sản cố định khác (trang thiết bị văn phòng,
thiết bị dụng cụ dùng cho quản lý…)…
Đây cũng là cách tiếp cận chính của bài viết khi phân tích cụ thể hoạt động
đầu tư XDCB ở phần sau.
 Xét theo khoản mục chi phí, đầu tư XDCB là tổng hợp từ những khoản chi
pí chính sau: Chi phí ban đầu liên quan đến đất đai; chi phí xây dựng; chi phí mua
sắm máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải; chi phí lắp đặt máy móc thiết bị; chi phí
đầu tư sửa chữa tài sản có định (cơ sở hạ tầng và máy móc thiết bị).
b. Nội dung đầu tư XDCB trong doanh nghiệp
Như đã phân tích, xét theo nội dung, đầu tư XDCB trong doanh nghiệp bao

gồm:
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà cửa, vật kiến trúc
Nhà cửa nói chung bao gồm: Nhà xưởng, kho bãi, nhà làm việc, hội trường,
nhà khách, nhà ở, khu vệ sinh, thậm chí là trạm y tế, nhà trẻ…
Vật kiến trúc bao gồm: Giếng, bể chứa nước, hệ thống đường giao thông, hệ
thống điện, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống thông tin liên lạc, tường rào…
Hoạt động này có mục đích đầu tư nhằm tạo ra không gian sản xuất, vận hành,
lưu trữ và quản lý hoạt động của doanh nghiệp.
Hoạt động xây dựng này thường xảy ra trước khi tiến hành sản xuất trong thời
gian khá dài (thường từ 3-5 năm), đồng thời cũng có tuổi đời lâu nhất với thời gian
tồn tại hàng chục năm. Bởi vậy, khi tiến hành đầu tư, cần tính toán kĩ lưỡng để tiến


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
hành hiệu quả, tránh gây ra những hậu quả lâu dài.
Khi tiến hành đầu tư xây dựng nhà cửa, vật kiến trúc, doanh nghiệp thường
tính toán đến các khoản chi phí sau:
Chi phí ban đầu liên quan đến đất đai:
+ Chi phí thuê đất hoặc chi phí quyền sử dụng đất
+ Chi phí đền bù và tổ chức giải phóng mặt bằng.
Chi phí xây dựng:
+ Chi phí khảo sát, quy hoạch xây dựng công trình.
+ Chi phí thiết kế xây dựng
+ Chi phí quản lý dự án
+ Chi phí bảo hiểm công trình, vệ sinh, bảo vệ môi trường
+ Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng
+ Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công
+ Chi phí kiểm định vật liệu công trình
+ Chi phí chuyển thiết bị thi công và vật liệu, lực lượng xây dựng

+ Các loại thuế và phí bảo hiểm thiết bị công trình cần thiết
+ Các chi phí khác, chi phí dự phòng được ghi trong tổng dự toán.
- Đầu tư mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị:
Máy móc thiết bị ở đây nhằm phục vụ các công tác chuyên môn của hoạt động
sản xuất và các phương tiện vận tải (xe tải, xe gắn máy…), truyền dẫn (đường day
điện, dây cáp…) Đây là một trong những nội dung được quan tâm chú ý, nhất là
trong thời buổi công nghiệp hóa hiện nay, khi máy móc ngày càng trở nên hữu ích.
Đặc điểm của hoạt động này, là máy móc thiết bị tùy thuộc vào mức độ hiện
đại mà thời gian khấu hao có thể khác nhau: máy móc càng hiện đại, hao mòn vô
hình càng cao thì khấu hao càng nhanh. Doanh nghiệp cần chọn cho mình loại máy
móc, thiết bị phù hợp với dây chuyền sản xuất, để sản phẩm tạo ra có khả năng cạnh
tranh mà không phải chi tiêu quá nhiều cho chúng.
Doanh nghiệp có thể mua máy móc thiết bị hoặc nhận chuyển giao công nghệ,
đặc biệt trong các dự án hợp tác với nước ngoài.
Với nội dung này, cần lưu ý một số loại chi phí sau:
Chi phí mua sắm máy móc, thiết bị phương tiện vận tải:


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
+ Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ và trang thiết bị phục vụ sản xuất, quản lý.
+ Chi phí mua các thiết bị vận tải, thiết bị truyền dẫn phục vụ kinh doanh, báo
cáo tổng hợp…
+ Chi phí vận chuyển máy móc tới công trình.
+ Chi phí lưu kho, bảo quản, bảo dưỡng tại kho.
+ Chi phí kiểm tra thiết bị máy móc khi tiến hành lắp đặt.
+ Chi phí bảo hiểm các thiết bị máy móc.
+ Chi phí cho các loại thuế nhập khẩu máy móc…
+ Chi phí khác…
Chi phí lắp đặt máy móc thiết bị:

+ Chi phí tháo dỡ, phá hủy các máy móc.
+ Chi phí lắp đặt thiết bị trong các thiết bị, vận dụng, hệ thống công trình cơ
sở hạ tầng.
+ Chi phí cho các hoạt động thăm dò phục vụ hoạt động lắp đặt đó.
+ Chi phí cho thiết bị không cần lắp đặt trên nền máy cố định
+ Chi phí cho thiết bị máy móc cần lắp đặt toàn bộ hay bộ phận trên nền máy
cố định.
+ Chi phí thuê chuyên gia lắp đặt máy móc (tùy vào doanh nghiệp).
+ Các chi phí bổ sung khác.
- Đầu tư sửa chữa, nâng cấp, cải tạo tài sản hư hỏng:
Muốn việc kinh doanh không bị ngừng trệ, doanh nghiệp phải đầu để sửa
chữa, nâng cấp, cải tạo những tài sản hư hỏng, bao gồm cơ sở hạ tầng và máy móc
thiết bị. Hoạt động đầu tư này cần được tiến hành theo tiến độ (sửa chữa định kì) và
song song, phù hợp với yêu cầu sản xuất và quy mô của doanh nghiệp (như sửa
chữa bất thường) và đầu tư phải gắn liền với nguồn vốn mà doanh nghiệp có.
Các khoản mục chi phí bao gồm:
+ Chi phí sửa chữa các tài sản hư hỏng sau 1 thời gian sử dụng mà thay mới
thì cần vốn lớn và lãng phí.
+ Chi phí nâng cấp tài sản cố định cho phù hợp với tiến bộ khoa học công nghệ.


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
+ Chi phí duy trì bảo dưỡng, đại tu thường xuyên.
- Đầu tư vào tài sản cố định khác:
Những tài sản cố định khác như: trang thiết bị văn phòng (bàn, ghế, tủ, máy
in…), thiết bị quản lý (hệ thống máy tính…), thiết bị đo lường… tuy không trực
tiếp tham gia vào sản xuất nhưng hỗ trợ không nhỏ cho hoạt động của doanh
nghiệp…
Ngoài bốn nội dung về TSCĐ hữu hình trên, ta cũng nên nhắc tới nội dung

đầu tư về TSCĐ vô hình của doanh nghiệp, bởi đây là một phần cấu thành nên tài
sản và ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Đầu tư vào TSCĐ
vô hình là hoạt động bỏ vốn để nâng cao năng lực, giá trị nội lực của công ty như
thương hiệu, các mối quan hệ, những công nghệ hay bí quyết mới, mua lại bản
quyền hay tự nghiên cứu, sáng chế… Khía cạnh đầu tư này tạo ra những hiệu quả
khó lượng hóa, tuy nhiên với những tác động tích cực nhìn thấy rõ như: tăng hiệu
quả sử dụng TSCĐ hữu hình, đẩy mạnh sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh, đây
cũng là nội dung cần được doanh nghiệp quan tâm thích đáng. Có thể nói tài sản vô
hình, chứ không phải là tiền, chính là tài sản quan trọng nhất của doanh nghiệp.
Ngoài KH&CN, thương hiệu, thì doanh nghiệp còn có và cần phải có những tài sản
vô hình khác nữa. Và việc đầu tư cho những tài sản vô hình đó là đầu tư phát
triển, vì khi đã đầu tư hiệu quả, nó luôn duy trì và gia tăng giá trị tài sản hiện có
của doanh nghiệp. Đó là:
- Đầu tư vào quyền sử dụng đất:
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu có đủ ba quyền là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Quyền sử dụng là quyền của
chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, chỉ là một trong
ba quyền của chủ sở hữu.
Tại Việt Nam, hiện nay quyền sở hữu đất đai thuộc về Nhà nước, mọi công
dân, tổ chức, công ty… chỉ có quyền sử dụng đất.
Sau khi một dự án được phê duyệt, việc đầu tiên cần làm đốI vớI tất cả các chủ


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
đầu tư là xin cấp (với doanh nghiệp nhà nước) hoặc mua(với các doanh nghiệp
khác) quyền sử đất. Do đó đây là hoạt động đầu tư đầu tiên làm tăng giá trị tài sản
cho doanh nghiệp - giá trị tài sản hữu hình.
- Chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp:

Bao gồm các chi phí thăm dò, lập dự án, chi phí huy động vốn đầu tư ban đầu,
các chi phí xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị ban đầu.
Việc mở rộng sản xuất kinh doanh với việc xây dựng mới thêm nhà xưởng,
thiết bị, tăng thêm chi phí nhân công… cũng chính là hoạt động đầu tư phát triển.
- Đầu tư cho hoạt động quản lí:
Một bộ máy tinh giản gọn nhẹ nhưng hoạt động trơn tru và nhịp nhàng sẽ vừa
hiệu quả hơn vừa tiết kiệm một khoản chi phí rất lớn cho doanh nghiệp.
- Đầu tư cho bằng phát minh sáng chế:
Bằng phát minh, sáng chế hay bản quyền là những tài sản vô hình quan trọng
của doanh nghiệp. Nó tạo ra thế mạnh và lợi thế ạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị
trường. Đầu tư cho lĩnh vực này chính là đầu tư phát triển
1.2.2
a.

Đầu tư vào hàng tồn trữ trong doanh nghiệp :
Khái niệm, vai trò, phân loại hàng tồn trữ

Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm
và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp. tùy theo loại hình doanh
nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng khác nhau. Nguyên vật liệu là
một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của doanh nghiệp sản xuất .
Hàng tồn trữ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các tài sản lưu động của các
doanh nghiệp. Để quản lý tốt hàng tồn kho cần phải phân loại, sắp xếp hàng tồn kho
theo những nhóm và theo tiêu thức nhất định. Tiêu thức phân loại thông dụng nhất
là phân loại theo công dụng của hàng tồn kho.Trên thực tế để nghiên cứu kĩ về vấn
đề này cần phải tiếp cận nó ở những góc độ khác nhau và đặt trong những mối quan
hệ cụ thể.
Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp: là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm



SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp.
Tùy theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ khác
nhau là khác nhau. Hàng tồn trữ mang đậm tính chất ngành nghề .Tỷ trọng đầu tư
vào hàng tồn trữ trong tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp thương mại
thường cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác
- Hàng tồn trữ có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp:

HTT đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục, hiệu quả.
HTT gắn bó, liên kết chặt chẽ các khâu, các công đoạn trong quá trình sản
xuất. Đồng thời, nó cũng giữ cho quá trình sản xuất không bị gián đoạn bởi sự
chênh lệch giữa cung và cầu cho nguyên vật liệu đầu vào cho quá trình sản xuất,
cũng như đầu ra cho tiêu thụ sản phẩm.

HTT cho phép sản xuất và mua nguyên liệu một cách hợp lý và kinh
tế; giảm chi phí đặt hàng, vận chuyển và hàng tồn trữ.
Có nhiều loại hàng có đặc thù mùa vụ, và việc sản xuất và tiêu thụ không diễn
ra cùng thời gian hay địa điểm, HTT có vai trò giúp doanh nghiệp chủ động và tiết
kiệm được nhiều khoản chi phí đặt hàng, vận chuyển.

HTT đáp ứng như cầu thị trường trong mọi thời điểm.
Thông qua việc tích lũy thành phẩm cũng như nguyên vật liệu cho sản phẩm,
HTT giúp đáp ứng tốt như cầu thị trường, đặc biệt khi thị trường đang khan hiếm.
Đây cũng là cách hiệu quả nhằm duy trì và tăng số lượng khách hàng một cách tự
nhiên mà không cần tốn nhiều chi phí cho quảng bá, xây dựng hình ảnh. Thực tế,
nhiều doanh nghiệp đã nắm được và phát huy hiệu quả vai trò này, thậm chí nhiều
doanh nghiệp đã lợi dụng nó để ghim hàng, giữ hàng trong những thời điểm khan
hiếm, tạo vị thế độc quyền nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.
- Có rất nhiều cách phân loại hàng tồn trữ:

+

Theo khái niệm: hàng tồn trữ trong được chia làm ba loại chính: nguyên

liệu thô, sản phẩm tái chế và dự trữ thành phẩm.
Đây cũng là nội dung ta sẽ nghiên cứu cụ thể ở phần sau.
- Theo bản chất của cầu : hàng tồn trữ được chia thành tồn trữ theo những
khoản mục cầu độc lập và khoản mục cầu phụ thuộc.
- Theo mục đích dự trữ, chia thành dự trữ chu kỳ, dự trữ bảo hiểm, dự trữ dự
phòng và dự trữ cho thời kỳ vận chuyển


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
Với những kiến thức trên về HTT, vậy đầu tư cho HTT là gì? Đó là việc xác
định quy mô và chi phí cho hàng tồn trữ một cách hợp lý, tối ưu, sao cho đảm bảo
cho quá trình sản xuất và lưu thông diễn ra hiệu quả nhất.
Hàng tồn trữ là phần tài sản lưu động chịu tác động trực tiếp của quá trình sản
xuất kinh doanh. Đầu tư vào HTT là hoàn thiện nội dung đầu tư tài sản cho doanh
nghiệp.
Chi phí tồn trữ là khái niệm được quan tâm trên quan điểm đầu tư. Đó bao
gồm những chi phí cho khoản mục tồn trữ, chi phí dự trữ và chi phí đặt hàng.
- Chi phí cho khoản mục tồn trữ là chi phí mua hàng hoặc sản xuất của khoản
mục dự trữ.
Trong trường hợp đi mua, đó là chi phí của khoản mục dự trữ bao gồm chi phí
mua, vận chuyển và thuế các loại. Trong trường hợp tự sản xuất, đó là chi phí sản
xuất, gồm chi phí nguyên liệu thô,chi phí lao động,chi phí quản lý phân bổ..
- Chi phí dự trữ hàng hóa là những chi phí liên quan đến hàng đang dự trữ tại
kho, bao gồm chi phí về nhà cửa kho tang, chi phí sử dụng thiết bị phương tiện, chi
phí về nhân lực, phí tổn cho đầu tư vào dự trữ, hao hụt hư hỏng trong kho…

- Chi phí đặt hàng là toàn bộ chi phí liên quan đến việc thiết lập các đơn hàng
gồm:chi phí tìm nguồn hàng, chi phí thực hiện quy trình đặt hàng, chi phí chuẩn bị
và thực hiện chuyển hàng hóa về kho doanh nghiệp.
Quy mô đặt hàng tối ưu (Economic order quantity - EOQ) là quy mô đặt hàng
nà làm tổng chi phí đặt hàng là chi phí tồn trữ ít nhất.
Việc xác định được hai đại lượng trên hợp lí là bước đầu cho việc đầu tư hiệu
quả.

Đặc điểm của đầu tư hàng tồn trữ:
- Dự trữ chuyển hóa thành các dạng khác nhau trong quá trình sản xuất.
- Quy mô đặt hàng , quy mô đầu tư và dự trữ phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên
quan đến quá khứ, tương lai, mang tính dự báo và không chắc chắn.
- Phụ thuộc vào nguồn cung, nguồn cầu cũng như sự chậm trễ của khâu vận
chuyển, lưu thông.
b.
Nội dung đầu tư hàng tồn trữ trong doanh nghiệp
Nội dung đầu tư hàng tồn trữ trong doanh nghiệp được tiến hành theo 3 nội
dung phân theo ba hình thức hàng tỗn trữ.
- Đầu tư vào nguyên liệu thô tồn trữ trong doanh nghiệp
Đây là loại hàng chỉ có trong danh mục tồn trữ của các đơn vị sản xuất, không


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
xuát hiện trong các đơn vị thương mại hay dịch vụ. Đây là đầu vào cho quá trình
sản xuất, bởi vậy, các doanh nghiệp (sản xuất) đầu tư vào loại HTT này để nhằm
duy trì hoạt động, đặc biệt đối với những mặt hàng mang tính chất mùa vụ hoặc
mang tính khu vực, ít ổn định về số lượng và chất lượng cung ứng như nông sản
thô. Ngoài ra, như đã phân tích, nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nguyên liệu thô
nhằm tranh thủ cơ hội khan hiếm của thị trường cả về cung lẫn cầu.

- Đầu tư sản phẩm đang chế biến (sản phẩm dở dang)
Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc còn đang trong quá trình
sản xuất, gia công chế biến trên các giai đoạn của công trình công nghệ hoặc đã
hoàn thành một vài quy trình chế biến nhưng vẫn còn chế biến tiếp mới trở thành
thành phẩm.
Sản phẩm dở dang có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định chính xác lượng
và giá thành sản phẩm, không chỉ ảnh hưởng đến giá trị hàng tồn kho trên bảng cân
đối kế toán mà còn ảnh hưởng đến lợi nhuận trên báo cáo kết quả khi thành phẩm
xuất bán trong kỳ. Đầu tư vào sản phẩm dở dang là quá trình hoàn tất để biến chúng
thành sản phẩm hoàn thành, phục vụ cho quá trình tiêu dùng hàng hóa đó.
- Đầu tư thành phẩm tồn trữ
Thành phẩm là loại HTT xuất hiện trong tất cả các doanh nghiệp tại mọi lĩnh
vực. Đó là những sản phẩm đã kết thúc giai đoạn chế biến cuối cùng trong quy trình
công nghệ sản xuất ra sản phẩm đó của doanh nghiệp đã qua kiểm tra kỹ thuật và
được xác định là phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật quy định, đã được nhập kho hoặc
giao trực tiếp cho khách hàng. Thành phẩm của đơn vị này có thể là nguyên liệu cho
đơn vị khác, ví dụ như thành phẩm của doanh nghiệp sản xuất linh kiện lại là
nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp lắp ráp.
Đây là loại HTT chịu ảnh hướng trực tiếp của cầu thị trường và là đối tượng
được cung ứng cho thị trường từ doanh nghiệp. Bởi vậy, đây là loại HTT cần được
doanh nghiệp tính toán và quan tâm nhất.
Đầu tư vào thành phẩm tồn trữ, đó là việc xác định quy mô hợp lý, sao cho
lượng hàng này đủ nhiều để đáp ứng những biến động về cầu và tận dụng tình trạng
khan hiếm, cũng như không quá lớn để tốn thêm nhiều chi phí về bảo quản, vận
chuyển.


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
Tóm lại, đầu tư vào hàng tồn trữ là công việc cần thiết cho mỗi doanh nghiệp.

tuy nhiên, do đặc điểm phụ thuộc nhiều vào các yếu tố mang tính dự báo, cũng như
chịu ảnh hưởng của các phương pháp kế toán mà mỗi doanh nghiệp cần xem xét để
đưa ra quyết định đầu tư phù hợp nhất.
1.2.3

Đầu tư phát triển nguồn nhân lực

a.

Khái niệm, vai trò, các yếu tố cơ bản của nguồn nhân lực

Có nhiều cách hiểu về nguồn nhân lực. Nếu như Liên hợp quốc tiếp cận nguồ
nhân lực với các yếu tố thuộc về con người, ILO nghiêng về khía cạnh lao động, thì
Theo WB: “Nguồn nhân lực và toàn bộ nguồn vốn con người bao gồm thể lực, trí
lực, kĩ năng nghề nghiệp…của mỗi cá nhân”, đó là một nguồn lưc độc lập bên cạnh
các nguồn lực tài chính, tài nguyên, công nghệ… khác.
Dù nhìn nhận theo phương diện nào, thì nhìn chung, nguồn nhân lực được
hiểu đơn giản và cơ bản, đó là “nguồn lực con người”, với tổng thể các yếu tố bên
trong và bên ngoài của mỗi cá nhân để đóng góp cho mục tiêu chung, là nhân tố
quan trọng cho sự phát triển KT-XH. Điều này hoàn toàn thống nhất với các lí luận
trước đây, từ những quan điểm về tư liệu sản xuất và người lao động cấu thành nên
lực lượng sản xuất của Cac Mac, hay những mô hình tăng trưởng đề cao nhân tố
con người sau này.
- Vai trò của nguồn nhân lực:
Như đã được đề cập tới trong các mô hình kinh tế xuyên suốt từ cổ điển đến
hiện đại, nguồn nhân lực là một trong những đầu vào cơ bản và quan trọng của quá
trình sản xuất. Bên cạnh các yếu tố như đất đai-tài nguyên R, vốn-tư bản K, công
nghệ-kĩ thuật T, nguồn nhân lực đóng vai trò từ sơ khai nhất với cái tên “lao động”
L, khi chỉ thực hiện lao động giản đơn, đến cái tên mĩ miều “nhân lực” H khi thực
hiện những lao động phức tạp. Con người ở đây là thực thể đặc biệt, khi vừa là chủ

thể, vừa là đối tượng đầu tư. Số lượng và chất lượng lao động phán ánh sự đóng góp
về lượng và về chất cho quá trình sản xuất và cho cả nên kinh tế.
Sống trong thời đại của nền kinh tế tri thức, cụm từ “nguồn nhân lực” lại được
nhắc đến nhiều hơn bao giờ hết. Các tấm gương phát triển thần kì như Nhật Bản, và
sau này và các nước NICs đã cho thấy, nguồn nhân lực đã và đang là yếu tố có
những đóng góp vượt trội. Dưới góc độ doanh nghiệp, nguồn nhân lực là tài sản quý


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
giá, đóng góp cho khả năng cạnh tranh với các đổi thủ để tồn tại trên thị trường,
cộng hưởng với các yếu tố như công nghệ, tài chính…
Các yếu tố cơ bản cấu thành và là căn cứ đánh giá nguồn nhân lực có thể kể
đến:
- Số lượng nhân lực: Câu hỏi đầu tiên ta hình dung đến nguồn nhân lực, đó là
có bao nhiêu, và sẽ có thêm bao nhiêu người nữa trong tương lai? Theo nghĩa rộng,
nguồn nhân lực là khả năng cung cấp lao động cho xã hội, nghĩa là toàn bộ dân cư
có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động
của xã hội, nghĩa là toàn bộ các cá nhân tham gia vào quá trình lao động, quan niệm
này gần gũi với quan niệm về lao động thường thấy. Trên góc độ doanh nghiệp, số
lượng nhân lực và tổng số người tham gia và thời gian huy động vào hoạt động kinh
tế của doanh nhiệp và được trả công. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp như như
cầu lao động… và bên ngoài (gia tăng tự nhiên, gia tăng cơ học, thói quen…) ảnh
hưởng đến số lượng nguồn nhân lực.
- Chất lượng nhân lực: Chất lượng nhân lực là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu
tố bộ phận như: trí tuệ, trình độ văn hóa, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ,
thẩm mỹ.v.v... của người lao động. Trong đó, thể lực và trí lực là hai yếu tố quan
trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
+ Chỉ tiêu thể lực: thông qua các đo lường về chiều cao, cân nặng, các cơ
quan nội khoa…

+ Chỉ tiêu trí lực: biểu hiện trình độ chuyên môn, tay nghề của lao động được
đào tạo.
Nếu như chất lượng nguồn nhân lực và yếu tố ảnh hưởng hàng đầu ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và phản ánh trình độ phát triển của nền
kinh tế, thì trí lực là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng nguồn nhân lực.
- Bên cạnh hai yếu tố cơ bản trên, những yếu tố khác như: Cơ cấu nguồn nhân
lực (cơ cấu giới tính, độ tuổi, cơ cấu đào tạo…) cũng cần được nhìn nhận khi tiếp
cận vấn đề nguồn nhân lực.
Qua những kiến thức trên, có thể hiểu: Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là
hoạt động đầu tư nhằm nâng cao yếu tố chật lượng nguồn lực con người, đó là quá
trình trang bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như nâng cao điều kiện làm
việc cho người lao động, tạo điều kiện cho họ phát huy tối đa năng lực của mình.


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
- Đặc điểm của đầu tư phát triển nguồn nhân lực:
+ Đầu tư phát triển nguồn nhân lực không bị giảm giá trị trong quá trình sử dụng
mà ngược lại, sử dung càng nhiều, khả năng tạo thu nhập và thu hồi vốn càng cao.
+ Đầu tư vào nguồn nhân lực không có chi phí quá cao trong khi thời gian sử
dụng lớn, thường là thời gian làm việc của cả đòi người.
+ Đầu tư vào con người không chỉ do tỉ lệ thu hồi vốn đầu tư trên thị trường
quyết định.
+ Có hiệu ứng gián tiếp và lan tỏa lớn: Không chỉ đóng góp và tăng trưởng
kinh tế, đầu tư vào vốn nhân lực còn góp phần cải thiện các vấn đề xã hội, môi
trường.
+ Đầu tư phát triển nguồn nhân lực vừa là động lực, vừa là mục tiêu của xã hội
Tóm lại, do gắn với yếu tố con người, đầu tư phát triển nguồn nhân lực được
xác định là yếu tố then chốt trong các nội dung về đầu tư phát triển trong doanh
nghiệp.

b. Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
Nhằm tạo môi trường phát triển toàn diện cho con người, đầu tư phát triển
nguồn nhân lực tiến hành toàn diện theo những nội dung sau:
- Đầu tư đào tạo nhân lực:
Đào tạo là một quá trình có hệ thống nhằm nuôi dưỡng việc tích lũy các kỹ
năng, những quy tắc, hành vi hay thái độ dẫn đến sự tương xứng tốt hơn giữa những
đặc điểm của người lao động và yêu cầu của công việc.
Cần phân biệt Đào tạo với Phát triển, Đó là quá trình lâu dài nhằm nâng cao
năng lực và động cơ của nhân viên để biến họ thành những thành viên tương lai quý
báu của tổ chức. Phát triển không chỉ gồm đào tạo mà còn cả sự nghiệp và những
kinh nghiệm khác nữa. Như vậy, đào tạo nhân lực ở đây là những hoạt động ngắn
hạn, thông qua những kiến thức giáo dục cơ bản để nâng cao năng lực cá nhân,
phục vụ tố hơn cho công việc hiện tại.
Quá trình đào tạo được thực hiện theo 4 bước sau:


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh

Hình thức đào tạo rất phong phú, có thể là những khóa học chính quy hay tại
chức, bồi dưỡng nghiệp vụ… trong ngắn hạn, với những nội dung giáo dục cơ bản
phù hợp với mục đích và yêu cầu công việc hiện tại như: kiến thức nghề, kiến thức
chuyên môn, kĩ năng quản lý…, được tổ chức tại cơ sở chuyên đào tạo, hoặc cũng
có thể là các lớp huấn luyện ngắn ngày ngay tại doanh nghiệp đó.
Nội dung đào tạo cụ thể bao gồm:
 Đầu tư đào tạo nghề cho công nhân.
 Đầo tư đào tạo trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công nhân viên chức.
 Đầu tư đào tạo kiến thức quản lí cho cán bộ quản lý
Hoạt động cụ thể bao gồm:
- Đầu tư xây dựng chương trình giảng dạy: được xây dựng phù hợp với yêu

cầu, tính chất công việc cũng như trình độ chung của nhân viên được đào tạo.
- Đầu tư đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy học: giáo viên hướng dẫn có
thể là chuyên nghiệp, cũng có thể là các nhân viên giàu kinh nghiệm và có khả năng
truyền đạt từ chính doanh nghiệp, tuy nhiên, cần có sự tương tác giữa người dạy và
học,cũng như có thang đánh giá hiệu quả công tác đào tạo.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng giáo dục.
Hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân lực phải tuân thủ một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, xây dựng chiến lược đào tạo nhân lực rõ ràng: làm định hướng cho
người lao động về mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo một cách trọng tâm.


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
Thứ hai, khuyến khích nhân viên đến với trường đại học: thay vì lựa chọn các
khóa đào tạo ngắn hạn, nên lựa chọn những khóa học dài hạn bài bản ở trường đại
học.
Thứ ba, gắn hiệu quả đào tạo với nâng cao năng lực làm việc, tạo ra lợi thế
cạnh tranh. Mục đích cuối cùng của đào tạo là để nâng cao năng lực, phục vụ công
việc. Bởi vậy, trước khi thực hiện đầu tư, DN cần xem xét mục tiêu, nội dung ,
phương pháp có phù hợp với nhu cầu và thực tiễn DN không, chứ không nên đầu tư
theo phong trào hay đánh bóng hình ảnh.
Thứ tư, lấy thực tiễn cộng việc làm thước đo nhu cầu đầu tư cho đào tạo. Mục
tiêu doanh nghiệp chính là động lực, cũng là thước đo chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực. Lấy thực tiễn cộng việc để thiết kế nội dung, chương trình đào tạo là một
cách làm khôn ngoan: tiết kiện thời gian, chi phí; hiệu quả.
Thứ năm, khuyến khích người lao động tự học và học tập suốt đời. Tri thức và
kĩ năng là kết quả của quá trình tích lũy, đào tạo giúp họ nâng cao năng lực trong
ngắn hạn, nhưng chính sự tự học và rèn luyện suốt đời mới là nguồn gốc của phát
triển nhân lực dài hạn. Khả năng tự học của người lao động càng cao thì chi phí đào
tạo của DN càng giảm bớt.

Thứ sáu, chi phí đào tạo là hi phí đầu tư phát triển dài hạn. Chi phí đạo tạo
nhận lực phải được xem là chi phí đầu tư của DN, Hiểu quả của chi phí này thể hiện
ở thời gian thấp và khả năng ứng dụng cao.
- Đầu tư cải thiện môi trường làm việc cho con người
Cải thiện điều kiện lao động tuy có chi phí lớn nhưng bù lại đem lại một lợi
nhuận khổng lồ cho giới chủ. Vì thế các nhà quản lý phải tạo ra được sự ưu tiên cao
nhất về tính an toàn và phải biết được hết những rủi ro có ngay tại nơi làm việc.
Điều kiện, môi trường làm việc hợp lý cho người lao động, gồm trang thiết bị
an toàn, chăm sóc y tế và bảo hiểm,... để người lao động tránh được các tai nạn, rủi
ro và tránh các bệnh nghề nghiệp đảm bảo sức khoẻ cả về thể chất và tinh thần để
làm việc lâu dài.
Người lao động có quyền làm việc trong một môi trường an toàn và vệ sinh,


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
họ có quyền được bảo vệ tránh mọi nguy hiểm, có quyền được biết và được từ chối
các công việc nguy hiểm. Trên thực tế, ở một số công việc cụ thể, khó có thể giảm
bớt xác suất xảy ra thiệt hại đến mức bằng không. Có những trường hợp không thể
không sử dụng một số chất độc hại trong quá trình sản xuất, có những trường hợp
mặc dù đã tiến hành các biện pháp xử lý với chi phí cực kỳ cao, chất độc hại vẫn
tồn tại ở mức nhỏ. Vì vậy, người lao động phải chấp nhận mức rủi ro nhất định.
Trong trường hợp này, không thể quy trách nhiệm cho riêng một phía nào, người
chủ hay người lao động. Hành vi đạo đức hợp nhất ở đây là người chủ cần thông
báo đầy đủ về mối nguy hiểm của công việc để người lao động cân nhắc giữa rủi ro
và mức tiền công (thực tế có người lao động sẵn sàng chấp nhận các công việc nguy
hiểm để có mức tiền công cao), từ đó ra được các quyết định lựa chọn tự do.
Muốn cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân tại các khu công nghiệp cần
thực hiện tốt các biện pháp sau đây:
Một là, các doanh nghiệp cần đầu tư đổi mới công nghệ, có thể từng bước thay

thế các khâu sản xuất nguy hiểm, không an toàn bằng những khâu ít nguy hiểm hơn
hoặc tiến hành cơ giới hóa, tự động hóa các khâu đó.
Hai là, áp dụng kỹ thuật để bảo vệ người lao động, hạn chế tác động bởi các
yếu tố nguy hiểm nảy sinh trong lao động.
Ba là, cần trang bị phương tiện cá nhân được sản xuất theo tiêu chuẩn chất
lượng của nhà nước, việc quản lý cấp phát sử dụng theo quy định của pháp luật.
Bốn là, thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động. Các địa phương, ban quản lý
khu công nghiệp, các doanh nghiệp cần tập trung chỉ đạo đồng bộ các hoạt động
như: xây dựng nội quy bảo hộ lao động trong đó quy định cụ thể về nội dung an
toàn và vệ sinh lao động, những quy định về quyền và trách nhiệm của công nhân
và người sử dụng lao động.
Năm là, phát huy vai trò các cấp công đoàn cơ sở trong việc thực hiện các quy
định an toàn, vệ sinh lao động, như tăng cường truyền thông tin về tình hình tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người sử
dụng lao động, công đoàn cơ sở, người lao động trong công tác bảo hộ lao động,


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
nhằm nâng cao nhận thức của mọi ngành, mọi người đối với công tác bảo hộ lao
động.
- Đầu tư cho lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe người lao động
Nếu như con người là vốn quý nhất cho lao động, thì sức khỏe lại là điều quý
giá nhất của con người. Đầu tư cho lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe là tác động
trực tiếp vào yếu tổ thể lực, thông qua các nhóm việc làm cụ thể như:
 Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, đội ngũ cán bộ chăm sóc sức khỏe
có tay nghề, qua đó doanh nghiệp có thể đảm bảo việc khám sức khỏa tại chỗ cho
người lao động.
 Đầu tư án sinh xã hội cho doanh nghiệp: thông qua việc cấp thẻ BHYT cho
nhân viên, các chế độ phụ cấp, đãi ngộ, tăng chi cho công tác vệ sinh, an toàn bảo

hộ lao động…
- Trả lương đúng và đủ cho người lao động
Tiền lương là giá trị sức lao động, là điều tất yếu người lao động phải được
nhận khi bỏ ra công sức của mình. Các doanh nghiệp không chỉ phải tuân thủ điều
này như một lẽ tất yếu, mà còn nên sử dụng tiền lương như một công cụ đòn bẩy
hữu hiệu khuyến khích tinh thần, gắn bó doanh nghiệp với người lao động, tránh
tình trạng khất lương, nợ lương hay trả bằng sản phẩm như nhiều doanh nghiệp vẫn
làm. Trả đúng hạn, đúng người, đúng theo mức độ cống hiến, tiền lương đảm bảo
cho người lao động ổn định cuộc sống.
Tóm lại, đầu tư phát triển nguồn lao động là nội dung lớn và đóng vai trò đòn
bẩy, các hoạt động cụ thể trong đó bổ sung, tương hỗ cho nhau nhằm tạo điều kiện
toàn diện nhất cho việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực.
1.2.4 Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ
a.
Khái niệm, vai trò và đặc điểm của nguồn vốn công nghệ
Khoa học và công nghệ (KHCN) là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng
nhanh và phát triển bền vững, tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất. Nhờ ứng
dụng những thành tựu khoa học và công nghệ đã làm cho chi phí giảm xuống, hiệu
quả sử dụng tăng lên, tăng năng suất…
Sự phát triển khoa học và công nghệ cho phép tăng trưởng và tái sản xuất mở
rộng theo chiều sâu, làm xuất hiện những ngành kinh tế có hàm lượng khoa học cao


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
như: công nghệ điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học.
Vì vậy nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học công nghệ là việc quan
trọng , cần thiết trong hoạt động đầu tư phát triển doanh nghiệp, cần phải được quan
tâm đầu tư đúng mức.
Đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển khoa học- công nghệ là hình thức đầu

tư nhằm hiện đại hóa công nghệ và trang thiết bị, cải tiến đổi mới sản phẩm hàng
hóa dịch vụ, góp phần tạo chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng,hiệu quả
trong sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, tạo ra những
công nghệ mới trong các ngành và doanh nghiệp.


Đặc điểm

Đầu tư phát triển khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp được chia thành
2 loại: đầu tư phần cứng của KHKT-CN và đầu tư phần mềm của KHKT-CN:
- Đầu tư phần cứng KHKT-CN ở doanh nghiệp là hoạt động đầu tư cơ sở hạ
tầng, dây chuyền máy móc, trang thiết bị hiện đại, thể hiện qua các nội dung:
+ Một là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để tiếp nhận dây chuyền máy móc
thiết bị mới.
+ Hai là đầu tư nhập khẩu dây chuyền sản xuất phù hợp.
+ Ba là tiếp nhận công nghệ của dây chuyền máy móc trang thiết bị.
+ Bốn là tiến tới nghiên cứu triển khai để có thể sản xuất dây chuyền máy móc
dựa vào công nghệ được tiếp nhận.
- Đầu tư phần mềm của KHKT-CN ở doanh nghiệp là hoạt động đầu tư phát
triển nhân lực khoa học công nghệ, xây dựng thương hiệu, bí quyết kinh doanh, uy
tín…và đầu tư thể chế tổ chức phù hợp, năng động.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển KHCN trong doanh
nghiệp như: quy mô sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của doanh nghiệp, cơ
hội phát triển ngành và khả năng ứng dụng kĩ thuật trong ngành sản xuất…
b.
Nội dung đầu tư phát triển KHCN trong doanh nghiệp
Đầu tư phát triển KHCN trong doanh nghiệp bao gồm những nội dung từ khi
triển khai nghiên cứu, đến khi áp dụng và vận hành công nghệ.
- Đầu tư nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu triển khoa học (NCKH) là hoạt động tìm kiếm, xem, điều tra, thử

nghiệm dựa vào những số liệu, tài liệu, kiến thức…để phát hiện cái mới về bản chất


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, để sáng tạo phương tiện kỹ thuật cao hơn, giá
trị hơn.
Căn cứ theo các giai đoạn, có thể chia NCKH thành ba loại:
- Nghiên cứu cơ bản : là nghiên cứu nhằm phát hiện thuộc tính cấu trúc, động
thái sự vật, với kết quả là các khám phá, phát minh.
- Nghiên cứu ứng dụng: là sự vận dụng qui luậy được phát hiện từ nghiên cứu
cơ bản để giải thích sự vật hoặc tạo ra những nguyên lý mới về giải pháp.
- Nghiên cứu triển khai: sự vận dụng các lý thuyết để đưa ra các hình mẫu với
những tham số khả thi về kĩ thuật.
Về nội dung:
 Doanh nghiệp có thể đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra công nghệ mới
hay có những cải tiến trong việc sử dụng để tăng năng suất của doanh nghiệp, nhằm
tìm ra giải pháp công nghệ nâng cao năng suất.
 Doanh nghiệp có thể đầu tư cho nghiên cứu triển khai. Đây là hoạt động
đầu tư mang tính chất dài hạn, đồng thời kết quả thì chưa thể xác định trước, nên có
tính rủi ro cao nhưng có thể đem lại lợi nhuận lớn.
Vì vậy các công ty lớn có tiềm năng tài chính đồng thời có chiến lược phát
triển dài han thường có xu hướng đầu tư nhiều hơn cho hoạt động này.
Về hình thức, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học ở doanh nghiệp có
thể thực hiền qua các chương trình dự án.
Lưu ý: Phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần đầu
tư cho các hoạt động nghiên cứu triển khai ứng dụng công nghệ, tuy nhiên đầu tư
nghiên cứu công nghệ đòi hỏi vốn lớn, độ rủi ro cao.
- Đầu tư cho máy móc thiết bị, chuyển giao công nghệ để phát triển sản
phẩm mới

Đầu tư cho máy móc trang thiết bị hiện đại là hoạt động đầu tư ở các giai đoạn
tiếp theo khi việc sản xuất thử nghiệm các kết quả nghiên cứu và triển khai đã thành
công hoặc trong quá trình chuyển giao phần cứng của chuyển giao công nghệ. Thực
chất, đây là đầu tư trực tiếp cho sản xuất và thường có giá trị lớn do máy móc thiết
bị đòi hỏi giá thành cao. Hoạt động này có liên quan mật thiết đến nội dung đầu tư
TSCĐ cả hữu hình lẫn vô hình.
Chuyển giao công nghệ là hình thức mua và bán công nghệ trên cơ sở hợp


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
đồng chuyền giao công nghệ đã được thỏa thuận phù hợp với các quy định của pháp
luật. Trong đó:
+ Bên bán có nhiệm vụ chuyền giao các kiến thức tổng hợp của công nghệ
hoặc cung cấp các máy móc thiết bị dịch vụ đào tạo kèm theo các kiến thức công
nghệ cho bên mua.
+ Bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán để tiếp thu, sử dụng các kiến
thức công nghệ đó theo các điều kiện đã thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng
chuyển giao công nghệ.
Với việc đầu tư cho máy móc thiết bị hiện đại bằng chuyền giao công nghệ,
doanh nghiệp sẽ có lợi thế hơn so với những sản phẩm không có công nghệ đó hoặc
lợi thế giá thành rẻ do công nghệ giúp khai thác tối đa những nguồn lực mà đối thủ
không có. Cùng với mua bán thông thường, chuyển giao công nghệ là biện pháp
nâng cao, mở rộng công nghệ cho doanh nghiệp.
Về nội dung, doanh nghiệp có thể mua máy móc thiết bị bằng các cách khác
nhau:
- Mua đứt : công nghệ sẽ thuộc sở hữu độc quyền của doanh nghiệp, doanh
nghiệp sẽ là người duy nhất có quyền quyết định về công nghệ đó.
- Mua quyền sử dụng công nghệ: doanh nghiệp thường sử dụng cách này vì nó
tốn ít chi phí và ít rủi ro.

- Đầu tư đào tạo nhân lực sử dụng công nghệ mới
Thực chất, đây là một trong những nội dung trong đào tạo chuyên môn, nghiệp
vụ đã được nhắc đến khi phân tích hoạt đồng đầu tư đầo tạo nhằm phát triển nguồn
nhân lực.
- Đầu tư hỗ trợ khác
Máy móc thiết bị cần được vận chuyển, lắp ráp đúng quy trình, được kiểm tra
và bảo dưỡng thường xuyên, cũng như tính đến các hao mòn vô hình do sự tiến bộ
về công nghệ. Nội dung này liên quan mật thiết đến đầu tư cho tài sản cố định hữu
hình.
1.2.5 Đầu tư cho hoạt động Marketing
a.
Khái niệm, vai trò
Nếu như các hoạt động đầu tư trước gắn liền với quá trình vận hành sản xuất,
thì đầu tư cho hoạt động marketing thiên về lưu thông, nghĩa là đưa hàng hóa đó


SV: Lê Hoàng Long
GVHD: TS. Đào Văn Thanh
đến tay người tiêu dùng.
Hoạt động Marketing (trong đó có quảng cáo, xúc tiến thương mại , xây
dựng thương hiệu) là những hoạt động không thể thiếu của doanh nghiệp. Quảng
cáo, xúc tiến thương mại , xây dựng thương hiệu không phải là những hoạt động
riêng biệt tách rời mà có mối liên hệ mật thiết. Quảng cáo là chiến lược ngắn hạn
trong mục tiêu xây dựng thương hiệu dài hạn và được hỗ trợ bởi các hoạt động xúc
tiến thương mại. Thương mại là một tài sản vô hình đặc biệt, mà trong nhiều doanh
nghiệp, nó được coi là tài sản quan trọng nhất. Thương hiệu ảnh hưởng đến sự lựa
chọn của người tiêu dùng, của nhà đầu tư và cả các cơ quan công quyền.
- Vai trò :
Đầu tư vào hoạt động động marketing là nhân tố cần thiết cho sự thành công
của doanh nghiệp. Nhờ có marketing, tiến hành dự báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm,

dự tính các hành động của doanh nghiệp, hỗ trợ bán hàng thông qua quảng cáo,
khuyến mại… Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm tỷ trọng hợp lý trong
tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp.
- Đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm:
- Đầu tư cho hoạt động quảng cáo (chiến lược ngắn hạn)
- Đầu tư xúc tiến thương mại.
- Đầu tư cho xây dựng thương hiệu( chiến lược dài hạn)
b. Nôi dung, phương thức đầu tư.
- Đầu tư cho hoạt động quảng cáo
Chiến lược quảng cáo là cách thức truyền tải thông tin tới người tiêu dùng.
Nhiệm vụ đầu tiên của quảng cáo là nhằm cung cấp thông tin, củng cố hoặc đảm
bảo uy tín cho sản phẩm. Quảng cáo có thể khuyến khích hành động mua hàng
ngay lập tức và tạo ra luồng lưu thông cho bán lẻ. Đầu tư cho hoạt động quảng
cáo gồm:
- Chi tiêu cho các chiến dịch quảng cáo (chi phí nghiên cứu thị trường mục
tiêu, nghiên cứu thị trường, nghiên cứu thông điệp quảng cáo).
- Chi phí truyền thông phù hợp (báo, tạp chí, phát thành, truyền hình, gửi thư


×