Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng ở việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.22 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CAO XUÂN QUẢNG

PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN BẰNG THƢ TÍN DỤNG Ở
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ :

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. LÊ THỊ THU THỦY

HÀ NỘI - NĂM 2007


MỤC LỤC.
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt.
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THANH TOÁN BẰNG THƢ TÍN DỤNG TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
I.1
I.1.1
I.1.2
I.1.3
I.1.4
I.2
I.3


I.3.1
I.3.2
I.4
I.4.1
II.4
II.5
II.6
I.4.2
I.5
I.5.2
I.5.2

Khái niệm về thư tín dụng và phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.
Nguồn gốc hình thành thư tín dụng
Khái niệm thư tín dụng
Vai trò của thư tín dụng
Bản chất pháp lý của thư tín dụng.
Các loại thư tín dụng.
Các nguyên tắc, đặc trưng của phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.
Các nguyên tắc cơ bản của phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.
Các đặc trưng của phương thức tín dụng chứng từ.
Các bên tham gia và quá trình thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng.
Các bên tham gia, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quá trình thanh toán bằng thư
tín dụng theo các quy định của UCP và các quy định có liên quan.
Quan hệ giữa thư tín dụng và hợp đồng mua bán.
Quan hệ giữa người mua (người yêu cầu mở thư tín dụng) và ngân hàng phát hành.
Quan hệ giữa ngân hàng phát hành, người thụ hưởng và ngân hàng trung gian.
Quy trình thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng.
Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng trước yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.

Pháp luật về thanh toán bằng L/C – cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các quan hệ thanh
toán bằng L/C.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và những yêu cầu đặt ra đối với quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng ở Việt Nam.

Chương II : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN BẰNG THƢ TÍN DỤNG Ở
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIÊN NAY.
Các quy định quốc tế điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng L/C.
Các UCP.
eUCP và ISBP – các phụ bản của UCP.
Các văn bản pháp lý điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng L/C ở Việt Nam.
Các dạng tranh chấp phổ biến phát sinh từ hoạt động thanh toán bằng L/C và giải quyết
tranh chấp.
II.3.1 Các tranh chấp liên quan đến chứng từ xuất trình.
II.3.2 Tranh chấp phát sinh do cách hiểu không đúng về điều kiện phi chứng từ.
II.3.3 Các tranh chấp liên quan tới trách nhiệm của các bên tham gia vào phương thức tín dụng
chứng từ.
II.1
II.1.1
II.1.2
II.2
II.3


II.4

Các vấn đề đặt ra từ việc áp dụng pháp luật về thanh toán bằng L/C ở Việt Nam.

Chương III : HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN BẰNG TÍN DỤNG THƢ.
III.1

III.2
III.2.1
III.2.2
III.2.2

Cơ sở cho việc định hướng hoàn thiện pháp luật về thư tín dụng.
Hoàn thiện pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng.
Xử lý các vấn đề tồn tại.
Hoàn thiện các quy định hiện hành.
Đề xuất.

Kết luận.
CÁC PHỤ LỤC.

DANH MỤC MỘT SỐ CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

L/C

Letter of Credit (Thư tín dụng)
The Uniform Customs and Practice (for

UCP

Documentary Credits)


The supplement to the Uniform Customs
and Practice for the Documentary Credits
eUCP


for Electronic presentation
The

International

Practice

(for

Documentary

Standard

the

Baniking

Examination

under

of

Documentary

ISBP

Credits)

ICC


The International Chamber of Commerce

NHNN

Ngân hàng Nhà nước



Nghị định của Chính Phủ

MỞ ĐẦU
I.

Tính cấp thiết của đề tài :

Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra rất sôi động và mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta
chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quan hệ giao lưu, buôn bán với các nước.
Tham gia sân chơi chung tức là chúng ta phải chấp nhận những quy tắc, luật lệ chung trong đó có
các quy tắc trong thanh toán thương mại quốc tế bằng thư tín dụng (L/C).
Trên thực tế, thư tín dụng là một công cụ rất cổ điển trong thanh toán thương mại quốc tế,
nhưng hiểu và vận dụng cho đúng và hiệu quả lại là một vấn đề không hề đơn giản.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, chúng ta chịu ảnh hưởng và chủ yếu quan hệ với Liên
Xô và các nước trong khối Đông Âu. Việc giao thương buôn bán cũng tương đối trầm lắng, chủ
yếu dùng phương thức nhờ thu với đồng tiền thanh toán là đồng Rúp. Nhưng từ sau năm 1986,


với chủ trương mới và đặc biệt sau những năm đầu thập kỷ 90 đầy biến động của thế kỷ trước,
chúng ta đã có những thay đổi lớn về nhận thức và quan điểm quan hệ quốc tế, trong đó có
thương mại quốc tế. Người ta vẫn nói, toàn cầu hoá là một cuộc chơi mà ở đó phần thắng luôn

thuộc về những người hiểu rõ luật chơi. Vì vậy, nắm được luật chơi chung là yêu cầu rất bức
thiết.
Hiện nay, chúng ta chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, đã và đang tích cực tham
gia, gia nhập những tổ chức thương mại lớn (một trong những thành quả lớn nhất và mới nhất là
việc chúng ta vừa trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO trong năm
2006). Vì vậy, việc nắm rõ về phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, đặc biệt trong thương
mại quốc tế là rất cần thiết, tránh những thiệt hại, yếu thế không đáng có.
Đã hơn 20 năm bước vào thời kỳ đổi mới, 15 năm bước vào kinh tế thị trường với rất
nhiều cơ hội tham gia các quan hệ thương mại quốc tế nhưng thực thế các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu của chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu biết và vận dụng hiệu quả phương thức thanh toán
bằng thư tín dụng – một trong những phương thức thanh toán quan trọng của thương mại quốc
tế.
Hiện nay, các quy định về thanh toán bằng L/C ở Việt Nam là rất thiếu và yếu, cần được
nghiên cứu, phân tích để tìm nguyên nhân và các giải pháp hoàn thiện.
Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng,
thực tế đã có một số bài báo, báo cáo khoa học và một số nghiên cứu, giáo trình, sách…như :
Một số giáo trình của trường Đại học Ngoại thương Hà Nội1 , của các tác giả đã hoặc đang làm
Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam 2 , ngoài ra còn một số bài báo, tài liệu
của những người đang làm các công tác liên quan tại các Ngân hàng…Dù vậy, chưa có nhiều
công trình đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ và hoàn chỉnh cả về cơ sở lý luận và thực tiễn cho
các quy định này.
Với những lý do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài “ Pháp luật về thanh toán bằng thư tín
dụng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
II.

Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận về thanh toán bằng L/C,
đồng thời xem xét đánh giá thực trạng các quy định hiện nay ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng
các quy định này, tôi mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận, bản chất của các quy định về thanh

toán bằng thư tín dụng, từ đó đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định này.
III.

Nhiệm vụ của Luận văn
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn cần có những nhiệm vụ cụ thể sau :

1
2

Xem cỏc sỏch, giỏo trỡnh của Đinh Xuõn Trỡnh, Nguyễn Thị Quy, Nguyễn Thị Mơ…
Xem cỏc tỏc phẩm của Nguyễn Trọng Thựy


-

Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thư tín dụng, vị trí vai trò của nó
trong hoạt động thanh toán của các doanh nghiệp (đặc biệt trong thanh toán quốc tế)

-

Nghiên cứu bản chất của thư tín dụng, các bên tham gia và bản chất mối quan hệ giữa
các bên, các bộ phận cấu thành thư tín dụng...

-

Nghiên cứu thực trạng các quy định, các quy tắc đang được áp dụng hiện nay ở Việt
Nam điều chỉnh vấn đề thanh toán bằng thư tín dụng. Từ đó đề ra các phương hướng
hoàn thiện các quy định này.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu :


IV.
-

Đối tượng nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các quy định hiện
hành đang được sử dụng để điều chỉnh các phương thức thanh toán trong thương mại
quốc tế ở Việt Nam, trong đó chủ yếu là thư tín dụng. Đồng thời cũng nghiên cứu giá
trị thực tiễn của các quy định này.

-

Phạm vi nghiên cứu : Đề tài chỉ đi vào nghiên cứu các khía cạnh pháp lý của vấn đề
mà không đi sâu vào khía cạnh kinh tế hay các khía cạnh có tính nghiệp vụ.
Phƣơng pháp nghiên cứu

V.

Để thực hiện đề tài nay, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm
làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Đóng góp của việc nghiên cứu đề tài

VI.
-

Làm sáng tỏ bản chất và quy trình thực hiện của thư tín dụng, giúp các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu hiểu rõ giá trị và quy trình thực hiện của thư tín dụng.

-


Nghiên cứu một cách tổng thể các quy định hiện được áp dụng về vấn đề thư tín
dụng, tìm ra những mặt được và mặt chưa được, những khía cạnh đã được quy định,
những khía cạnh còn bỏ ngỏ hay còn yếu...

-

Đưa ra được những đề xuất nhằm tiếp tục hoàn thiện những quy định về thư tín dụng,
giúp những nhà xuất khẩu thực sự có một công cụ thanh toán hiệu quả trong thương
mại quốc tế....

VII.

Bố cục của Luận văn :

Ngoài các phần Lời cam đoan, Lời cảm ơn, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và các
phụ lục, luận văn gồm 03 chương.


CHƢƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THANH TOÁN BẰNG THƢ TÍN DỤNG TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

I.1

Khái niệm về Thƣ tín dụng và thanh toán bằng thƣ tín dụng.
I.1.1

Nguồn gốc hình thành thư tín dụng.

Trong giai đoạn đầu tiên hình thành lịch sử loài người, có một số mốc được coi là rất
quan trọng. Chẳng hạn, việc con người đứng thẳng lên đi bằng hai chân là đánh dấu việc con

người chuyển từ vượn sang người. Khi con người bắt đầu biết sử dụng công cụ lao động là chính
thức bước từ giai đoạn thụ động sử dụng các sản phẩm thiên nhiên mà đã chính thức khai thác
thiên nhiên một cách chủ động. Có lửa, con người bước từ ăn sống nuốt tươi sang giai đoạn ăn
chín...Và khi sản phẩm dư thừa, nhu cầu trao đổi xuất hiện, dẫn đến sự ra đời của thương mại. Có
thể nói, việc xuất hiện hoạt động thương mại đánh dấu một bước phát triển lớn trong tiến trình
lịch sử loài người.
Thương mại quốc tế gần như là xuất hiện và phát triển cùng với sự xuất hiện và phát triển
của “loài người” theo đúng nghĩa. Và như là một quá trình tất yếu, trong sự phát triển của thương
mại, con người dần dần đúc kết, xây dựng những quy tắc, tập quán, tục lệ để hoạt động này ngày
càng hoàn thiện hơn, phục vụ tốt hơn nhu cầu của loài người.
Cùng với những thuận lợi có thể mang lại, các hoạt động thương mại quốc tế cũng chứa
đựng những rủi ro. Khả năng xảy ra rủi ro là có với cả người mua và người bán, đặc biệt là trong
những giai đoạn như vận chuyển, thanh toán...Thư tín dụng ra đời chính từ nhu cầu hạn chế
những rủi ro phát sinh trong thực tiễn . Những rủi ro này thường xảy ra khi hai bên tham gia giao
dịch ở cách xa nhau về mặt địa lý, thiếu thông tin về đối tác, và hàng hoá phải vận chuyển qua
những phương tiện chuyên chở đường dài có nhiều rủi ro như tàu biển, máy bay hay tàu hoả.
Thực tế cho thấy, mặc dù đôi khi người bán không thể đánh giá hết khả năng thanh toán của
người mua qua các thông tin mình có, hay người mua có thể phải thanh toán khi không có một
đảm bảo nào với việc hàng được xuất đi, cũng như có phù hợp với yêu cầu không, họ vẫn có nhu
cầu tham gia giao dịch. Như vậy, không thể vì những rủi ro có thể xảy ra mà không tiến hành các
hoạt động thương mại, vấn đề là phải nghĩ ra các công cụ, phương tiện, biện pháp để hạn chế nó.
Mặt khác, một lý do dẫn đến sự ra đời của thư tín dụng là nhu cầu được thanh toán nhanh
chóng của người bán. Hầu hết các hoạt động thương mại quốc tế đều được thực hiện với những
khoảng cách rất xa, chính điều này mang lại nhiều khó khăn cho vận chuyển và thanh toán.
Chẳng hạn, một tầu hàng từ Việt Nam sang đến Hoa Kỳ hay Braxin bằng đường biển có thể mất
nhiều tháng và phải qua rất nhiều quốc gia, bến cảng... Trong trường hợp này phương thức thanh


toán cổ điển “giao hàng - trả tiền”: thường khiến cho cả người bán lẫn người mua không chủ
động được về mặt vốn cũng như điều hành kinh doanh. Để bán một tầu hàng, có khi người bán

phải chịu “đọng vốn” cả năm trời...Ngay cả người mua cũng khó mà chủ động kế hoạch kinh
doanh...
Thực tế đó phát sinh đòi hỏi phải có một phương thức thanh toán vừa đảm bảo cho người
bán được nhanh chóng nhận tiền sau khi xuất hàng đi, đồng thời lại đảm bảo cho người mua
nhận hàng đúng và đủ với yêu cầu. Phương thức thanh toán đó phải giản tiện, linh hoạt và phải
dựa trên những bằng chứng thuyết phục về việc người bán đã thực hiện nghĩa vụ của mình.
Trong những tài liệu giao dịch, có một loại tài liệu có thể chứng minh sự tồn tại của hàng hoá,
xác nhận hiện trạng hàng hoá cũng như việc chuyển giao hàng hoá từ người bán sang người vận
chuyển … trong mọi trường hợp đều cần phải có trong việc giao hàng, đó là chứng từ. Chứng từ
dưới dạng một hay nhiều văn bản xác nhận việc chuyển giao hàng hoá, đóng một vai trò quan
trọng làm đại diện thay thế cho hàng hoá trong quá trình thanh toán.
Nhưng người bán và người mua không thể tự mình thực hiện mọi công việc liên quan.
Đến đây, xuất hiện nhu cầu của những người trung gian, đó là các ngân hàng. Khi đó, dựa trên
chứng từ, Ngân hàng của người mua sẽ tiến hành chi trả khi chứng từ thoả mãn những điều kiện
và tiêu chuẩn đã được quy định. Việc tiến hành thanh toán thông qua ngân hàng dựa trên chứng
từ được xuất trình trở thành một giải pháp cho cả hai vấn đề nêu trên và là cơ sở hình thành hình
thức thanh toán bằng thư tín dụng trong quan hệ thương mại quốc tế.
I.1.2

Khái niệm thư tín dụng

Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng còn được gọi là phương thức tín dụng chứng
từ. Đây là một trong nhiều phương thức thanh toán không sử dụng tiền mặt trong thương mại,
đặc biệt là thương mại quốc tế.
Về bản chất, tín dụng chứng từ được thực hiện dựa trên sự can thiệp của ngân hàng vào
một giao dịch thương mại theo yêu cầu của một bên tham gia giao dịch, cho phép thanh toán cho
người bán trên cơ sở xuất trình chứng từ viết.
Có nhiều cách để định nghĩa về thư tín dụng, nhưng định nghĩa được thừa nhận rộng rãi
và được coi là chuẩn mực nằm tại Điều 2 của bộ Các quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng
chứng từ, xuất bản phẩm số 500 (UCP 500) (vấn đề các UCP sẽ được trình bày chi tiết tại

chương II). Theo đó, UCP 500 đã đưa ra một định nghĩa như sau:
Những thuật ngữ “tín dụng chứng từ” và “thư tín dụng dự phòng” (dưới đây gọi chung là
Tín dụng) có nghĩa là bất cứ một một thoả thuận nào, dù cho được gọi hoặc mô tả như thế nào,
theo đó một Ngân hàng (Ngân hàng phát hành) hành động theo yêu cầu và chỉ thị của một khách
hàng (người yêu cầu phát hành tín dụng) hoặc nhân danh chính mình:
- phải tiến hành việc trả tiền hoặc trả tiền theo lệnh của một người thứ ba (Người thụ
hưởng lợi) hoặc phải chấp nhận và trả tiền các hối phiếu do người thụ hưởng lợi ký phát,
hoặc
- phải uỷ quyền cho một ngân hàng khác tiến hành thanh toán như thế hoặc chấp nhận và
trả tiền các hối phiếu như thế


hoặc
- uỷ quyền cho một ngân hàng khác chiết khấu
khi (các) chứng từ quy định được xuất trình với điều kiện là các điều kiện của Tín dụng được
thực hiện đúng”
Theo quy định tại Điều 16 của Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 03
năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (“ quyết định 226” )thì :
“Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được Ngân hàng mở theo yêu cầu của
người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng), theo đó, Ngân hàng thực hiện yêu
cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng) để :
- Trả tiền hoặc ủy quyền cho Ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ
hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tíndụng; hoặc
- Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho Ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của người
thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù
hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng”.
Như vậy, nếu theo quy định trên, về phạm vi, thư tín dụng được dùng để thanh toán giữa
người mua và người bán cả trong quan hệ thương mại trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên,
trong thực tế ở Việt Nam, thư tín dụng chủ yếu được dùng trong các quan hệ thương mại quốc tế

mà hầu như không bao giờ được sử dụng cho các quan hệ thương mại nội địa. Điều này do nhiều
nguyên nhân. Có thể là do trong các quan hệ thương mại nội địa, các thương nhân còn có rất
nhiều công cụ thanh toán khác hiệu quả. Và điều quan trọng hơn có lẽ và do chưa có sự nhận
thức về vai trò của thư tín dụng cũng như chưa có thói quen sử dụng nó cho thương mại trong
nước.
Ngoài quy định nêu trên về thư tín dụng nói chung, vai trò của thư tín dụng trả chậm
được đặc biệt quy định riêng tại Điều 1 Quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành
kèm theo Quyết định số 711/2001/QĐ – NHNN ngày 25/5/2001, theo đó:
“Thanh toán bằng thư tín dụng trả chậm (sau đây gọi là “nghiệp vụ L/C trả chậm”) là
một phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có kỳ hạn do ngân hàng thực hiện để phục vụ cho
việc nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp”
Có thể nói thư tín dụng là một vấn đề không mới. Nó đã được thừa nhận và sử dụng rộng
rãi trên thế giới, đồng thời, những nguyên tắc, tập quán cũng như những vấn đề liên quan đã
được tổng hợp, đúc kết thành những văn bản, tài liệu được thừa nhận rộng rãi.
Ở Việt Nam, dù các quy định pháp luật chưa đầy đủ và hoàn chỉnh, nhưng thực tế các
doanh nghiệp và đơn vị cơ quan Nhà nước ở Việt Nam trong quan hệ thương mại quốc tế từ
trước đến nay vẫn thừa nhận thư tín dụng cũng như các vấn đề liên quan dựa trên các thông lệ và
tập quán quốc tế, cụ thể nhất là Các quy tắc và thực hành thống nhất tín về dụng chứng từ do
Phòng Thương mại quốc tế soạn thảo và ban hành.


Quy chế Mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành kèm theo Quyết định số
711/2001/QĐ – NHNN ngày 25/5/2001, tại khoản 2 Điều 6 đã quy định rằng ngoài trách nhiệm
phải tuân thủ pháp luật Việt Nam, việc mở thư tín dụng trả chậm để nhập khẩu hàng hoá phải
bảo đảm phù hợp với Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của Phòng Thương mại
Quốc tế (Theo phiên bản mà Ngân hàng lựa chọn để thực hiện).
Điều 19, Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2002 của Thống đốc Ngân
hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán cũng quy định : “ ..việc mở, phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận,
kiểm tra chứng từ, thanh toán, quyền, nghĩa vụ của các bên liên quan trong thanh toán thư tín

dụng thực hiện theo các quy tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại quốc tế ICC
ban hành, do các bên tham gia thanh toán thỏa thuận áp dụng và theo quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam”.
Như vậy, bằng quy định này, Ngân hàng nhà nước đã thừa nhận một cách chính thức định
nghĩa cũng như các vấn đề liên quan khác theo như tập quán thương mại quốc tế được thừa nhận
rộng rãi (quy định trong các UCP).
Do đó, từ những phân tích nêu trên, trong luận văn này, thuật ngữ “thư tín dụng” sẽ được
hiểu đầy đủ và trọn vẹn theo định nghĩa về “thư tín dụng” được quy định trong các UCP do
Phòng Thương mại quốc tế (ICC) soạn thảo và ấn hành.
Các nội dung cơ bản 3 của một Thư tín dụng bao gồm :

3

-

Tên ngân hàng thông báo (Advising Bank)

-

Hình thức tín dụng chứng từ, tức L/C (form of documentary credit) (Ví dụ : không hủy
ngang, chuyển nhượng, xác nhận…).

-

Ngày phát hành (Date of issue) hay ngày mở (opening date).

-

Ngày và nơi hết hiệu lực (Date and place of expiry).


-

Người mở L/C (Applicant), tức người xuất khẩu

-

Người thụ hưởng (Beneficiary), tức người xuất khẩu, người bán.

-

Số tiền L/C (L/C Amount): bằng số và chữ giống nhau, loại ngoại tệ được thanh toán tại
(Available with) : - NH thông báo (Advising Bank) – Bất kỳ NH nào (Any Bank), bằng
một trong ba cách : (i) Chiết khấu (Negotiation); (ii) Chấp nhận hối phiếu (Acceptance);
và (iii) Thanh toán (Payment).

-

Giao hàng từng phần (Partial shipment) : được phép (allowed) hay không được phép (not
allowed).

Cỏc nội dung cơ bản sẽ được phõn tớch cụ thể hơn ở cỏc phần sau


-

Chuyển tải (Transhipment) : Được phép (allowed) hay không được phép (not allowed).

-

Ngày gửi hàng chậm nhất (Latest date of shipment) hay ngày gửi hàng phải được thực

hiện không trễ hơn…(shipment must effected not later than….)

-

Mô tả hàng hóa (Description of goods) : các chứng từ cần xuất trình theo yêu cầu
(Documents required);

-

Thời hạn xuất trình chứng từ (Period of Presentation) hay việc xuất trình các chứng từ
phải được thực hiện trong vòng…..ngày sau khi vận đơn (presentation of documents
should be made within….days after B/L date).

Các nội dung nêu trên sẽ được làm rõ ở các phần sau của luận văn này.
I.1.3

Vai trò của thư tín dụng

Trong việc thanh toán tiền hàng xuất nhập khẩu, có nhiều phương thức tồn tại, đó là :
-

Phương thức ghi sổ (Open account).

-

Phương thức chuyển ngân (Remittance); hoặc bằng điện TT (Telegraphic Transfer)

-

Phương thức nhờ thu ngân chứng từ (Doccumentary collection : Encaisement

documentaire) gồm : phương thức “chứng từ đổi thanh toán” D/P (Documents against
payment); phương thức “ chứng từ đổi chấp nhận” D/A (Documents against acceptance).

-

Phương thức “ Trả tiền mặt đổi chứng từ” CAD (cash against documents).

-

Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.

Trong đó, phương thức thanh toán bằng tín dụng thư là phương thức ít rủi ro nhất và cũng
hay được sử dụng nhất do các ưu thế của nó so với các phương thức khác (sẽ được phân tích
nhiều hơn ở các phần sau).
Như đã phân tích trong phần nguồn gốc và định nghĩa, trước hết, thư tín dụng có vai trò
là phương tiện thanh toán. Nó tạo điều kiện cho việc thanh toán giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập
khẩu được thực hiện nhanh chóng qua đó thúc đẩy sự luân chuyển của đồng vốn cũng như thúc
đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế.
Việc thanh toán được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau (thanh toán ngay, chấp
nhận và thanh toán hối phiếu, chiết khấu hối phiếu …). Quyết định 226 quy định thư tín dụng là
một thể lệ thanh toán qua ngân hàng bên cạnh các thể lệ thanh toán khác như séc, uỷ nhiệm chi chuyển tiền, uỷ nhiệm thu, ngân phiếu thanh toán, thẻ thanh toán …
Thư tín dụng còn có vai trò bảo đảm. Đối với nhà xuất khẩu, bảo đảm này xuất phát từ cam kết
của ngân hàng. Tuy nhiên, khác với bảo lãnh, những bảo đảm này là song phương. Dù cho cơ


chế này phát sinh để bảo vệ quyền lợi của người bán, thì người mua vẫn được đảm bảo rằng việc
thanh toán chỉ xảy ra khi có sự xuất trình các chứng từ phù hợp với yêu cầu của người mua và
của ngân hàng khi ngân hàng kiểm tra theo trách nhiệm của mình. Nghĩa là, thư tín dụng không
đơn




×