Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Đảng bộ tỉnh phú thọ lãnh đạo kinh tế nông nghiệp giai đoạn 1954 1968

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.31 KB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

DƢƠNG ĐÌNH QUYỀN

ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
GIAI ĐOẠN 1954 – 1968

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo là giảng viên Khoa Lịch sử,
trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, giúp đỡ để tôi hiểu hơn về
lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Nhờ
có quá trình tích lũy đó mà tôi hoàn thành đƣợc khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Trần Thị Vui, ngƣời đã
trực tiếp hƣớng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin cảm ơn, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ, Cục Thống kê tỉnh
Phú Thọ đã cung cấp cho tôi những tài liệu về vấn đề nghiên cứu để tôi hoàn
thành khóa luận.
Do hạn chế về thời gian, nguồn tƣ liệu cũng nhƣ trình độ nghiên cứu nên
khóa luận còn thiếu sót, rất mong đƣợc sự đóng góp của các thầy cô và các
bạn sinh viên để khóa luận đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xuân Hòa, tháng 4 năm 2016
Tác giả


Dƣơng Đình Quyền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin khẳng định kết quả nghiên cứu của đề tài: “Đảng bộ tỉnh Phú
Thọ lãnh đạo phát triển nông nghiệp giai đoạn 1954-1968” không có sự
trùng lặp với kết quả của các đề tài khác.
Xuân Hòa, tháng 4 năm 2016
Tác giả
Dƣơng Đình Quyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
NỘI DUNG .................................................................................................... 6
Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ VỀ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN 1954-1968 .......................... 6
1.1 Khái quát về tỉnh Phú Thọ ..................................................................... 6
1.2 Chủ trƣơng của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp đáp ứng yêu cầu
xây dựng hậu phƣơng miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc .. 14
1.3 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ quán triệt chủ trƣơng của Đảng về xây dựng phát
triển kinh tế nông nghiệp trong những năm 1954-1968 ............................. 20
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN 1954-1968 ........................ 27
2.1 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo quá trình cải cách ruộng đất và hàn gắn
vết thƣơng chiến tranh (1954-1957) .......................................................... 27
2.2 Đảng bộ tỉnh lãnh đạo cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế nông
nghiệp (1958-1960) ................................................................................... 31
2.3. Tỉnh Phú Thọ thực hiện kế hoạch Nhà nƣớc 5 năm lần thứ nhất (19611965) ......................................................................................................... 34
2.4 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo nhân dân phát triển nông nghiệp trong

điều kiện có chiến tranh (1965-1968) ........................................................ 44
Chƣơng 3: THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ........ 49
3.1 Thành tựu .............................................. Error! Bookmark not defined.
3.2 Hạn chế ............................................................................................... 50
3.3 Một số kinh nghiệm........................................................................... 515
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 57


Bản đồ hành chính tỉnh Phú Thọ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một thành phần kinh tế có vai trò, vị trí hết sức quan
trọng đối với nền kinh tế quốc dân, là cơ sở để phát triển công nghiệp, cung
cấp lƣơng thực thực phẩm, góp phần đáng kể vào ngân sách Nhà nƣớc
đồng thời nâng cao đời sống nhân dân.
Nƣớc ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất phát thấp từ nền kinh tế
nông nghiệp. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng
và chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Nông nghiệp tốt, công
nghiệp tốt, thì xây dựng tốt chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm cơ sở vững
mạnh cho sự nghiệp đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nƣớc nhà”
[23,tr.136]. Đảng và Nhà nƣớc rất chú trọng phát triển kinh tế nông
nghiệp.Trong kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc (1954-1975) việc phát triển
kinh tế nông nghiệp có ý nghĩa rất to lớn.Cung cấp lƣơng thực, thực phẩm
cho tiền tuyến, đáp ứng nhu cầu lƣơng thực cho ngƣời tham gia chiến đấu
và phục vụ chiến đấu. Bảo đảm nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân. Các địa phƣơng đều nỗ lực, hăng hái sản xuất, đáp ứng khẩu hiệu:
“Tiền tuyến gọi địa phƣơng trả lời”, “Thóc không thiếu một cân, quân
không thiếu một ngƣời”.

Phú Thọ là một tỉnh thuộc khu vực trung du và miền núi phía Bắc, có
nhiều điều kiện thuận lợi về khí hậu, địa hình, địa chất để phát triển nông
nghiệp.
Trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), thực hiện nhiệm vụ chiến
lƣợc đƣa miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời tăng gia sản xuất
làm nghĩa vụ hậu phƣơng lớn chi viện cho miền Nam đánh giặc, Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ đã rất quan tâm, chỉ đạo nhân dân phát triển nông nghiệp và

1


thu đƣợc nhiều thành tựu đáng kể, có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ miền Bắc và của cả nƣớc.
Nhằm làm rõ những chủ trƣơng, chính sách của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ
đối với nông nghiệp trong giai đoạn 1954-1968 và những thành quả đạt
đƣợc, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo phát triển
kinh tế nông nghiệp giai đoạn 1954-1968” làm khóa luận tốt nghiệp,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về vấn đề nông nghiệp và nông thôn dƣới sự lãnh đạo của
Đảng đã đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm, có thể kể đến một số công
trình:
Đinh Thu Cúc (5/1998), Nông dân và nông thôn hiện nay – những vấn
đề cần quan tâm.
Lê Doãn Diên (7/1990), Nông nghiệp và vấn đề phát triển nông
nghiệp ở nông thôn Việt Nam.
Nguyễn Mạnh Hà, Tống Thị Nga (2014), Nhìn lại Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị và những vấn đề đặt ra đối với nông nghiệp hiện nay, giá trị lý
luận và thực tiễn của Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội

Hồng Đức Nhuận, Nguyễn Quang Phát (2007), Đảng lãnh đạo công
cuộc đổi mới đất nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội…
Đỗ Mai Thành (2011), Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Việt Nam: lý luận và thực tiễn.
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phƣơng đối với phát triển
nông nghiệp đã có một số học giả tiến hành. Trên địa bàn tỉnh có một số tài
liệu: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, chủ
yếu liệt kê sự kiện lịch sử Đảng của tỉnh, đã phản ánh đƣợc một phần kinh

2


tế của tỉnh. Ngoài ra còn phải kể đến một số tác giả và công trình nghiên
cứu sau đây:
Tống Thị Nga (2013), Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo phát triển
nguồn nhân lực nông nghiệp thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tống Thị Nga (2014), Đảng bộ huyện Phù Ninh (Phú Thọ) lãnh đạo
phát triển làng nghề trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tống Thị Nga (2014), Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện ứng
dụng khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn.
Tống Thị Nga (2014), Một số kinh nghiệm thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở tỉnh Phú
Thọ.
Nhƣ vậy, các công trình ở trên đều nghiên cứu về nông nghiệp tỉnh
Phú Thọ thuộc giai đoạn từ sau khi tiến hành Đổi mới (1986 trở đi), còn các
giai đoạn trƣớc đó chƣa nhận đƣợc nhiều sự quan tâm.
Đề tài “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp
giai đoạn 1954-1968” là một đề tài mới mẻ, hiện chƣa có công trình nào đi
sâu nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Dựng lại bức tranh tranh chân thực về nông nghiệp tỉnh Phú Thọ trong
kháng chiến chống Mỹ và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1954-1968.
Nghiên cứu, làm sáng rõ những chủ trƣơng, chính sách của Đảng về
phát triển nông nghiệp trong giai đoạn miền Bắc nói chung và quá trình
lãnh đạo nhân dân thực hiện phát triển nông nghiệp Phú Thọ trong bối cảnh
vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ vừa đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chi viện cho miền Nam (1954-1968).
Từ thực tiễn lãnh đạo nhân dân phát triển nông nghiệp, rút ra những
kinh nghiệm cần thiết, đồng thời khắc phục những hạn chế và thiếu xót để

3


công tác lãnh đạo phát triển nông nghiệp của Đảng ngày càng trƣởng thành
hơn.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Nguồn tài liệu đƣợc sử dụng trong luận văn chủ yếu là các sách thông
sử và chuyên khảo về lịch sử Đảng bộ; các thống kê, báo cáo kinh tế hàng
năm ở địa phƣơng.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành, trong đó chủ
yếu là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic. Ngoài ra, tác giả còn sử
dụng thêm một số phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ: phƣơng pháp thống
kê so sánh, phƣơng pháp tổng hợp phân tích… để thực hiện khóa luận này.
5. Đóng góp mới của đề tài
Luận giải, trình bày có hệ thống về những chủ trƣơng và sự chỉ đạo
tập trung, có hiệu quả của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về phát triển kinh tế nông
nghiệp Phú Thọ giai đoạn 1954-1968. Qua đó, làm rõ sự sáng tạo của Đảng
bộ trong thời điểm lịch sử đặc biệt quan trọng của cách mạng Việt Nam.

Tổng kết những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ đối với phát triển kinh tế nông nghiệp giai đoạn 1965-1968, làm rõ
ý nghĩa của những kinh nghiệm đó vận dụng vào công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nƣớc ta trong
giai đoạn hiện nay.
6. Bố cục
Khóa luận gồm 4 phần: Mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham
khảo.
Trong đó, nội dung của khóa luận gồm 3 chƣơng:

4


Chƣơng 1: Chủ trƣơng của Đảng bộ Phú Thọ về phát triển nông
nghiệp trong giai đoạn 1954-1968.
Chƣơng 2: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ chỉ đạo việc xây dựng và phát triển
nông nghiệp trong giai đoạn 1954-1968.
Chƣơng 3: Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm.

5


NỘI DUNG
Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ VỀ PHÁTTRIỂN
NÔNG NGHIỆP TRONGGIAI ĐOẠN 1954-1968
1.1 Khái quát về tỉnh Phú Thọ
1.1.1 Điều kiện tự nhiên và truyền thống lịch sử
1.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Phú Thọ là một tỉnh thuộc trung du và miền núi Bắc Bộ, đƣợc coi là

vùng Đất tổ cội nguồn của Việt Nam. Theo Điều I của Nghị định Toàn
quyền Đông Dƣơng ngày 8 tháng 9 năm 1891, tỉnh Phú Thọ đƣợc thành lập
mà tiền thân là tỉnh Hƣng Hóa (ban đầu gồm 5 huyện: Tam Nông, Thanh
Thủy, Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh).
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội nƣớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra nghị quyết số 504-NQ/TVQH tiến hành hợp
nhất hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú.
Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã thông qua nghị quyết (ngày 26
tháng 11 năm 1996) đã ra quyết định tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú
Thọ. Tỉnh Phú Thọ chính thức đƣợc tái lập và đi vào hoạt động từ ngày 1
tháng 1 năm 1997.
Phú Thọ có vị trí tiếp giáp giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông
Hồng và Tây Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái, phía đông
giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía đông bắc giáp huyện Ba Vì-thành phố Hà Nội,
phía tây giáp tỉnh Sơn La, phía nam giáp tỉnh Hòa Bình.
Là cửa ngõ phía tây của thủ đô Hà Nội (cách Hà Nội 80 km), là cầu
nối giữa các tỉnh Đồng bằng sông Hồng với các tỉnh miền núi Tây Bắc và
Đông Bắc.

6


Thành phố Việt Trì là thủ phủ của tỉnh, đồng thời là một trong năm
trung tâm lớn của vùng miền nùi phía Bắc có các tuyến giao thông quan
trọng chạy qua nhƣ Quốc lộ 2 từ Hà Nội, Việt Trì đi Tuyên Quang, Hà
Giang. Đặc biệt là tuyến Hà Nội – Việt Trì – Lào Cai sang Vân Nam –
Trung Quốc. Đây là tuyến nằm trên hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai
– Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh.
Địa hình
Địa hình của tỉnh chủ yếu là đồi núi, những vùng đất bằng phẳng rải

rác trong tỉnh.Vùng núi chiếm 79% diện tích tự nhiên toàn tỉnh; vùng trung
du chiếm 14,35% diện tích; vùng đồng bằng chiếm 6,65% diện tích. Ðiểm
cao nhất có độ cao 1.200m so với mực nƣớc biển, điểm thấp nhất cao 30m;
độ cao trung bình là 250m so với mực nƣớc biển.
Đặc điểm nổi bật là địa hình bị chia cắt tƣơng đối mạnh do nằm ở cuối
dãy Hoàng Liên Sơn, căn cứ vào địa hình, tỉnh Phú Thọ gồm 2 tiểu vùng:
Tiểu vùng núi miền núi: gồm các huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên
Lập và một phần của hai huyện Cẩm Khê, Hạ Hòa có diện tích tự nhiên
khoảng 182.475 ha. Độ cao trung bình so với mặt nƣớc biển từ 200 – 500
m, tuy gặp một số khó khăn về giao thông, trình độ dân trí còn lại nhiều dân
tộc ít ngƣời nên việc khai thác tiềm năng nông lâm, khoáng sản…để phát
triển kinh tế xã hội còn hạn chế.
Tiểu vùng trung du, đồng bằng: gồm: thành Phố Việt Trì, thị xã Phú
Thọ, các huyện: Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông, Thanh Thủy, Đoan
Hùng, Thanh Ba và một phần thuộc hai huyện Cẩm Khê, Hạ Hòa. Diện tích
tự nhiên khoảng 169.489 ha, có độ cao trung bình so với mặt nƣớc biển từ
50 – 200 m. Đây là tiểu vùng có kinh tế-xã hội phát triển.Tiềm năng nông lâm - khoáng sản đƣợc khai thác tƣơng đối triệt để. Đây cũng là nơi sản

7


xuất nhiều nông sản hàng hóa xuất khẩu nhƣ chè, đậu tƣơng, lạc, sản xuất
lƣơng thực, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm…
Khí hậu
Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, có một mùa
đông khô và lạnh. Nhiệt độ trung bình năm là 23oC, số giờ nắng trong năm
là 3000 - 3200 giờ, tổng lƣợng nhiệt hàng năm khoảng 8000 oC, lƣợng mƣa
trung bình hàng năm trên toàn tỉnh là 1600 – 1800 mm/năm; độ ẩm trung
bình 85%.
Nhìn chung khí hậu của Phú Thọ phù hợp với việc sinh trƣởng, phát

triển đa dạng các loại cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới, chăn nuôi gia súc với
khả năng cho chất lƣợng cao. Yếu tố hạn chế của khí hậu là dễ úng ngập
vào mùa mƣa và hạn vào mùa khô, khắc phục hạn chế này cần giải quyết
tốt vấn đề thủy lợi và xây dựng hệ thống cây trồng, vật nuôi phù hợp với
từng hệ sinh thái.
Sông ngòi, thủy văn
Phú Thọ có hệ thống sông ngòi khá dày đặc với 3 con sông lớn chảy
qua: sông Hồng (đoạn từ Lao Cai đến Việt Trì đƣợc gọi là sông Thao) với
tổng chiều dài qua tỉnh là 96 km; sông Đà qua tỉnh dài 41,5 km;sông Lô
qua tỉnh dài 76 km, chúng hợp lại với nhau ở Thành phố Việt Trì, vì thế mà
đây đƣợc đƣợc gọi là “Thành phố ngã ba sông”. Ngoài ra trên đại bàn tỉnh
còn có 130 sông suối nhỏ cùng hàng nghìn hồ, ao lớn nhỏ với lƣợng nƣớc
mặt lớn.
Các đầm, hồ tập trung nhất ở khu vực Hạ Hòa, Cẩm Khê, Tam Nông
dọc theo lƣu vực sông Thao. Nhiều hồ, đầm lớn nhƣ: Hồ Đồng Phai, Hồ
Hiền Lƣơng, Hồ Bến Thẩn, Hồ Láng Thƣợng, Hồ Chính Công…Đầm
Chiêm, Đầm Cây Si, Đầm Ao Châu, Đầm Meo, Đầm Lang Trì…

8


Nguồn nƣớc ngầm khá phong phú và đa dạng: Phân bố ở các huyện
Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng, Thị xã Phú Thọ, Hạ Hòa…
Với nguồn nƣớc phong phú, thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản,
đảm bảo lƣợng nƣớc tƣới đầy đủ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và
nƣớc sinh hoạt cho nhân dân. Ngoài các con sông, các đầm, hồ; nguồn
nƣớc từ các kênh, mƣơng cũng góp phần tích cực vào phục vụ sản xuất
điều tiết nguồn nƣớc vào mùa lũ cũng nhƣ mùa cạn.
Tài nguyên đất
Diện tích đất bằng và hơi bằng chiểm 44,4%, diện tích đất dốc chiếm

chiếm 51,6%. Do diện tích đất dốc lớn đã đã gây cản trở cho việc bố trí sản
xuất nông lâm nghiệp, phát triển hạ tầng giao thông thủy lợi tốn kém, việc
giao lƣu kinh tế trong và ngoài tỉnh hiện còn gặp nhiều khó khăn.
Tỉnh Phú Thọ có 351.858 ha đất tƣ nhiên, trong đó có 95.971 ha đất
nông nghiệp (chiếm 28% diện tích đất tự nhiên), diên tích đất lâm nghiệp
có rừng là 134.888 ha (39%), diện tích đất chuyên dùng là 21.090 ha (6%),
diện tích đất chƣa sử dụng là 92.495 ha (27%).
Trong đất nông nghiệp: diện tích đất trồng cây hàng năm là: 59.235 ha
chiếm 61%; riêng đất lúa có 48.437 ha (81,7 % đất trồng cây hàng năm),
gieo trồng 2 vụ. Diện tích đất trồng cây lâu năm là 12.047 ha, chiếm 12, 57
%, diện tích đất có mặt nƣớc nuôi trồng thủy sản là 2.321 ha. Diện tích đất
trống đồi trọc cần phủ xanh là 68.836 ha, bãi bồi có thể sử dụng là 2438,1
ha.
Do có sự tiếp giáp giữa hai khu vực đồi núi và đồng bằng nên đất đai
khá đa dạng: đất phù sa, đất đồi núi, đất lầy thụt..thuận lợi cho việc phát
triển nhiều loại cây trồng, nhất là cây lƣơng thực, cây công nghiệp và cây
ăn quả.

9


Nhƣ vậy, với những thuận lợi về tự nhiên cho phép tỉnh có điều kiện
để phát triển nông nghiệp theo hƣớng đa dạng hóa các loại giống cây trồng,
vật nuôi. Ngoài ra, những thuận lợi về vị trí địa lí, địa hình, đất đai, giao
thông thuận lợi, tỉnh Phú Thọ còn có điều kiện để phát triển công nghiệp và
dịch vụ thƣơng mại. Hiện nay, kinh tế của tỉnh đang phát triển theo hƣớng
công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
1.1.1.2 Truyền thống lịch sử
* Truyền thống yêu nƣớc cách mạng
Phú Thọ từ xa xƣa đã đƣợc đƣợc xem là vùng Đất Tổ linh thiêng của

cả dân tộc, là vùng đất cổ sớm có ngƣời Việt định cƣ sinh sống và là kinh
đô của vƣơng quốc cổ Văn Lang.
Từ thời dựng nƣớc, khi quân Đông Hán tràn sang xâm lƣợc nƣớc ta,
đƣợc tin Hai Bà Trƣng phất cờ khởi nghĩa, nhân dân Phú Thọ đã hƣởng
ứng mạnh mẽ. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến hai chị em tƣớng quân Lê
Ả Lan và Lê Anh Tuấn đƣợc Bà Trƣng giao làm tƣớng tiên phong, hai vị
đem quân đánh giặc ở xứ Thao Giang. Bằng hai cánh quân thủy bộ, đội
quân của Lê Ả Lan- Lê Anh Tuấn đi đến đâu, quan quân Đông Hán tan tác
đến đó. Khi tới trang Văn Lang, kẻ thù cũng cuống cuồng rút chạy.
Nửa cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, nhân dân Phú
Thọ cùng với nhân dân khắp nơi trên cả nƣớc vùng lên đấu tranh bảo vệ
nền độc lập tự do của dân tộc.
Từ sau khi Đảng ra đời và trực tiếp lãnh đạo cách mạng, phong trào
đấu tranh của nhân dân Phú Thọ ngày càng sôi nổi và mạnh mẽ hơn. Tháng
3/1940, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đƣợc thành lập, đã trực tiếp lãnh đạo nhân
dân xây dựng và đấu tranh trên mảnh đất quê hƣơng giành lại chính quyền
ở tỉnh và góp phần vào thắng lợi to lớn của tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945.

10


Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lƣợc nƣớc ta một lần nữa, nhân
dân Phú Thọ vẫn tiếp tục phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất kiên
cƣờng và đã làm nên những chiến công vang dội nhƣ “chiến thắng Sông
Lô” (Đoan Hùng) trong chiến dịch Việt Bắc, chiến thắng Tu Vũ (Thanh
Thủy), Trạm Thản, Chân Mộng (Phù Ninh) trong chiến dịch Đông Xuân
1953 -1954 của ta.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975), quân và dân Phú
Thọ đã đoàn kết một lòng, vừa chiến đấu chống Mỹ bảo vệ quê hƣơng đất

nƣớc, vừa tích cực tham gia lao động sản xuất để chi viện cho tiền tuyến
miền Nam. Những đóng góp to lớn ấy đã góp phần đƣa cuộc kháng chiến
trƣờng kỳ của ta đến thắng lợi cuối cùng, miền Nam đƣợc hoàn toàn giải
phóng, đất nƣớc ta hoàn toàn thống nhất.
* Truyền thống văn hiến
Phú Thọ có nền văn hoá rực rỡ từ lâu đời. Những di chỉ khảo cổ văn
hoá Sơn Vi, Đồng Đậu, Làng Cả và nhiều đình, chùa, lăng, tẩm,còn lại
quanh vùng núi Nghĩa Lĩnh cho thấy đất Phong Châu là một trung tâm văn
hoá của dân tộc Việt.
Nhân dân Phú Thọ không chỉ anh dũng trong chiến đấu mà còn sáng
tạo trong lao động sản xuất và phát triển kinh tế - văn hóa.
Dù sống dƣới ách đô hộ nghìn năm của chế độ phong kiến phƣơng
Bắc và hơn nửa thế kỷ dƣới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật
nhƣng nhân dân Phú Thọ vẫn bảo tồn, giữ gìn đƣợc bản sắc văn hóa dân
tộc: những làn hát xoan, hát ghẹo, hát ví, ca trù…đƣợc biểu diễn trong các
dịp lễ, Tết.
Phú Thọ còn là mảnh đất của rất nhiều lễ hội truyền thống: Lễ hội Đền
Hùng (Thị xã Phú Thọ), Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Nghè (Hạ Hòa), Hội chọi
trâu Phù Ninh, Lễ hội Gia Thanh…

11


Phú Thọ còn có nhiều điểm du lịch nổi tiếng: các danh lam thắng cảnh
đẹp nổi tiếng Ao Giời, Suối Tiên, Đầm Ao Châu (Hạ Hòa), Thác Chín tầng
(Tân Sơn)…; các địa điểm du lịch tâm linh: Đền Hùng (Thị xã Phú Thọ),
đền mẫu chùa Bồng Lai, Đền Tam Giang – Chùa Đại Bi…
Bên cạnh đó, nơi đây còn có nhiều làng nghề truyền thống: làng nghề
đan nón lá Sai Nga (huyện Cẩm Khê), làng ủ ấm Sơn Vi (Lâm Thao), làng
làm bún Hùng Lô (Việt Trì), nghề đan thúng Tùng Khê (Cẩm Khê ), nghề

làm bánh cuốn Lâm Lợi (huyện Hạ Hòa).
Đây còn là mảnh đất đã nảy sinh ra những nhân tài trên nhiều lĩnh
vực: nhà thơ Phạm Tiến Duật, Bút Tre, Nguyễn Quang Bích, nhà chỉ huy
quân sự Trần Trọng Khiêm…
Những truyền thống lịch sử và văn hiến trên của nhân dân Phú Thọ
đã và đang đƣợc các thế hệ kế thừa và phát huy hơn nữa, góp phần tô thắm
thêm cho truyền thống của quê hƣơng đất nƣớc qua hàng nghìn năm lịch
sử. Đó cũng chính là một động lực to lớn để các thế hệ tiếp tục xây dựng
quê hƣơng, đất nƣớc ngày càng giàu mạnh.
1.1.2 Phú Thọ trong xây dựng bảo vệ chính quyền và kháng chiến chống
Pháp (1945-1954)
Dƣới những chính sách cai trị hà khắc của thực dân Pháp và bọn
phong kiến tay sai, nhân dân ở khắp các huyện đã vùng lên đấu tranh mạnh
mẽ. Truyền thống vẻ vang đó càng đƣợc phát huy trong hoàn cảnh lịch sử
mới, khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và trực tiếp lãnh đạo cách mạng
nƣớc ta.
Trƣớc khi các chi bộ Đảng đầu tiên ra đời, ở Phú Thọ đã hình thành
một tổ chức yêu nƣớc theo xu hƣớng cộng sản, đó là chi bộ Đảng Tân Việt
ở Hƣng Hóa.

12


Năm 1939, thi hành chủ trƣơng chuyển hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc của
Trung ƣơng Đảng từ tháng 8/1939 đến năm 1941, gần ba chục cán bộ của
Đảng đã về Phú Thọ hoạt động và gây dựng cơ sở cách mạng và cơ sở
Đảng. Nhờ vậy, cuối năm 1939 Phú Thọ đã xây dựng đƣợc cơ sở cách
mạng, các tổ chức phản đế quần chúng hình thành 4 chi bộ Đảng đầu tiên.
Sang tháng 3/1940 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đƣợc thành lập do đồng chí
Đào Duy Kỳ làm bí thƣ đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại

kể thù xâm lƣợc. Từ đây, các phong trào yêu nƣớc chống Pháp theo trào
lƣu phong kiến và tƣ sản đã chuyển sang phong trào cách mạng vô sản do
Đảng lãnh đạo mà trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Phú Thọ và đã góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc.
Năm 1945, dƣới sự lãnh đạo của Đảng với chỉ hơn hai chục Đảng
viên, Đảng bộ đã tập hợp rộng rãi đƣợc các tầng lớp nhân dân trong mặt
trận , kịp thời phát động toàn dân nổi dậy làm nên thắng lợi của cách mạng
Tháng Tám (1945) vĩ đại.
Từ cuối năm 1946 đến năm 1954, khi cuộc kháng chiến toàn quốc
bùng nổ với đội ngũ 280 đảng viên, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân
trong tỉnh tiến hành cuộc kháng chiến trƣờng kỳ theo phƣơng châm “toàn
dân, toàn diện” của Đảng đã góp phần làm nên thắng lợi vẻ vang của dân
tộc. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ đƣợc ký kết
đã vĩnh viễn chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trên mảnh đất quê
hƣơng. Bằng những chiến công vang dội trong trận Sông Lô, Tu Vũ, Trạm
Thản, Chân Mộng đã in sâu vào trang sử hào hùng của quân đội nhân dân
Việt Nam cũng nhƣ lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.

13


1.2 Chủ trƣơng của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp đáp ứng yêu
cầu xây dựng hậu phƣơng miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nƣớc
1.2.1 hủ trương của Đảng về lãnh đạo quá trình cải cách ruộng đất và
hàn gắn vết thương chiến tranh (1954-1957)
Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ đƣợc ký kết , miền Bắc nƣớc ta đƣợc hoàn
toàn giải phóng. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới. Đảng chủ
trƣơng đƣa miền Bắc quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu
phƣơng để miền Nam tiếp tục chiến đấu chống đế quốc Mĩ và tay sai, hoàn

thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Đảng
chủ trƣơng khôi phục kinh tế miền Bắc nhằm: “...hàn gắn vết thƣơng chiến
tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn về đời sống nhân
dân, phát triển kinh tế một cách có kế hoạch và từng bƣớc, mở rộng việc giao
lƣu kinh tế giữa thành thị và thôn quê” [11, tr.294]. Khôi phục và phát triển
sản xuất nông nghiệp đƣợc Đảng nhấn mạnh “là vấn đề then chốt, là cơ sở của
việc cải thiện đời sống nhân dân, phồn thịnh kinh tế, mở rộng giao lƣu hàng
hóa” [11, tr.294-295], cải tạo và từng bƣớc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
hoàn thành cải cách ruộng đất và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm thấp,
từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu, manh mún, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo
nàn, lạc hậu, thô sơ, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề: 14 vạn ha ruộng đất
hoang hóa, các công trình thủy lợi đều bị phá hoại, thiên tai mất mùa liên tiếp
xảy ra, giao thông hƣ hại nặng…
Đứng trƣớc tình hình đó, Hội nghị Bộ chính trị tháng 9/1954 đã chỉ rõ:
công việc trƣớc mắt là ổn định đời sống nhân dân, chống chính sách cƣỡng ép
di cƣ vào Nam của địch, hàn gắn vết thƣơng chiến tranh, phục hồi nền kinh tế
quốc dân. Trong đó, phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp là vấn đề

14


trọng tâm.Đây là chủ trƣơng đúng đắn của Đảng có ý nghĩa lớn trong việc cải
thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề cho công nghiệp và xây dựng mô hình
quản lý nông nghiệp phù hợp với tình hình đất nƣớc.
Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp có liên quan mật thiết với việc giải
quyết vấn đề ruộng đất nhằm giải phóng lực lƣợng sản xuất của hàng triệ
nông dân, thực hiện khẩu hiệu: “ngƣời cày có ruộng”.
Chủ trƣơng trên đƣợc Đảng nêu rõ, bổ sung và hoàn chỉnh trong Hội
nghị Trung ƣơng 6 (7 - 1954), Hội nghị Bộ Chính trị (9 - 1954), Hội nghị

Trung ƣơng 8 (8 - 1955), Hội nghị Trung ƣơng 11 (12 - 1956), Hội nghị
Trung ƣơng 12 (3-1957).
Nghị quết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ƣơng khóa II ( 5 1955) nêu rõ chủ trƣơng: để củng cố miền Bắc, trƣớc hết phải hoàn thành cải
cách ruộng đất và coi đây là chính sách bất di bất dịch. Để đảm bảo cho công
cuộc cải cách giành đƣợc thắng lợi, Đảng xác định rõ phƣơng pháp tiến hành
là: “dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt trẽ với trung nừng nông, liên hiệp
với phú nông xóa bỏ chế độ chế độ chiếm hữu ruộng đất có từng bƣớc, có
nông nghiệp, có lãnh đạo” [12, tr.425 - 426].
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ƣơng khẳng định: cải cách
ruộng đất quan hệ đến củng cố miền Bắc, chẳng những đem lại quyền sở hữu
ruộng đất cho nông dân mà còn tạo điều kiện cho công cuộc khôi phục và
phát triển sản xuất, củng cố quốc phòng, củng cố cơ sở của Đảng và chính
quyền ở nông thôn [13,tr 419].
Ở miền Bắc, căn cứ vào hoàn cảnh thực tế và yêu cầu quyền lợi về
kinh tế, chính trị của nông dân, củng cố khối liên minh công-nông, mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng và Chính phủ quyết định: “đẩy mạnh
phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất”, “cải tạo quan hệ sản

15


xuất, bƣớc đầu phát triển kinh tế xã hội” (1958-1960), trong đó có cải tạo
nông nghiệp.
Từ thực tiễn miền Bắc sau chiến tranh, Đảng và nhà nƣớc đã quyết
định thực hiện kế hoạch 3 năm (1955-1957), nhằm hàn gắn vết thƣơng
chiến tranh, khôi phục kinh tế. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, Đảng và
Nhà nƣớc chủ trƣơng khuyến khích, vận động nhân dân tham gia các tổ đổi
công.Thông qua các hội nghị tổ đổi công toàn quốc lần thứ nhất (5/1955),
lần thức 2 (3/1955), lần 3 (5/1957). Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng lần thứ 8 khóa II, Đảng chủ trƣơng xây dựng một số hợp tác xã

nông nghiệp, lấy đó làm cơ sở thực tiễn để định hƣớng công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Bắc [13, tr.419].
1.2.2 hủ trương của Đảng trong cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế
nông nghiệp (1958-1960)
Ở miền Bắc, căn cứ vào hoàn cảnh thực tế và yêu cầu quyền lợi về
kinh tế, chính trị của nông dân, củng cố khối liên minh công-nông, mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng và Chính phủ quyết định: “Đẩy mạnh
phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất”, “cải tạo quan hệ sản
xuất, bƣớc đầu phát triển kinh tế xã hội” (1958-1960), trong đó có cải tạo
nông nghiệp.
Giữa tháng 11/1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng khóa II đã đề ra Nghị quyết quan trọng về nhiệm vụ, kế hoạch 3 năm
phát triển kinh tế - xã hội (1958-1960) ở miền Bắc. Nhiệm vụ trƣớc mắt ở
miền Bắc là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối thành phần kinh tế cá
thể của nông dân, thợ thủ công và các thành phần kinh tế tƣ bản, tƣ doanh.
Đồng thời ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, làm cho thành
phần kinh tế này giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc doanh.
Cụ thể nhiệm vụ trọng tâm:

16


Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản
xuất nông nghiệp làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lƣơng
thực, đồng thời rất chú trọng sản xuất công nghiệp.
Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thƣơng tƣ bản
tƣ doanh theochủ nghĩa xã hội, khâu chính là đẩy mạnh hợp tác hóa nông
nghiệp.
Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
(4/1959) đã xác định những vấn đề cơ bản về đƣờng lối giai cấp của Đảng:

“Dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dƣới, đoàn kết chặt trẽ với trung
nông, hạn chế sự bóc lột kinh tế cho phú nông, cải tạo tƣ tƣởng cho phú
nông, ngăn chặn địa chủ ngóc đàu dậy; tiếp tục mở đƣờng cho địa chủ lao
động thành con ngƣời mới, kiên quyết đƣa nông dân vào con đƣờng hợp tác
hóa nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội” [15,tr.371].
Nguyên tắc: tự nguyện cùng có lợi, quản lý dân chủ và phƣơng châm
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội đƣợc quán triệt
và thực hiện.
Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 10 (6/1959) xác định: “Hợp tác hóa
nông nghiệp là con đƣờng duy nhất đƣa nông dân tiến lên chủ nghĩa xã
hội”.
1.2.3.

hủ trương của Đảng trong thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm

lần thứ nhất (1961 -1965)
Tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã
đƣợc tổ chức.Đảng xác định đây là “Đại hội xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nƣớc nhà”. Để xây dựng xã hội
chủ nghĩa miền Bắc, đại hội đề ra nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm (19611965) là: “Khi công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa giành đƣợc thắng lợi có
tính chất quyết định thì chúng ta cần chuyển sang lấy xây dựng xã hội chủ

17


nghĩa làm trọng tâm, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đồng thời
hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Chỉ có làm nhƣ vậy, miền
Bắc nƣớc ta mới có thể mau chóng có một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa”
[3,tr.125].
Về nông nghiệp, Đại hội III đã xác định phƣơng hƣớng phát triển

kinh tế nông nghiệp trong 5 năm (1961-1965)là: “trong nền kinh tế quốc
dân miền Bắc, nông nghiệp chiếm một bộ phận rất quan trọng, nông dân
lao động là một lực lƣợng sản xuất to lớn. Muốn đƣa miền Bắc lên xã hội
chủ nghĩa chúng ta phải đi từ nông nghiệp, phải dựa vào lực lƣợng nông
dân lao động, phát huy tính tích cực của họ [16, tr.537]. Phƣơng châm phát
triển là toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc để nhằm cung cấp lƣơng thực,
nguyên liệu cho công nghiệp”.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lƣợng phong trào hợp tác xã, nhất
là hợp tác xã nông nghiệp về tƣ tƣởng, tổ chức và quản lý, lãnh đạo hoàn
thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Ra sức phát triển nông nghiệp
toàn diện, đồng thời phát triển nông nghiệp ở các địa phƣơng và thủ công
nghiệp, tăng cƣờng thƣơng nghiệp quốc doanh và thƣơng nghiệp hợp tác
xã, cải thiện một bƣớc đời sống văn hóa cho nhân dân.
Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tƣ tƣởn văn hóa và kĩ
thuật,nâng cao trình độ tƣ tƣởng và trình độ quản lý,nhất là quản lý kinh tế
văn hóa và kĩ thuật cho các cấp lãnh đạo, các cán bộ đảng viên.
Tăng cƣờng công tác xây dựng đảng, chính quyền, các đoàn thể quần
chúng.
Theo tinh thần, nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, nhiệm vụ tiếp tục
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế không phải xã hội
chủ nghĩa, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới đối với nông nghiệp, công

18


nghiệp và thƣơng nghiệp là nhiệm vụ hết sức quan trọng và xuyên suốt
trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
1.2.4 hủ trương của Đảng về lãnh đạo nhân dân phát triển nông nghiệp
trong điều kiện có chiến tranh (1965-1968)
Kinh tế miền Bắc đang trên đà phát triển mạnh, là một động lực quan

trọng thúc đẩy cách mạng Việt Nam tiến lên giành thắng lợi to lớn trên
chiến trƣờng. Để cứu nguy cho sự sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền, Mỹ
đã cho không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Để đối phó với tình
hình chiến sự ác liệt, từ năm 1965-1973, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và nông nghiệp nói riêng ở miền Bắc chuyển từ thời bình
sang thời chiến.
Tại Hội nghị Trung ƣơng 11 Khóa II (3-1965) nhấn mạnh: Trƣớc
tình hình mới, vấn đề phát triển mạnh mẽ nông nghiệp ngày càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng hậu phƣơng tăng cƣờng
tiềm lực kinh tế và quốc phòng.
Đảng chủ trƣơng chuyển hƣớng xây dựng kinh tế phù hợp với tình
hình cả nƣớc đang có chiến tranh với đế quốc Mỹ [18, tr.312].
Tiếp đó hội nghị Trung ƣơng 12 Khóa III (12/1965), Đảng tiếp tục
khẳng định: Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải đẩy mạnh sản xuất
nông nghiệp, đảm bảo sản xuất đủ lƣơng thực, thực phẩm để nuôi quân
đánh giặc và có dự trữ, đẩy mạnh cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác
xã, cải tiến kỹ thuật ở đồng bằng, trung du và miền núi, thâm canh tăng
năng suất. Sản xuất nông nghiệp đƣợc đặc biệt coi trọng, đẩy mạnh thâm
canh tăng năng suất cây trồng và vật nuôi.[18, tr.313].
Tháng 3/1966, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng đã ra thông tri số 176
về tiếp tục đẩy mạnh công cuộc vận động, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật

19


vòng 2 nhằm uốn nắn những lệch lạc trong quá trình tiến hành quản lý cải
tiến hợp tác xã.
Trong quá trình cải tiến, bắt đầu hình thành chế độ ba khoán, hợp tác
xã trở thành đơn vị quản lý thống nhất, trong đội sản xuất là đơn vị nhận
khoán.

1.3 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ quán triệt chủ trƣơng của Đảng về xây dựng
phát triển kinh tế nông nghiệp trong những năm 1954-1968
1.3.1 Tỉnh ủy Phú Thọ quán triệt chủ trương cải cách ruộng đất và hàn
gắn vết thương chiến tranh (1954-1957)
Theo quy định của hiệp định Giơnevơ, ngày 16 và ngày 18 tháng 6 năm
1954, thực dân Pháp rút khỏi Việt Trì và Hạ Nông ( Tam Nông), tỉnh Phú Thọ
đƣợc hoàn toàn giải phóng. Tuy nhiên, tình hình hình mọi mặt của tỉnh lúc
này lại gặp nhiều khó khăn phức tạp: một bộ phận cán bộ, đảng viên phát sinh
tƣ tƣởng lệch lạc, nhiều gia đình bị cƣỡng ép di cƣ vào Nam; ruộng đất hoang
hóa nhiều nền kinh tế của tỉnh bị tàn phá; lũ luạt, hạn hán, dịch bệnh khiến
cho nông nghiệp bị mất mùa; nạn đói xảy ra … đã tác động không nhỏ đến
đời sống nhân dân trong tỉnh.
Trƣớc tình hình đó, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã quán triệt chủ trƣơng của
Trung ƣơng, tập trung mọi lực lƣợng để khôi phục lại nền kinh tế, trong đó
tập trung chủ yếu vào khôi phục sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề
lƣơng thực thực phẩm và ổn định đời sống nhân dân.
Ngày 18 tháng 11 năm 1955, Tỉnh ủy Phú Thọ đã triệu tập hội nghị đại
biểu và một số xã đánh giá tình hình và bàn biện pháp chống đói. Tỉnh ủy đã
xác định: “nhiệm vụ khẩn cấp trƣớc mắt lúc này là giải quyết nạn
đói”[1,tr.259].
Nhằm tiến tới cải cách ruộng đất, công tác giảm tô trong nông nghiệp
cũng đƣợc Tỉnh ủy hết sức chú trọng. Thực hiện chủ trƣơng của Đảng đề ra,

20


×