Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Học thuyết chính trị xã hội của nho giáo và sự thể hiện của nó ở việt nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.43 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

***

NGUYỄN THANH BÌNH

HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA NHO GIÁO
VÀ SỰ THỂ HIỆN CỦA NÓ Ở VIỆT NAM
(TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

***

NGUYỄN THANH BÌNH

HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA NHO GIÁO
VÀ SỰ THỂ HIỆN CỦA NÓ Ở VIỆT NAM
(TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX)

Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 5.01.02


LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. GS.TS. Nguyễn Tài Thư
2. GS.TS. Lê Văn Quán

HÀ NỘI - 2005


LỜI CAM ĐOAN
Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những kết quả và nội dung của luận án là trung thực, chưa
được công bố ở những công trình nghiên cứu khác.
Tác giả

Nguyễn Thanh Bình


CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ QUI ƯỚC
Đại Việt sử ký toàn thư

:

Toàn thư

Khâm định Việt sử thông giám cương mục :

Cương mục


Chế độ phong kiến

:

CĐPK

Chủ nghĩa tư bản

:

CNTB

Giai cấp phong kiến

:

GCPK

Tư bản chủ nghĩa

:

TBCN

Xã hội lý tưởng

:

XHLT


Xã hội phong kiến

:

XHPK


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................

1

1. Tính cấp thiết của đề tài ...............................................................

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................

3

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án ................................................

9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................

10

5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................


10

6. Đóng góp mới của luận án ............................................................

10

7. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của đề tài .......................................

11

8. Cấu trúc của luận án .....................................................................

11

PHẦN NỘI DUNG .............................................................................

12

Chương 1. NHO GIÁO VỚI TÍNH CÁCH LÀ HỌC THUYẾT
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

12

1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng đối với sự hình
thành Nho giáo .......................................................................

12

1.1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội của sự hình thành Nho giáo ...................


12

1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành Nho giáo...........................

14

1.2. Một số tư tưởng cơ bản của Nho giáo về chính trị - xã hội .....

17

1.2.1. Quan điểm của Nho giáo về con người. ..................................

18

1.2.2. Quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tưởng ...........................

33

1.2.3. Quan điểm của Nho giáo về đường lối trị nước (tư tưởng đức trị)...

40

Chương 2. NHO GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CON NGƯỜI
VIỆT NAM DƯỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN ...........

61

2.1. Nho giáo trong hệ tư tưởng Nho - Phật - Lão ở Việt Nam


61

2.1.1. Hệ tư tưởng và vai trò của hệ tư tưởng ....................................

61

2.1.2. Hệ tư tưởng Nho - Phật - Lão và vấn đề lựa chọn tư tưởng chủ
đạo trong việc cai trị, quản lý xã hội .......................................

63


2.2. Nho giáo ngày một trở thành công cụ tinh thần của các triều
đại phong kiến Việt Nam ........................................................

74

2.2.1. Nho giáo dưới các thời Ngô, Đinh, Tiền Lê ............................

74

2.2.2. Nho giáo trong thời Lý - Trần ................................................

77

2.2.3. Nho giáo dưới thời Hậu Lê .....................................................

85

2.2.4. Nho giáo dưới triều Nguyễn (nửa đầu thế kỷ XIX)...................


94

Chương 3. VAI TRÒ CỦA NHO GIÁO TRONG VIỆC HOẠCH ĐỊNH
ĐƯỜNG LỐI CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM

106

3.1. Chế độ phong kiến Việt Nam và đặc điểm của chế độ này .....

106

3.1.1. Sự hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam ..

106

3.1.2. Một vài đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến Việt Nam ......

113

3.2. Nho giáo - cơ sở tư tưởng chủ yếu để định ra và thực hiện
đường lối đức trị ....................................................................

120

3.2.1. Quan điểm về xã hội lý tưởng của Nho giáo là sự định hướng
và là mục đích của đường lối đức trị........................................

121


3.2.2. Việc thực hiện đường lối đức trị ..............................................

125

3.3. Nho giáo - cơ sở tư tưởng để chế định pháp luật và hoạch
định việc giáo dục - khoa cử...........................................................

135

3.3.1. Chế định pháp luật để củng cố ngôi vua và ổn định trật tự xã hội ......

135

3.3.2. Hoạch định việc giáo dục - khoa cử để lựa chọn nhân tài .........

144

PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................

157

NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................

160

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................

161



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị - xã hội xuất hiện ở Trung
Quốc và đã có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm. Trong suốt quá trình hình
thành và phát triển của xã hội phong kiến (XHPK) Việt Nam, đặc biệt từ thế
kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp
nhận và chủ yếu sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng và công cụ để trị nước,
đào tạo ra những con người phù hợp với yêu cầu và mục đích của giai cấp
phong kiến (GCPK) thống trị. Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã
hội, là ý thức hệ và công cụ thống trị của các triều đại phong kiến Việt Nam,
Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chủ yếu của đời sống
xã hội và con người Việt Nam, đến quá trình hình thành, phát triển của xã hội và
CĐPK Việt Nam. Bởi vậy mà như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, Nho giáo
là một bộ phận cốt lõi của di sản truyền thống dân tộc.
Hơn một thập kỷ trở lại đây, trước những biến động hết sức phức tạp của
đời sống xã hội, không chỉ ở nước ngoài, trong giới nghiên cứu Việt Nam đã
có xu hướng đặt lại, nghiên cứu trở lại vấn đề Nho giáo trên tinh thần phê
phán nhằm gạn lọc, tiếp thu những nhân tố hợp lý, những giá trị chung của
Nho giáo. Đã có nhiều ý kiến, kết luận trong nhiều bài viết, chuyên luận và
công trình nghiên cứu về sự thể hiện của Nho giáo ở Việt Nam trong lịch sử
và hiện nay. Có nguời cho rằng, mọi hiện tượng tiêu cực của xã hội; đạo đức
nhân luân bị xuống cấp, bị xói mòn; kỷ cương, nề nếp từ trong gia đình đến
ngoài xã hội không được tôn trọng... là do đã có một thời chúng ta phê phán,
bài xích Nho giáo. Cũng có người cho rằng, để thúc đẩy xã hội Việt Nam phát
triển cần phải áp dụng triệt để công thức: kỹ thuật, công nghệ phương Tây với
Nho giáo và mô hình quản lý xã hội ở những nước phát triển có truyền thống
Nho giáo.
Rõ ràng, việc nhìn nhận, đánh giá về sự thể hiện của Nho giáo ở Việt
Nam trong lịch sử và hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách đối với

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay. Bởi vì có có


như vậy mới góp phần giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại - một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của
xã hội Việt Nam ngày nay. Để thực hiện nhiệm vụ hết sức phức tạp và khó
khăn này, theo chúng tôi, một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận là phải có
thái độ biện chứng, khách quan, toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể trong
việc nghiên cứu Nho giáo, cũng như sự thể hiện của nó trong xã hội và con
người Việt Nam trong lịch sử.
Có thể nói, từ khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã được các triều đại
phong kiến và các tầng lớp người Việt Nam tiếp nhận chủ yếu từ phương diện
học thuyết chính trị - xã hội, đạo đức. Và ngay cả ở phương diện này thì phạm
vi, tính chất, mức độ tiếp nhận cũng khác nhau ở mỗi triều đại phong kiến và
trong từng giai đoạn phát triển của CĐPK. Sở dĩ như vậy, xét đến cùng là do
điều kiện kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển của CĐPK Việt Nam trong mỗi
giai đoạn quy định và nhu cầu cai trị, quản lý xã hội của các triều đại phong
kiến thống trị ở mỗi giai đoạn ấy chi phối. Tất nhiên chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam truyền thống là nhân tố chủ yếu, có tính quyết định về phạm vi, mức độ
và tính chất của sự tiếp nhận này. Chính vì vậy mà, Nho giáo được du nhập,
tồn tại ở Việt Nam không hoàn toàn là Nho giáo Trung Quốc , không được
tiếp nhận với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh, mà chỉ được tiếp nhận từng
mảng, tiếp nhận trên cơ sở có chọn lọc, có biến đổi và đơn giản hoá nhằm
phục vụ những nhiệm vụ chính trị thực tiễn của GCPK và dân tộc. Điều này
dễ nhận thấy khi nghiên cứu sự thể hiện của Nho giáo ở Việt Nam từ thế kỷ XI
đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Nghiên cứu về sự thể hiện của Nho giáo ở Việt Nam thời phong kiến, từ
trước đến nay, đã có không ít công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, các công trình nghiên cứu đó chưa cho
chúng ta một cái nhìn khái quát, toàn diện và hệ thống về Nho giáo trong

XHPK Việt Nam, đặc biệt là từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Chính vì vậy mà chúng tôi cho rằng, vấn đề trên cần phải tiếp tục nghiên
cứu thêm trong luận án này. Chúng tôi lựa chọn vấn đề: Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa
đầu thế kỷ XIX) làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án cũng chỉ hy
vọng góp phần làm sáng tỏ thêm sự thể hiện của Nho giáo trong thời gian đó.


Sự lựa chọn này, theo chúng tôi là bởi vì, đây là một thời kỳ mà Nho giáo với
tư cách là học thuyết chính trị - xã hội đã in đậm dấu ấn của nó trong tiến
trình vận động, phát triển của XHPK và bộc lộ tất cả những mặt, những yếu tố
tích cực và tiêu cực của nó.
Sự thể hiện của Nho giáo ở nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của xã hội và con
người Việt Nam trong lịch sử, như các lĩnh vực: Thế giới quan, chính trị - xã
hội, đạo đức, văn hoá, giáo dục - khoa cử, phong tục tập quán, tín ngưỡng
v.v... Tuy nhiên, với yêu cầu và khuôn khổ của luận án cho phép, chúng tôi
chỉ nghiên cứu Nho giáo chủ yếu với tư cách là một học thuyết chính trị - xã
hội, được các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp nhận và sử dụng làm hệ tư
tưởng, công cụ cai trị và quản lý xã hội, trong việc thực hiện những nhiệm vụ
chính trị thực tiễn đặt ra cho các triều đại phong kiến và dân tộc. Cũng chính
vì vậy mà học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo là căn cứ chủ yếu để hình
thành đường lối Đức trị, xây dựng và thực thi pháp luật, kiến tạo và triển khai
nền giáo dục - khoa cử Nho học. Và vì thế mà theo thời gian, Nho giáo không
chỉ ảnh hưởng và có vai trò trong các lĩnh vực chủ yếu này của đời sống xã
hội và con người Việt Nam mà ngày càng trở thành công cụ tinh thần của các
triều đại phong kiến Việt Nam, đã thực sự đóng một vai trò nhất định trong sự
hình thành, phát triển của CĐPK Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Ở Việt Nam, liên quan đến đề tài từ trước đến nay, đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu. Chúng tôi có thể khái quát một số thành quả nghiên cứu ở
hai loại hình chủ yếu sau:

Loại hình thứ nhất: Là những công trình nghiên cứu về Nho giáo thông
qua những tác phẩm kinh điển, sách vở của các nhà Nho. Tiêu biểu cho loại
hình này là các công trình nghiên cứu của Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim,
Đào Duy Anh, Quang Đạm.
Trước hết phải kể đến cuốn Khổng học đăng của Phan Bội Châu và Nho
giáo của Trần Trọng Kim. Trong hai cuốn sách này, thông qua việc trình bày,
phân tích một số phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo trong quá trình
hình thành, phát triển của nó, hai ông đều nhìn nhận Nho giáo không chỉ chủ
yếu là học thuyết chính trị - xã hội, học thuyết đạo đức mà còn là học thuyết


triết học. Cả hai ông đều đặc biệt đề cao những yếu tố, nhân tố tích cực của
Nho giáo, coi đạo đức Nho giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hoàn
thiện đạo đức con người và ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội.
Sau hai cuốn sách trên, Đào Duy Anh viết Khổng giáo phê bình tiểu luận.
Theo ông, để nhận chân Nho giáo, cần phải có thái độ khách quan, toàn diện,
khoa học. Từ phương pháp này, ông phản đối thái độ của một số tri thức Trung
Quốc và Việt Nam lúc bấy giờ là coi Khổng học chỉ là vô dụng, là di hại,
không phù hợp với thời đại khoa học và dân chủ. Đặc biệt là từ lập trường mác
xít, ông đã nghiên cứu, mổ xẻ, tổng hợp những nội dung cơ bản của Nho giáo,
để từ đó đi đến kết luận rằng, Nho giáo “dẫu nó không thích hợp nữa ở đời nay,
mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn trọn vẹn trong lịch sử, không ai có thể
chối cãi hay xoá bỏ đi được” [1, tr.150].
Khác với hai thái độ cực đoan về Nho giáo, hoặc là sùng bái, ca ngợi,
muốn làm sống lại Nho giáo, hoặc là mạt sát, phủ nhận hoàn toàn vai trò tích
cực của Nho giáo, trong Nho giáo xưa và nay, Quang Đạm cho rằng, Nho giáo
có cả mặt tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, khi đánh giá mặt tích cực, hạn chế
của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với xã hội và con người Việt Nam
trong lịch sử và hiện nay, ở một số nhận định của tác giả, theo chúng tôi là
chưa thoả đáng, cần phải trao đổi thêm.

Nhìn chung, những cuốn sách trên đây là những công trình khá bổ ích
cho những ai quan tâm và nghiên cứu Nho giáo. Song cũng do lập trường,
quan điểm, thái độ và mục đích nghiên cứu Nho giáo ít nhiều có sự khác nhau
ở mỗi một tác giả, cho nên những tư tưởng, phạm trù của Nho giáo chưa được
trình bày và phân tích một cách toàn diện và có hệ thống; một số nhận định,
đánh giá về Nho giáo chưa thật khách quan, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu.
Loại hình nghiên cứu thứ hai: Nghiên cứu về sự thể hiện của Nho giáo
trong đời sống tinh thần của xã hội và con người Việt Nam từ thế kỷ XI đến
giữa thế kỷ XIX. Có lẽ, loại hình nghiên cứu này được bắt đầu từ Nguyễn
Trường Tộ và sau này xuất hiện nhiều tác giả, nhiều nhà nghiên cứu có tên
tuổi với nhiều công trình, bài viết đáng ghi nhận, như của các Giáo sư (GS):
Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Phan Ngọc, Trần


Đình Hượu, Nguyễn Tài Thư, Lê Sỹ Thắng, Phan Đại Doãn, Phan Văn Các,
Lê Văn Quán, Nguyễn Duy Hinh, Vũ Minh Tâm, Nguyễn Đức Sự, Trần Ngọc
Vương, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn,...
Trong những công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã bắt đầu từ
những mệnh đề, tư tưởng, phạm trù cơ bản của Nho giáo để nghiên cứu, xem
xét ảnh hưởng của nó trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và con
người Việt Nam như: chủ nghĩa yêu nước, chính trị - xã hội, đạo đức, hệ tư
tưởng, văn hoá, giáo dục - khoa cử, thế giới quan,.v.v. Có thể đề cập tới một
số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây. Trong cuốn Tư tưởng phương
Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, từ việc trình bày lịch sử hình thành,
phát triển cùng những nội dung, tư tưởng cơ bản của Nho giáo, cố GS. Cao
Xuân Huy đã viết rằng:"Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị
trong xã hội phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam. Đối với nó thì “ngũ luân,
ngũ thường, hay tam cương ngũ thường, là những cái tuyệt đối", "là hằng tồn,
là phổ biến" [42, tr. 203]. Khi bàn về vị trí, vai trò của Nho giáo ở Việt Nam,
tác giả tập trung đề cập tới ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng Việt Nam thời

Nguyễn. Theo tác giả, nhằm chấn hưng Nho giáo và khôi phục địa vị của nó với
tính cách là hệ tư tưởng của CĐPK, nhà Nguyễn chủ yếu chấn hưng, khôi phục tư
tưởng tam cương, ngũ thường. Nhà Nguyễn ban hành bộ Hoàng triều hình luật,
Thập điều cũng là nhằm bảo vệ tam cương, ngũ thường mà thôi [42,tr. 205, 206].
Trong cuốn Bàn về văn hiến Việt Nam của GS. Vũ Khiêu, từ một quan
điểm đúng đắn rằng, "không thể có một thứ Nho giáo chung cho mọi thời đại,
một thứ Nho giáo nhất thành bất biến, thích ứng ở khắp mọi nơi, mọi lúc" cho
nên phải “tìm hiểu tư tưởng Nho giáo gắn liền với những điều kiện xã hội cụ
thể trong đó nó đã nảy sinh, phát triển và suy tàn" [52,tr.151], tác giả đã lược
qua về vị trí, vai trò của Nho giáo trong XHPK Việt Nam từ thời Lý - Trần trở
đi. Về vị trí, vai trò của Nho giáo ở Việt Nam, tác giả đã đưa ra những nhận
định khách quan rằng, từ thời Lý Trần trở đi, Nho giáo được coi trọng và có
điều kiện phát triển mạnh mẽ cho tới thời Lê sơ, Nho giáo giành được địa vị
độc tôn. Về cơ bản, vai trò của Nho giáo trong những thời kỳ này là tích cực
thúc đẩy xã hội phát triển; đáp ứng được những đòi hỏi của chế độ quân chủ


trung ương tập quyền, góp phần ổn định đời sống xã hội và trật tự của XHPK,
đối với việc ra đời, phát triển CĐPK và tư tưởng phong kiến [52,tr.154].
Nhưng từ thế kỷ XVI trở đi, Nho giáo đã bắt đầu suy tàn, bất lực và bộc lộ
những yếu tố hết sức tiêu cực và khi thực dân Pháp hoàn toàn đặt ách thống
trị lên nước ta thì vai trò của Nho giáo đã chấm dứt. Về ảnh hưởng của Nho
giáo, theo tác giả, chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo là các nhà Nho.
Theo đó, tất cả những mặt tích cực, tiêu cực, tính chất bảo thủ, lạc hậu, phản
động của Nho giáo đều bộc lộ ở nhà Nho, vì họ là những người tiếp thu tư
tưởng chính thống của Nho giáo, học tập và tuân thủ những điều răn dạy của
Nho giáo [52,tr.158].
Trong cuốn Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, các tác giả chỉ nghiên
cứu lịch sử Nho giáo Việt Nam từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX và ảnh
hưởng của nó trong lĩnh vực gia đình, giáo dục - khoa cử. Thông qua việc

trình bày, các tác giả đã làm rõ nhận định rằng, "Nho giáo vào Việt Nam
không còn giữ nguyên vẹn như ở Trung Quốc, nó đã được "Việt Nam hoá"...
Các nhà Nho Việt Nam vì công cuộc xây dựng xã hội và bảo vệ Tổ quốc đã
tiếp nhận và khai thác những yếu tố Nho giáo cho phù hợp với xã hội và đất
nước mình... Nói cách khác là nhà Nho Việt Nam nặng về luân lý đạo đức,
chủ yếu là hiếu nghĩa, nặng về Khổng Tử, Mạnh Tử, Trình Hiệu, Trình Di,
Chu Hy mà hầu như không bàn đến tâm học của Lục Cửu Uyên và Vương
Thủ Nhân..." [22,tr.9-10]. Nhận định này cũng được các tác giả làm rõ thêm
khi bàn về đặc điểm của Nho giáo Việt Nam.
Trong cuốn Bản sắc văn hoá Việt Nam, GS. Phan Ngọc đã phân tích cho
thấy, những phạm trù cơ bản của Nho giáo như Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa,
Nhà, Nước v.v. khi vào Việt Nam đã bị khúc xạ, đã được người Việt Nam tiếp
và biến nó. Do vậy, những phạm trù này ở các nhà Nho Việt Nam có nội hàm
rộng hơn, phong phú hơn, mang nhiều yếu tố, tính chất nhân văn, nhân bản hơn.
Và theo ông, chỉ như vậy, Nho giáo mới đóng một vai trò quan trọng đối với lịch
sử của dân tộc và ảnh hưởng nhất định đến nhiều mặt của văn hoá Việt Nam.


Công trình Nho học và Nho học Việt Nam của GS. Nguyễn Tài Thư đã
có nhiều kiến giải mới về ảnh hưởng và vai trò của Nho giáo đối với xã hội và
con người Việt Nam trong lịch sử. Đề cập tới phạm vi, ảnh hưởng của Nho
giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tác giả cho rằng, ảnh hưởng quan trọng
hơn của Nho giáo là trong lĩnh vực thế giới quan và nhân sinh quan. Tác giả
khẳng định, các bộ phận khác của lịch sử tư tưởng Việt Nam như: Tư tưởng
chính trị, tư tưởng pháp quyền, tư tưởng đạo đức là những lĩnh vực tư tưởng
phản ánh trực tiếp quyền lợi của GCPK, cho nên những bộ phận này in đậm
dấu ấn của Nho giáo hơn so với Phật giáo, Lão giáo. Một điểm rất đáng chú ý
là khi đề cập tới ảnh hưởng của Nho giáo trong lĩnh vực tư tưởng chính trị xã hội, tác giả cho rằng, "trong tư tưởng yêu nước của các nhà yêu nước Việt
Nam có dấu vết của ba đạo" [116,tr.63]. Đây là một trong những nhận định
mới của tác giả, khác với nhiều quan niệm cho rằng, ở Nho giáo không có tư

tưởng yêu nước (như quan niệm của Phan Ngọc, Lê Sỹ Thắng, v.v.).
Về vị trí, ảnh hưởng và vai trò của Nho giáo ở Việt Nam trong lịch sử còn
được đề cập, nghiên cứu ở nhiều công trình khác. Như là các công trình: Lịch sử
tư tưởng Việt Nam (Tập I) do GS. Nguyễn Tài Thư chủ biên; Lịch sử tư tưởng
Việt Nam (Tập II) của GS. Lê Sỹ Thắng; Lịch sử tư tưởng Việt Nam (gồm 6 tập)
của Nguyễn Đăng Thục; Việt Nam văn hoá sử cương của Đào Duy Anh; Đến
hiện đại từ truyền thống của GS. Trần Đình Hượu; Nho học ở Việt Nam - Giáo
dục và khoa cử của Nguyễn Thế Long; Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ
thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám của GS. Trần Văn Giàu; Nho giáo với văn
hoá Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, Bàn về đạo Nho của Nguyễn Khắc Viện,
v.v. Ngoài ra, những vấn đề trên cũng được nghiên cứu trong nhiều bài viết của
nhiều tác giả được tập hợp trong cuốn Nho giáo xưa và nay do GS. Vũ Khiêu
chủ biên; Nho giáo tại Việt Nam do GS. Lê Sỹ Thắng chủ biên; Văn hoá Việt
Nam xã hội và con người do GS. Vũ Khiêu chủ biên; v.v...
Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam sâu sắc nhất, rõ ràng nhất là ở
các nhà nho, nhà tư tưởng Việt Nam. Vì vậy, vấn đề này đã thu hút sự quan
tâm của nhiều người với nhiều công trình. Đó là các công trình: Văn chương
Nguyễn Trãi chuyên luận của Bùi Văn Nguyên; các bài viết trong Hội thảo


khoa học về Lê Thánh Tông (1442-1497) con người và sự nghiệp do trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn tổ chức; Hồ Quý Ly của Nguyễn Danh Phiệt;
Nguồn suối Nho học và thơ ca Bạch Vân cư sĩ của Lê Nguyên Lưu, Ngô Thì Sĩ những chặng đường thơ văn của Trần Thị Băng Thanh; Đặng Huy Trứ - Tư tưởng
và Nhân cách do Đặng Việt Ngoạn sưu tầm và biên soạn; v.v... cùng nhiều bài
viết khác của nhiều tác giả được đăng ở nhiều tạp chí nghiên cứu chuyên ngành,
như Tư tưởng triết học của Ngô Thị Nhậm của GS. Lê Sỹ Thắng, v.v...
Loại hình nghiên cứu thứ hai cũng được đề cập đến ở một số công trình tiêu
biểu trong mỗi một giai đoạn phát triển của XHPK Việt Nam. Thời Lý có các
bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Lý Công Uẩn và vương triều Lý, Hệ tư
tưởng thời Lý của GS. Nguyễn Duy Hinh; thời Lý - Trần có các công trình Tìm

hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần của Viện Sử học, Hệ tư tưởng Trần của GS.
Nguyễn Duy Hinh, Về chế độ quân chủ quý tộc đời Trần của GS. Nguyễn Hồng
Phong; thời Lê có Hệ tư tưởng Lê của GS. Nguyễn Duy Hinh; thời Nguyễn có
các công trình Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Tập II) của GS. Lê Sỹ Thắng, Hệ tư
tưởng Nguyễn của GS. Nguyễn Duy Hinh và nhiều công trình khác của GS. Trần
Văn Giàu, GS. Nguyễn Tài Thư, GS. Phan Huy Lê, v.v...
Ngoài ra, liên quan đến đề tài mà chúng tôi nghiên cứu, từ trước đến nay
đã có rất nhiều bài viết được đăng ở các tạp chí Triết học, Văn học, Nghiên
cứu lịch sử, Văn hoá - Nghệ thuật.
Nhìn chung, những công trình trên cho chúng ta nhìn nhận rõ hơn về sự thể
hiện của Nho giáo tại Việt Nam qua các giai đoạn phát triển của XHPK (từ thế
kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX). Tuy nhiên, vấn đề trên do được đặt trong toàn
bộ các hệ vấn đề nghiên cứu về lịch sử tư tưởng, lịch sử triết học, lịch sử dân tộc,
được tiếp cận từ những góc độ khác nhau với những mục đích khác nhau, cho
nên vấn đề mà đề tài luận án nghiên cứu chưa được nghiên cứu đầy đủ, có hệ
thống và hãy còn tồn tại nhiều ý kiến, quan điểm, nhận định khác nhau.
Tóm lại, ở hai loại hình nghiên cứu về Nho giáo và sự thể hiện của nó ở
Việt Nam trong lịch sử, từ trước tới nay, đã thu hút nhiều cơ quan, nhiều nhà
nghiên cứu. Song cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và hệ thống vấn đề mà luận án của chúng tôi quan tâm. Đồng
thời, qua những công trình nghiên cứu ấy, ngoài những quan điểm, đánh giá


thống nhất, vẫn còn tồn tại không ít những quan điểm, đánh giá khác nhau,
đôi khi đối lập nhau, ngay cả trong từng vấn đề. Điều này cho thấy rằng,
việc nhìn nhận, đánh giá về Nho giáo nói chung, đặc biệt là Nho giáo với tư
cách là học thuyết chính trị - xã hội và sự thể hiện của nó ở Việt Nam trong
lịch sử nói riêng là những vấn đề phức tạp, không hề đơn giản, đòi hỏi phải
được nghiên cứu, làm rõ thêm.
Tiếp tục hướng nghiên cứu này, từ góc độ tiếp cận triết học, luận án cố

gắng trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản, chung nhất trong
học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo qua các giai đoạn hình thành và
phát triển của nó. Những nội dung này, theo chúng tôi được tiếp nhận và ảnh
hưởng nhiều ở Việt Nam. Đồng thời, nhằm minh chứng và cụ thể hơn, chúng
tôi chỉ giới hạn nghiên cứu sự thể hiện của Nho giáo trong một số lĩnh vực cơ
bản của xã hội và con người Việt Nam, như tư tưởng chính trị - xã hội pháp
luật, giáo dục khoa cử và chỉ nghiên cứu vai trò của Nho giáo đối với tiến
trình hình thành, phát triển của CĐPK Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế
kỷ XIX. Với khuôn khổ của một luận án tiến sĩ triết học, chúng tôi không có
điều kiện để nghiên cứu tất cả những vấn đề của Nho giáo Việt Nam. Nó chỉ
có thể được tiếp tục ở những công trình nghiên cứu sau này của chúng tôi.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
a) Mục đích: Hiểu biết đầy đủ, toàn diện và hệ thống hơn về học thuyết
chính trị - xã hội của Nho giáo và nhất là sự thể hiện của nó ở Việt Nam trong
một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống tinh thần của con người dưới CĐPK và
vai trò của Nho giáo trong tiến trình hình thành, phát triển của CĐPK Việt
Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX.
b. Nhiệm vụ: Để đạt mục đích trên, luận án tập trung làm rõ những nội
dung chủ yếu sau đây:
- Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong học
thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo.
- Trình bày sự thể hiện của Nho giáo trong đời sống tinh thần của xã hội
và con người Việt Nam dưới CĐPK.


- Phân tích vai trò của Nho giáo trong việc hoạch định đường lối của
CĐPK Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là một số nội dung cơ bản trong học thuyết chính
trị - xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó trong XHPK Việt Nam từ thế

kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX.
- Phạm vi nghiên cứu: Quan niệm của các nhà Nho, nhà tư tưởng Việt
Nam về Nho giáo cũng như thái độ và sự tiếp nhận Nho giáo của các triều đại
phong kiến Việt Nam trong việc xây dựng, phát triển CĐPK, trong việc cai
trị.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án này là phương
pháp luận chung của triết học Mác-Lênin về con người và xã hội. Trong đó
chú trọng kết hợp với một số phương pháp như: lịch sử và lô gích, phân tích
và tổng hợp, phương pháp đối chiếu, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá.
6. Đóng góp mới của luận án.
Tiếp cận Nho giáo từ góc độ triết học và chính trị xã hội, luận án trình
bày một cách khách quan và có hệ thống những nội dung cơ bản trong học
thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo cũng như sự thể hiện của nó trong
XHPK Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX.
7. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của đề tài.
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ những đóng góp và hạn chế của Nho giáo
trong tiến trình hình thành và phát triển của CĐPK Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa
đầu thế kỷ XIX. Trên cơ sở đó, đề tài cố gắng phân tích những căn cứ, nguyên
nhân chủ yếu của những đóng góp và hạn chế của Nho giáo trong thời kỳ này.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy và học tập về Nho giáo và Lịch sử tư tưởng Việt Nam.
8. Cấu trúc của luận án.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
của luận án gồm 3 chương và 7 tiết.


NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN


1. Đề tài: “Những tư tưởng chủ yếu của Nho giáo về con người và ảnh
hưởng của nó trong việc xây dựng con ngươì ở Việt Nam hiện nay”. Để tài cấp
Đại học Quốc gia Hà Nội. Mã số QX 9607. Nghiệm thu tháng 6/2000.
2. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Đạo đức Nho giáo với việc rèn luyện và
nâng cao phẩm chất đạo đức cộng sản”, Khoa học, Đại học Quốc gia Hà
Nội,(4), tr.1 - 3.
3. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và
hoàn thiện con người ”, Giáo dục lý luận, (5), tr.35 -38.
4. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Đôi điều suy nghĩ về đối tượng và nội
dung giáo dục, giáo hoá của Nho giáo”, Giáo dục lý luận, (10), tr.50 -54.
5. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế Việt
Nam trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đăng trong: Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn (2000), Hội thảo khoa học kỷ niệm 70 năm thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.340 -347.
6. Nguyễn Thanh Bình (2001), “Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý
tưởng và việc nhận thức để xây dựng xã hội và xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay”.. Đăng trong: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(2001), Kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm 55 Cách mạng tháng 8 và Quốc
khánh 02-9, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 455 - 470.
7. Nguyễn Thanh Bình (2001), “Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý
tưởng”, Triết học, (3), tr. 38 - 42.
8. Nguyễn Thanh Bình (2002), “Những điểm tương đồng và dị biệt trong
học thuyết “tính người” của Nho giáo”, Triết học, (9), tr. 37 - 42.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Đào Duy Anh (1938), Khổng giáo phê bình tiểu luận, Nxb Quan hải
Tùng thư, Huế.


[2]

Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.

[3]

Ph. Ăngghen (1996), “Lễ an táng C.Mác”, C.Mác, Ph. Ăngghen toàn
tập (tập 19), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.499 - 506.

[4]

Ph.Ăngghen (1998), “Ăngghen gửi Pi-ốt La-vrô-vích La-vrốp ở Luân
Đôn”, C.Mác, Ph.Ăngghen toàn tập (tập 34), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr. 236-244.

[5]

Ph.Ăngghen (1997), “Ăngghen gửi I-ô-dép Blốc ở Khuê-ních- xbuốc”,
C.Mác, Ph.Ăngghen toàn tập (tập 37), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr. 639-645.

[6]

Ph.Ăngghen (1999), “Ăngghen gửi Boóc-ghi-nút ở Brê-xláp”, C.Mác,
Ph.Ăngghen toàn tập (tập 39), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 270-274.

[7]


Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1996), Tài liệu nghiên cứu văn
kiện Đại hội VIII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[8]

Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2003), Tài liệu nghiên cứu các
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[9]

Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Triết học Mác - Lênin (Tập II) Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

[10]

Hoàng Thị Bình (2001), “Nhân, Nhân nghĩa, Nhân chính trong “Luận
ngữ” và “Mạnh Tử”, Triết học, (8), tr.38- 41.

[11]

Nguyễn Văn Bình(2000), “Quan niệm về Lễ của Nho giáo và những
bài học cho chúng ta hôm nay”, Triết học, (4), tr. 46-49.

[12]

Phan Văn Các (1994), “Giới nho học quốc tế đang quan tâm những
gì?”, Triết học, (1), tr. 63-64.

[13]


Phan Văn Các (1993), “Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh
khu vực và thời đại”, Triết học, (3), tr. 61-65.


[14]

Phan Văn Các (1991), “Việc nghiên cứu Khổng Tử và Nho giáo ở
Trung Quốc trong thập kỷ 80”, Triết học, (1), tr. 61-65.

[15]

Trương Bá Cần (biên soạn) (1991), Nguyễn Trường Tộ - con người và
di thảo, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

[16]

Phan Bội Châu (1998), Khổng học đăng, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.

[17]

Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí (tập I), (tổ
phiên dịch Viện Sử học Việt Nam), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[18]

Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí (tập II), (tổ phiên
dịch Viện Sử học Việt Nam), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.


[19]

Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí (tập III), (tổ
phiên dịch Viện Sử học), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[20]

Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (1995), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh
Niên, Hà Nội.

[21]

Phạm Như Cương (chủ biên) (1978), Về vấn đề xây dựng con người
mới, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[22]

Phan Đại Doãn (chủ biên) (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[23]

Phan Đại Doãn (1996), “Mấy vấn đề Nho học, Nho giáo ở miền Bắc
Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX”, Triết
học, (2), tr. 31-35.

[24]

Lê Anh Dũng (1994), Con đường tam giáo Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.


[25]

Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội.

[26]

Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội.

[27]

Đại học - Trung Dung (1950), (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb Trí Đức
Tòng Thơ, Sài Gòn.

[28]

Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 1) (2000), (Ngô Đức Thọ dịch và chú
thích), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.


[29]

Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 2) (2000), (Hoàng Văn Lâu dịch và chú
thích), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

[30]

Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 3) (2000), (Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế
Long dịch và chú thích), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.


[31]

Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

[32]

Lê Quý Đôn (1995), Vân đài loại ngữ, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

[33]

Trần Văn Giàu (1990), Các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[34]

Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến Cách mạng tháng Tám (tập 1), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

[35]

Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến Cách mạng tháng Tám (tập 2), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

[36]

Mai Trung Hậu (1995), “Chữ Hán và Nho giáo đâu có phải là truyền
thống văn hoá của dân tộc Việt Nam”, Thông tin Lý luận, (2), tr. 41-43.

[37]


Nguyễn Duy Hinh (1986), “Hệ tư tưởng Lý”, Nghiên cứu lịch sử, (1),
tr.7-15 và tr.24.

[38]

Nguyễn Duy Hinh (1986), “Hệ tư tưởng Trần”, Nghiên cứu lịch
sử, (4), tr.36-45.

[39]

Nguyễn Duy Hinh (1986), “Hệ tư tưởng Lê”, Nghiên cứu lịch sử,
(6), tr.42-52.

[40]

Nguyễn Duy Hinh (1989), “Hệ tư tưởng Nguyễn”, Nghiên cứu lịch
sử, (3 + 4), tr.6-18 và tr.32

[41]

Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình
triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[42]

Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng triết học phương Đông gợi những
điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội.

[43]


Trần Đình Hượu (1997), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hoá,
Hà Nội.


[44]

Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[45]

Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông,
Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.

[46]

Chu Hy (1996), Tứ thư tập chú (Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải),
Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

[47]

Đặng Cảnh Khanh (1999), Các nhân tố phi kinh tế xã hội học về sự
phát triển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[48]

Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2000), Văn học Việt Nam (Thế kỷ X - nửa
đầu thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.


[49]

Vũ Ngọc Khánh (1995), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước cách
mạng tháng Tám - 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[50]

Vũ Khiêu (chủ biên) (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.

[51]

Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (Chương
trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[52]

Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.

[53]

Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.

[54]

Vũ Khiêu (chủ biên) (2000), Văn hoá Việt Nam xã hội và con người,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.


[55]

Phạm Văn Khoái (1999), Giáo trình Hán văn Lý - Trần, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.

[56]

Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1993), Các dạng đạo đức xã hội, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[57]

Trần Trọng Kim (1992), Nho giáo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

[58]

Phùng Hữu Lan (1998), Đại cương triết học sử Trung Quốc (Nguyễn
Văn Dương dịch), Nxb Thanh niên, Hà Nội.


[59]

Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung Quốc (Tập 1), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.

[60]

Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung Quốc (Tập 2), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.


[61]

Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi (1992), Tuân Tử, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.

[62]

Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên) (1994), Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay (Tập 1), Nxb Hà Nội.

[63]

Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên) (1994), Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay (Tập 2), Nxb Hà Nội.

[64]

Phan Huy Lê (1999), Tìm về cội nguồn (Tập 1), Nxb Thế giới, Hà Nội.

[65]

Phan Huy Lê (1960), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (Tập II) Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

[66]

Phan Huy Lê, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm (1960), Lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam (Tập III), Nxb Giáo dục, Hà Nội.


[67]

Tạ Ngọc Liễn (1998), Chân dung văn hoá Việt Nam (tập 1), Nxb Thanh
niên, Hà Nội.

[68]

Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam - Giáo dục và thi cử,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[69]

Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII - hết
thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[70]

Luận ngữ (1950), (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb Trí Đức Tòng Thơ, Sài
Gòn

[71]

Hầu Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc Tường (1960), Bàn về tư
tưởng
cổ đại Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội.

[72]

Hầu Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc Tường (1959), Hiển học Khổng
Mặc, Nxb Sự thật, Hà Nội.


[73]

Nguyễn Hữu Lương (1997), Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông phương,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.


[74]

Lê Nguyên Lưu (1999), Nguồn suối Nho học và thơ ca Bạch Vân cư
sĩ, Nxb Thuận Hoá, Huế.

[75]

C.Mác, Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập (tập 3), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.

[76]

C.Mác, Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập (tập 20), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.

[77] C.Mác (1981), “Ngày mười tám tháng Sương mù của Louis Bonaparte”,
C.Mác,Ph.Ăngghen tuyển tập (tập II), NXB Sự thật, Hà Nội,
tr.386-530.
[78] C.Mác (1993), “Lao động làm thuê và tư bản”, C.Mác, Ph.Ăngghen,
Toàn tập (tập 3), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.537-576.
[79] C.Mác (1993), “Sự thống trị của Anh ở Ấn Độ”, C.Mác, Ph.Ăngghen,
Toàn tập (tập 9), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.170-178.
[80] C.Mác (1995), “Sự khốn cùng của triết học”, C.Mác, Ph.Ăngghen toàn

tập (tập 4), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.97-258.
[81] C.Mác (1993), “Phê phán khoa kinh tế chính trị”, C.Mác, Ph.Ăngghen
toàn tập (tập 23), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.1-1232.
[82] C.Mác (1996), “Mác gửi Paven Va-xi-li-ê-vích An-nen-cốp ở Pari”,
C.Mác, Ph.Ăngghen toàn tập (tập 27), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr.655-673.
[83]

C.Mác (1995), “Các bản thảo kinh tế những năm 1857 - 1859”, C.Mác,
Ph.Ăng ghen toàn tập (tập 46), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.11-827.

[84]

Mạnh Tử (Thượng Mạnh Tử) (1950), (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb Trí
Đức Tòng Thơ, Sài Gòn.

[85]

Mạnh Tử (Phần Hạ) (1996), (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb Thuận Hoá,
Huế.

[86]

Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập (tập 2), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.

[87]

Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập (tập 5), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.



[88]

Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập (tập 9), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[89]

Đặng Việt Ngoạn (sưu tầm tuyển chọn) (2001), Đặng Huy Trứ - Tư
tưởng và Nhân cách, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[90]

Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông
tin, Hà Nội.

[91]

Phan Ngọc (1995), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn
hoá, Hà Nội.

[92]

Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2000), Tiến trình lịch sử Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[93]

Nhữ Nguyên (biên soạn) (1996), Lễ ký - kinh điển về việc lễ, Nxb
Đồng Nai.


[94]

Nguyễn Danh Phiệt (1982), “Quá trình nghiên cứu về phương thức sản
xuất Châu Á ở Việt Nam”, Nghiên cứu lịch sử, (1), tr.26-37.

[95]

Nguyễn Hồng Phong (1982), “Về phương thức sản xuất Châu Á, lý
thuyết và thực tiễn”, Nghiên cứu lịch sử, (1), tr.5-20.

[96]

Vũ Thị Phụng (1997), Giáo trình lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

[97]

Lê Văn Quán (1997), Lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[98]

Bùi Thanh Quất (chủ biên) (1999), Lịch sử Triết học, Nxb Giáo dục,
TP. Hồ Chí Minh.

[99]

Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám
cương mục (Tập I) (Tổ biên dịch Viện Sử học Việt Nam), NXB
Giáo dục, Hà Nội.


[100] Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt Sử thông giám
cương mục (tập II) (tổ biên dịch Viện Sử học Việt Nam), NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[101] Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục (tập I) (tổ phiên
dịch Viện Sử học Việt Nam), NXB Giáo dục, Hà Nội.
[102] M.M. Rodentan (1986), Từ điển triết học (tiếng Việt), Nxb Tiến bộ,
Mát-xcơ-va.


[103] Văn Tạo (1995), Phương thức sản xuất Châu Á, lý luận Mác - Lênin
và thực tiễn Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[104] Vũ Minh Tâm (chủ biên) (1996), Tư tưởng triết học về con người,
Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
[105] Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hoà (1997), Lịch sử các định chế
chính

trị và pháp quyền Việt Nam (Tập 1), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.
[106] Trần Thị Băng Thanh (1992), Ngô Thì Sĩ những chặng đường thơ văn,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[107] Thành uỷ, Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hải Phòng (1991), Kỷ yếu hội
thảo khoa học: Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hải Phòng.
[108] Lê Sỹ Thắng (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập II), Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
[109] Lê Sỹ Thắng (chủ biên) (1993), Nho giáo ở Việt Nam, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
[110] Lê Sỹ Thắng (1973), “Mấy nét tổng quan về Nho giáo trong lịch sử
Việt Nam”, Triết học, (2), tr.109-137.

[111] Lê Sỹ Thắng (1973), “Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm”, Triết
học, (1), tr.123-150.
[112] Bùi Thiết (2000), Việt Nam thời cổ xưa, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[113] Nguyễn Khắc Thuần (2000), Đại cương lịch sử văn hoá Việt Nam
(Tập3), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[114] Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập 1),
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[115] Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng

tôn giáo vào con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[116] Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam, Viện Triết
học,Trung tâm KHXH và NVQG, Hà Nội.


×