Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Học thuyết Chính danh ý nghĩa đối với việc tuyển chọn cán bộ, công chức ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.65 KB, 27 trang )

Bài tiểu luận cuối kỳ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khổng Tử là nhà triết học thông thái, nhà chính trị tài ba và nhà giáo dục nổi tiếng
mà mỗi khi nhắc đến thì chúng ta nghĩ ngay đến những tư tưởng sâu sắc của ông về thế
giới, xã hội, con người. Những tư tưởng, quan niệm về xã hội, con người đạo đức, giáo
dục… ấy cho đến nay vẫn còn giá trị to lớn với các nước trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng. Trong số đó phải kể đến Học thuyết Chính danh - một phát kiến mới của
Khổng Tử có ý nghĩa vô cùng to lớn với đắt nước ta, vì vậy việc nghiên cứu về ý nghĩa
của học thuyết này trong xã hội hiện nay là cần thiết và hữu ích.
Một đất nước kinh tế có phát triển hay không, chính trị có ổn định hay không phụ
thuộc phần lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức của đất nước đó, như Chủ Tịch Hồ Chí
Minh từng khẳng định; “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công
hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” .Hiện nay, Việt Nam đang trong công cuộc xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa do đó việc xây dựng đội
ngũ cán bộ có chuyên môn, có năng lực và có phẩm chất đạo đức tốt là yêu cầu vô cùng
cấp thiết. Để có một đội ngũ cán bộ chất lượng cao thì việc đầu tiên phải chú trọng chính
là công tác tuyển dụng. Tuy nhiên, công tác này ở nước ta hiện nay vẫn còn mang nhiều
bất cập, chưa tuyển chọn được người có tài, có đức thực sự để phục vụ đất nước. Điều này
dẫn đến hậu quả thông tin về một số lượng lớn cán bộ, công chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô
về” xôn xao dư luận trong thời gian gần đây.
Từ yêu cầu cấp thiết về công tác tuyển chọn cán bộ, công chức Việt Nam cùng với
việc tìm hiều “Học thuyết Chính danh” của Khổng Tử, tôi xin lựa chọn đề tài “Học thuyết
Chính danh và ý nghĩa đối với việc tuyển chọn cán bộ, công chức ở Việt Nam” để thấy
được như thế nào là “chính danh cán bộ” từ đó đưa ra một số giải pháp cho công tác tuyển
dụng cán bộ, công chức ở nước ta.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Bài tiểu luận cuối kỳ
Tổng hợp và phân tích Học thuyết Chính danh của Khổng Tử, đưa ra “chính danh
cán bộ, công chức”. Tìm hiểu thực trạng tuyển chọn công chức ở nước ta hiện nay trên cơ
sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm tuyển chọn được “cán bộ tốt”.


3. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu dựa trên nền tảng về đạo đức của Nho Giáo, đạo đức cách
mạng của Chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về cán
bộ. Đồng thời sử dụng phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, so sánh….
4. Cấu trúc bài tiểu luận
Chương I: Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của học thuyết chính danh
Chương II: Thực trạng tuyển chọn công chức ở Việt Nam
Chương III: Giá trị của Học thuyết Chính danh đối với việc tuyển chọn cán bộ, công
chức ở Việt Nam.
Bài tiểu luận cuối kỳ
CHƯƠNG I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC
THUYẾT CHÍNH DANH
1.1 Hoàn cảnh ra đời
Thuyết chính danh ra đời trong bối cảnh nước Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến
Quốc, một xã hội loạn lạc, cha không ra cha, con không ra con mọi giá trị đạo đức bị đảo
lộn. Đây là thời kỳ Trung Quốc rơi vào thời kỳ chiến loạn khi mà nhà Chu suy yếu, các
vương hầu tranh đấu tiêu diệt lẫn nhau để giành quyền lực. Cuối cùng, trên danh nghĩa là
nhà Chu nắm thiên mệnh nhưng quyền lực thực sự lại nằm trong tay các chư hầu. Nước
nào cũng xem mình ngang hàng nhà Chu, không cần nhân danh thiên tử, giành nhau xưng
vương, tự ý đem quân đánh nhau khốc liệt.
Sinh ra trong thời Xuân Thu, Khổng Tử đã thấy được những mâu thuẫn thời nhà
Chu, phức tạp của xã hội phong kiến thời Chu khi mà tôn ti trật tự bị rối ren, đảo lộn,
tranh giành đất đai, quyền lực… “tôi thí vua, con giết cha không phải nguyên nhân của
một sáng một chiều” luân lý suy đồi. Là một triết nhân, ông đưa ra những tư tưởng về đạo
đức, trị quốc… mong “chuyển loạn thành trị” và đi đến “trị quốc, bình thiên hạ”, những
tư tưởng này không chỉ ảnh hưởng sâu sắc tới Trung Quốc mà còn có ý nghĩa to lớn với
các nước trên thế giới hiện nay trong đó có Việt Nam.
Nhắc đến Khổng Tử chúng ta không thể không nhắc đến trường phái Nho Gia một
trường phái quan trọng và có giá trị vào loại bậc nhất trong Triết học Trung Hoa cổ, trung
đại mà ông là người sáng lập. Nho giáo là một học thuyết chính trị xã hội dạy về cách

hành xử của một “Chính nhân quân tử” trong xã hội. Nho giáo lấy việc tạo sự ổn định và
sự phát triển làm trọng bằng cách sử dụng đường lối Đức trị và Lễ trị đã có từ thời nhà
Chu. Để xây dựng đường lối Đức đường lối. Đức trị và Lễ trị Khổng Tử đã xây
dựng học thuyết: Nhân, Lễ, Chính danh. Đây là ba phạm trù quan trọng nhất trong học
thuyết của Khổng Tử. Nhân là nội dung, Lễ là hình thức còn Chính danh là con đường
đạt đến điều nhân.
“Tứ thư” và “Ngũ kinh” là hai tác phẩm điển hình của Nho Giáo. Trong đó, “ Tứ
thư” được hiểu là các bài giảng về đạo đức; gồm 4 bộ Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và
Mạnh Tử. “Ngũ Kinh” có bàn về tổ chức hành chính, chính trị và các quan điểm Âm -
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 3
Bài tiểu luận cuối kỳ
Dương, Ngũ Hành ; bao gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân
Thu.
Thuyết Chính Danh mà tiểu luận nghiên cứu được thể hiện trong Kinh Xuân Thu.
Hiện nay có rất nhiều tranh cãi xung quanh tên của kinh Xuân Thu và tác giả. Tuy nhiên,
tiểu luận dựa vào quan điểm của Mạnh Tử cho rằng kinh Xuân Thu là bộ sách do Khổng
Tử, được viết theo lối văn làm sử; ghi lại những biến cố xảy ra ở nước Lỗ xen lẫn với
những bình luận của ông nhằm giáo dục các bậc vua chúa. Sách Xuân Thu có 3 nội dung
chính là: Chính danh tự, Định danh phận, Ngụ bao biếm.
Khổng Tử cho rằng tình trạng xã hội lộn xộn, mất tôn ti, trật tự là do thiên tử nhà
Chu đã không làm tròn đúng trách nhiệm (chính danh) của một bậc quân vương nên
quyền lực rơi vào tay chư hầu, chư hầu lấn át quyền lực nhà vua làm cho xã hội mất kỷ
cương, trật tự. Khổng Tử cũng đưa dẫn chứng về việc hai cha con nước Vệ Xuất Công
Triếp và Khoái Quý tranh nhau làm vua, vì cả hai thiếu tư cách, thiếu chính danh, nên
theo ông, cần phải lập một công tử khác “danh chính ngôn thuận” lên làm vua thì nước
Vệ mới được ổn định. Thuyết Chính danh của Khổng Tử thể hiện mong ước thiết lập trật
tự xã hội, danh phận rõ rang, đưa xã hội từ loạn trị trở lại bình trị như thời đầu Nhà Chu.
Thuyết Chính danh được các học trò của Khổng Tử là Mạnh Tử và Tuân Tử bổ sung
và hoàn thiện; Tuân Tử cho rằng: “mọi vật đều có tên, vật giống nhau thì có tên giống
nhau, vật khác nhau thì có tên khác nhau”. “Biết thực khác thì có danh khác, cho nên nói

thực khác nhau bằng danh khác nhau thì không loạn bao giờ”.
1.2 Nội dung cơ bản của học thuyết chính danh
Học thuyết của Khổng Tử chủ yếu đề cập đến những vấn đề chính trị - xã hội. Vì
vậy nó là học thuyết chính trị. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận và hướng giải quyết những
vấn đề chính trị - xã hội, tư tưởng của Khổng Tử lại là tư tưởng về con người, về đạo đức.
Hay nói khác học thuyết của Khổng Từ về cơ bản là học thuyết chính trị - đạo đức.
Như đã đề cập ở trên, tư tưởng chính trị của Khổng Tử được thể hiện tập trung nhất
trong quan niệm của ông về nhân, lễ, chính danh và mối quan hệ giữa chúng. Trong đó,
nhân là nội dung, lễ là hình thức còn chính danh là con đường đạt đến điều nhân.
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 4
Bài tiểu luận cuối kỳ
Như vậy, chính danh không phải là học thuyết độc lập mà nó nằm trong chỉnh thể
đức trị (nhân - lễ - chính danh). Có nhân và lễ thì mới có chính danh. Và khi có "chính
danh" thì chi phối cái nhân, lễ. Con người không có nhân và lễ thì không có chính danh.
Vì vậy, để tìm hiểu học thuyết "chính danh" trước hết ta đi tìm hiểu thế nào là "nhân" và
thế nào là "lễ".
Nhân : Trong Luận ngữ có nhiều sự giải thích khác nhau về “nhân” tuy nhiên sự
giải thích trong thiên “Nhan Uyên” là bao quát hơn cả, ở đây “nhân” trong quan điểm của
Khổng Tử là “yêu người”. Theo Khổng Tử: "Duy có bậc nhân mới thương người và ghét
người một cách chính đáng mà thôi" (Luận ngữ, Lý nhân, 3) – chỉ có người có đức nhân
thì mới biết “yêu người” và ghét người”. Như vậy, “nhân” là yêu người, nhưng “nhân”
còn phải biết ghét người nữa. Trong Luận ngữ, có chỗ Khổng Tử không dùng khái niệm
nhân nhưng nội dung lại thấm đượm tình yêu thương cao cả, đối với ông, nhân chính là
đạo lý làm người, vừa thương người (ái nhân), vừa phải giúp người (cứu nhân). Ông cho
rằng, khi thi hành điều nhân phái phân biệt thân sơ, trên dưới. Trong quan niệm của
Khổng tử, nhân không chỉ là yêu người ghét người mà còn là đức hoàn thiện con người,
“nhân” là đức tính căn bản cần thiết nhất của con người để tu dưỡng bản thân. Đối với
người quân tử chữ nhân (tu thân) chính là nền tảng cản bản để “trị quốc”. Khổng Tử cho
rằng: “Người quân tử làm việc vì thiên hạ, không nhất định phải như thế này mới được
hoặc như thế kia là không được, cứ hợp đạo nghĩa mà làm”. (Luận ngữ).

Đối với Khổng Tử, thái độ của người dân đánh giá chữ nhân của nhà cầm quyền:
“Hỏi về điều nhân. Khổng Tử nói: Ra cửa phải như tiếp khách lớn, trị dân phải như làm lễ
tế lớn, điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mình cũng đừng làm cho
người khác. Như vậy, trong nước chẳng ai oán giận, trong nhà cũng không ai oán giận”.
(Luận ngữ, XII:2). Có thể thấy học thuyết Nho Gia đã lấy lợi ích của dân làm gốc. Đây là
điểm tiến bộ có ảnh hưởng đến việc trị quốc sau này của Trung Quốc.
Lễ: Theo Nho giáo, “lễ” là quy định về mặt đạo đức trong quan hệ ứng xử giữa
người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với vua, chồng vợ có
nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè phải giữ được lòng tin. Theo
nghĩa rộng hơn “lễ” bao gồm những nghi thức trong tế lễ, những nguyên tắc về tổ chức và
hành động chính trị, những chuẩn mực về tư tưởng và hành vi của con người nhằm bảo
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 5
Bài tiểu luận cuối kỳ
đảm trật tự và sự yên bình của xã hội . “Lễ” còn được coi là đường lối chính trị gọi là “Lễ
trị” xã hội có trật tự được xem là xã hội có lễ, con người có đạo đức được đánh giá là con
người có lễ: Hiểu lễ là điều kiện để hiểu được thực chất các phạm trù và các khái niệm
khác của học thuyết Khổng Tử. Tóm lại, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ti của cuộc sống
cùng trong cộng đồng xã hội và lối cư xử hàng ngày. Theo nghĩa rộng này, “lễ” là cơ sở
của một xã hội có tổ chức, đảm bảo phân định trên dưới rõ ràng.
Khổng Tử từng nhận định: “Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục lễ, dẹp
bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân (Luận ngữ) và "Nhân nhi bất nhân, như lễ
hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?" "Một con người nếu thiếu đạo nhân thì làm sao có
lễ được? Một con người nếu chẳng có lòng nhân thì làm sao hiểu được âm nhạc?" (Luận
Ngữ). Như vậy, Lễ chính là hình thức của Nhân và Nhân chính là nội dung của Lễ.
Lễ giúp người ta phân biệt phải trái, đúng sai, giữ đúng đạo làm người. "Trong cái
nghĩa rộng, lễ có hàm cái tính chất pháp luật, nhưng lễ thì thiên trọng về cái quy củ tích
cực. Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì và không nên làm điều gì; pháp luật thì cấm
không cho những điều gì, hễ làm thì phải tội. Người làm điều trái lễ thì chỉ bị người quân
tử chê cười, chứ người làm trái pháp luật thì có hình pháp xét xử."
Có thể thấy, Khổng Tử rất coi trọng chữ nhân và chữ lễ của người cầm quyền. Nhân

và lễ trong Nho giáo có mối quan hệ biện chứng, lễ là hình thức của nhân chỉ có lễ mà
thiếu nhân thì thiếu nền đạo đức căn bản, lễ chỉ còn là pháp, mà pháp lại chỉ là những quy
định để phạt tội.
Với một tầm nhìn bao quát, rõ ràng trị quốc không thể chỉ có Đức trị và Lễ trị, mà
còn cần cả một hệ thống pháp luật chặt chẽ và đảm bảo công bằng cho nhân dân. Tuy
nhiên, nền tảng căn bản cho việc ban hành và thực hiện hệ thống pháp luật chính là người
có nhân đức đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.
Chính danh: Để thực hiện nhân và lễ, Khổng Tử đã nêu ra tư tưởng chính danh.
Chính danh là danh nghĩa và thực chất phải phù hợp với nhau, mỗi sự vật phải được gọi
đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình, ai ở địa vị nào, danh phận
nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, cũng không dành vị trí của người khác,
không lấn vượt và làm rối loạn. Trong sách Luận Ngữ có câu: "Quân quân, thần thần, phụ
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 6
Bài tiểu luận cuối kỳ
phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con". Đây là năm mối quan hệ lớn của
Nho gia (ngũ luân) : vua - tôi, cha - con, chồng – vợ, anh – em, bầu bạn, mỗi người đều
phải hành xử đúng với cái danh mà mình mang. Vua phải có uy thế của vua, phải có tài có
đức cho dân kính trọng. Bề tôi cũng phải làm tròn trách nhiệm của mình là
trung với vua, một lòng tôn kính tuân lệnh, thậm chí sẵn sàng xả thân “cứu chúa”. Cha
phải ra cha, phải luôn luôn hành xử đúng mực gương mẫu để con noi theo. Con thì phải
làm tròn chữ hiếu, kính trọng, vâng lời hết lòng phụng dưỡng cha, …Những nguyên tắc
này đã rất có giá trị để thiết lập một trật tự xã hội từ trên xuống dưới, từ phạm vi một quốc
gia tới phạm vi một gia tộc hay nhỏ hơn nữa là một gia đình trong xã hội phong kiến. Mỗi
người cần biết mình đang ở vị trí nào trong các mối quan hệ, để biết mình là ai và có cách
hành xử đúng đắn. Cách hành xử này phải dựa trên nền tảng đạo đức, hay chữ “nhân” như
đã phân tích ở trên. Trong sách Trung Dung có ghi: "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều:
đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè". Với đạo đức là cốt lõi,
người quân tử biết mình là ai trong quan hệ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh em, bạn
bè. Nếu mọi người đều nhận biết như vậy, thì cảnh “tôi giết vua, con giết cha” không còn,
xã hội bình trị.

Học thuyết Chính Danh:
Khổng Tử cho rằng thiên hạ bị rối loạn vì vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha
không ra cha, con không ra con. Từ đó ông đưa ra học thuyết “Chính danh định phận”
làm căn bản cho việc trị quốc.
Cơ sở lý luận của học thuyết chính danh cũng xuất phát từ nguyên lý của kinh dịch,
bao gồm: DỊCH – TƯỢNG – TỪ.
Dịch là sự biến dịch trong vũ trụ. Tượng là khuôn mẫu, là nguồn gốc cho mọi vật.
Đó là ý tượng (là ý niệm làm khuôn mẫu cho cho các vật cụ thể của vũ trụ) “tại thiên thàn
h tượng, tại địa thành hình”. Từ là ý niệm chỉ chỉ thể hiện bằng một từ, một tên gọi, đó
chính là bản tính của sự vật. Cho nên, vua phải ra vua, tôi phải ra tôi. Vua dùng lễ để
hành động với bản tính được thể hiện bằng ý niệm, tức là bằng tên gọi: Vua- đạo làm vua.
Chính danh là Danh (tên gọi, chức vụ, địa vị, thứ bậc) và Phận (phận sự,
nghĩa vụ, quyền lợi) phải phù hợp với nhau. Danh không phù hợp là loạn Danh. Danh và
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 7
Bài tiểu luận cuối kỳ
phận của một người trước hết do những mối quan hệ xã hội quy định (ngũ luân và ngũ
thường). Để chính Danh, nho giáo không dùng pháp trị mà dùng đức trị, là dùng luân lý
đạo đức điều hành xã hội. Ý nghĩa sâu xa của chính danh thường thể hiện ở mặt
dụng với ba khía cạnh:
+ Trước hết, là phân biệt cho đúng tên gọi. Mỗi sự vật cũng như con người phải thể
hiện đúng bản tính của mình, mỗi cái tên bao hàm thái độ, trách nhiệm, bổn phận, để thực
hiện bản tính vốn có của nó. Vua phải là tấm gương cho dân chúng noi theo, vua độc ác,
xã hội loạn lạc; vua nhân đức, dân chúng yên bình. “Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ
thân bất chính, tuy lệnh bất tòng”. (Luận Ngữ, thiên Tử Lộ); “Vua mà ngay chính thì
không sai khiến người ta cũng làm theo điều phải, còn vua mà không ngay chính thì có sai
khiến người ta cũng không ai theo cả”.
+ Thứ hai, phân biệt cho đúng danh phận, ngôi vị. Vua phải ra vua, bề tôi phải ra bề
tôi, cha phải ra cha, con phải ra con. Tức là người nào ở vị trí nào thì phải ứng xử ở vị trí
đó, không được lẫn lộn, không được tùy tiện, phải tuân theo phép tắc, quy cũ của xã hội
đã quy định. Như vậy, xã hội mới không bị đảo lộn, không bị loạn lạc. Riêng đối với

người cầm quyền vua - thiên tử được thay trời cai trị thì càng phải làm đúng danh của
mình, như vậy mọi người mới noi theo. Đặc biệt, trong việc chính sự (việc nước), điều
đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính danh, phải xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và
trách nhiệm của từng người để họ hành động cho đúng. Khổng Tử cho rằng không ở chức
vị ấy thì không được bàn việc của chức vị đó, không được hưởng quyền lợi, bổng lộc của
chức vị ấy.
+ Thứ ba, danh mang tính phê phán khẳng định chân lý, phân biệt đúng sai, tốt, xấu.
Chính danh không có nghĩa là ngu trung theo kiểu tuyệt đối trung thành theo chủ nhân,
thờ một ông vua trước sau không thay đổi cho dù ông vua đó đã mất thân phận làm vua
do làm bậy. Chừng nào mà vua còn làm tròn thiên mệnh, nhân dân dưới quyền cai trị của
vua được hưởng hòa bình và hạnh phúc thì đó là vua hiền, con người vua là thiêng liêng
và bất khả xâm phạm. Muốn như vậy ông vua phải siêng năng lên nữa để làm tròn trách
nhiệm của một ông vua. Trái lại, nếu đó là một ông vua ác độc, mà sự cai trị hà khắc làm
cho nhân dân điêu đứng khổ sở, thì tức là ông vua ác đó đã đánh mất chính danh và có thể
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 8
Bài tiểu luận cuối kỳ
sẽ bị mất luôn ngôi vua và mệnh trời và nhân dân có quyền chính đáng nổi dậy, lật đổ ông
vua ác độc đó và cử người khác lên thay thế. Thay bậc đổi ngôi cũng là do mệnh trời. Nếu
cuộc khởi nghĩa thành công, một ông vua khác lên thay, thì đó cũng hợp chính danh và
hợp với mệnh trời.
Trong chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp, hình
phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là
do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải giáo hoá đạo đức và
thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính danh, định phận là làm mọi việc cho ngay
thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy cứ thế mà làm, trên dưới,
vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự phân minh.
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 9
Bài tiểu luận cuối kỳ
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TUYỂN CHỌN CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM
2.1 Tiêu chuẩn tuyển chọn công chức ở Việt Nam

Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chủ tịch đã thấm nhuần tư tưởng một khi đã có đường lối
cách mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Người viết "muôn việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém", "cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Sự thật là
mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ đều do cán bộ nghiên cứu,
đề xuất, đồng thời cũng do cán bộ tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện. Đường lối
chính sách của Đảng đúng hay sai, tổ chức thực hiện thành công hay không đều phụ thuộc
vào cán bộ. Động lực của mọi cuộc cách mạng là quần chúng nhân dân, mà hạt nhân chủ
yếu của nó là lực lượng cán bộ. Do đó, ngay từ khi nước ta vừa giành độc lập, bắt đầu
công cuộc xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi chọn nhân tài kiến quốc:
"Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta
khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng
thêm nhiều”. Người đã rất quan tâm đến việc lựa chọn người tài giỏi ra giúp dân, giúp
nước và lưu ý đến việc chọn lựa cán bộ công chức có đủ tiêu chuẩn vào làm việc trong
các cơ quan, bộ máy hành chính Nhà nước. Sắc lệnh số 188 năm 1948 và số 76 năm 1950
do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đã nêu cụ thể các môn thi về chính trị, pháp luật,
địa lý, lịch sử và ngoại ngữ vào biên chế Nhà Nước, nhằm tìm ra người tài xây dựng đất
nước. Các kỳ thi tuyển công chức vào mọi ngạch, bậc của nền hành chính quốc gia đã
được thực thi theo quy định chung.
Xác định được vị trí và vai trò của cán bộ là tiền vốn của đoàn thể - cái gốc của mọi
công việc nên Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ mẫu mực phải có đức có tài.
Những tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ công chức Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:
1) Phải trung thành với Tổ quốc với cách mạng, chế độ XHCN.
2) Có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi.
3) Phải có mối liên hệ mật thiết với mọi người xung quanh.
4) Dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình
huống khó khăn. Thất bại không hoang mang, tự ti.
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 10
Bài tiểu luận cuối kỳ
Ngày 13 tháng 11 năm 2008 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua Luật cán bộ công chức được cũng đã đưa ra các tiêu chuẩn tuyển chọn công

chức.
Về Căn cứ tuyển dụng công chức: chức tại mục II luật này cụ thể như sau: Điều 35
luật cán bộ công chức quy định việc tuyển dụng công chức phải căn cứ vào yêu cầu
nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế.
Về điều kiện đăng ký dự tuyển công chức: Theo điều 36 Luật cán bộ công chức thì
người tham gia dự tuyển công chức phải có một số điều kiện sau: Có văn bằng, chứng chỉ
phù hợp; Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; Đủ sức khoẻ để thực hiện nhiệm vụ….
Về phương thức tuyển dụng công chức: tại điều 37 Luật cán bộ công chức có quy
định: Việc tuyển dụng công chức được thực hiện thông qua thi tuyển, trừ trường hợp
những người cam kết tình nguyện làm việc từ 05 năm trở lên ở miền núi, biên giới, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn thì được tuyển dụng thông qua xét tuyển Hình thức, nội dung thi tuyển công
chức phải phù hợp với ngành, nghề, bảo đảm lựa chọn được những người có phẩm chất,
trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu tuyển dụng….
Về nguyên tắc tuyển dụng công chức: điều 38 của bộ luật này cũng quy định như
sau: bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật. Bảo đảm tính cạnh
tranh. Tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và vị trí việc làm. Ưu tiên tuyển
chọn người có tài năng, người có công với nước, người dân tộc thiểu số.
Có thể thấy rằng, tiêu chuẩn chung để tuyển chọn công chức ở Việt Nam ta là người
cán bộ vừa phải có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp vừa phải có phẩm chất chính
trị và đạo đức tốt. Nhưng để tuyển chọn được người vừa có tài vừa có đức không phải dễ
dàng, khi mà ở đất nước ta vấn nạn “con ông cháu cha”, dùng tiền mua chức mua quyền
vẫn là những vấn đề nan giải.
2.2 Thực trạng tuyển chọn công chức ở Việt Nam
Ở nước ta, hiện nay vấn đề công chức làm việc theo kiểu “sáng cắp ô đi tối cắp ô
về” đang được xã hội đặc biệt quan tâm. Tại cuộc họp lần thứ nhất của ban chỉ đạo đề án
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 11
Bài tiểu luận cuối kỳ
đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức ngày 25/1/2013, Phó thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc đã cho rằng “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng

được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp ô về, không mang lại bất cứ thứ
hiệu quả công việc nào". Như vậy, đội ngũ cán bộ hiện tại của nước ta đang có năng suất
lao động rất thấp và cắt giảm khoảng 30% số công chức mà không ảnh hưởng gì tới công
việc. Điều này thật quá bất hợp lý khi mà người dân lao động Việt Nam hàng ngày phải
làm việc và đóng tiền thuế để nuôi sống một bộ máy thừa thải với cả triệu công chức ăn
không ngồi rồi.
Cũng vì rảnh rỗi, ăn không ngồi rồi đã dẫn đến thực trạng của đội ngũ công chức
phổ biến hiện nay là hiện tượng công chức lấy cắp giờ công, thờ ơ và vô cảm với yêu cầu
và hoàn cảnh của người dân bằng những hình thức thường xuyên xảy ra là đi trễ, về sớm,
ăn sáng trong giờ làm việc, ngủ nướng trong phòng làm việc, mặc cho người dân chờ
đợi giải quyết công chuyện. Chỉ riêng một cuộc kiểm tra tại tỉnh Bình Thuận cho thấy có
ít nhất 224 công chức ăn cắp giờ làm việc (từ 30 đến 105 phút) và nơi nào cũng có cán bộ,
công chức, viên chức vi phạm giờ giấc hành chính. Công chức ăn cắp giờ nhà nước
thường rơi vào các trường hợp ăn cắp giờ nhà nước để giải quyết việc nhà, chuyện riêng,
uống cà phê, ăn sáng trong giờ làm việc và dành nhiều thời gian trò chuyện làm việc
riêng, điện thoại, chát, trong giờ làm việc

vào buổi trưa thì có hiện tượng công chức say
sưa trong buổi trưa giải lao góp phần gia tăng các vụ tai nạn giao thông.
Vậy, nguyên nhân dẫn đến một bộ phận cán bộ, công chức vô dụng là do đâu? Phải
chăng ngay từ khâu tuyển dụng cán bộ công chức đã không thực hiện đúng như tiêu
chuẩn, nguyên tắc đã đề ra. Tiêu chuẩn tuyển chọn công chức phải là người có tài, có đức
nhưng đứng trước thực tế là vấn nạn “con ông cháu cha” đang là một vấn đề nhức nhối
trong xã hội Việt Nam ngày nay thì những tiêu chuẩn đó chì có thể đặt ra mà chẳng thể
thực hiện được. Trước đây khi chưa có thi tuyển, các cán bộ công chức được tuyển vào
chủ yếu là con em trong ngành. Bố mẹ đang và đã làm trong ngành nào thì khi về hưu con
sẽ được thế chỗ mà không cần quan tâm trình độ, năng lực có phù hợp với chuyên môn
hay không. Cứ tuyển dụng sau đó cơ quan sẽ cử đi học để hợp thức hóa sau, đó là lý do
mà thời gian trước đây chúng ta không thấy nhưng thông tin tuyển dụng công chức công
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 12

Bài tiểu luận cuối kỳ
khai và rộng rãi, mỗi ngành, mỗi cơ quan tự xem xét tuyển chọn cán bộ công chức cho cơ
quan mình. Thời gian gần đây, một số cơ quan nhà nước đã tổ chức thi tuyển rộng rãi,
công khai trên cả nước ở nhiều cụm thi khác tạo điều kiện cho nhiều người đăng ký dự thi
hơn. Nhưng vấn nạn “con ông cháu cha” thì vẫn tràn lan, nó giống như một tư tưởng cố
hữu từ lâu đời của người dân Việt Nam. Nguyên tắc tuyển dụng được quy định trong Luật
cán bộ, công chức là phải bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, đúng pháp luật,
bảo đảm tính cạnh tranh đồng thời phải tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
và vị trí việc làm. Nhưng khi tổ chức thi tuyển thì tràn lan các thông tin nào là các vị trí đã
được sắp xếp hết cho con ông cháu cha, nào là lộ đề thi trước, mà không lộ đề thì giám sát
thi cử quá lỏng lẻo, các thí sinh dự thi đua nhau sử dụng “phao”…, vậy thử hỏi công bằng
cho những người dày công học tập ở đâu? Minh bạch ở đâu? Hay chỉ tạo ra hàng loạt các
công chức vô dụng, không biết gì về chuyên môn và các cán bộ công chức ít ỏi còn lại có
năng lực và chuyên môn thực sự nhưng không phải là con ông cháu cha thì lại bị lãnh đạo
đối xử không công bằng giữa các nhân viên, không ưu tiên sử dụng những người thực sự
có tài năng, điều này làm họ ngao ngán và hệ quả là hiện tượng chảy máu chất xám, đánh
mất người tài.
Cùng với vấn nạn “con ông cháu cha” thì vấn nạn “chạy chức chạy quyền” đang
phản ánh những tiêu cực trong công tác tuyển chọn công chức ở nước ta. Để có một suất
công chức, phải bỏ rất nhiều tiền để "chạy". Chúng ta vẫn thường nghe đâu đó những câu:
“chạy suất này vài chục triệu, suất kia trăm triệu hay vài trăm triệu”. Chạy chức dẫn đến
tham nhũng, bộ máy công quyền bị tha hoá vì nạn mua, bán chức, không thể thực hiện
chức năng phục vụ nhân dân. Một phần nguyên nhân dẫn đến vấn nạn tham nhũng là chế
đô tiền lương chưa được hợp lý. Ở xã hội Việt Nam, 98% công chức không thể trang trải
đủ các chi tiêu trong cuộc sống bằng lương. Lương thấp các cấp lãnh đạo, sách nhiễu
người dân, khuyến khích mở đường cho “chạy chức”. Với cơ chế “chạy chức” này, không
ít người xứng đáng thị bị gạt ra ngoài, kẻ kém cỏi chiếm vị trí quan trọng trong bộ máy.
Thế hệ trẻ có suy nghĩ lệch lạc lo rèn luyện tài, đức thì ít, mà lo mua bằng, mua chức thì
nhiều, chính nay làm cho thế hệ trẻ “chạy theo đồng tiền” bằng mọi cách thức không
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 13

Bài tiểu luận cuối kỳ
màng đến nhân cách, đạo đức. Vậy còn đâu những người có tài, có đức để xây dựng đất
nước?
Ngoài hai vấn nạn nêu trên việc tuyển chọn công chức ở Việt Nam hiện nay còn
những bất cập khác như: Đề thi tuyển công chức chưa hợp lý, còn sử dụng chung cho
nhiều ngành, lĩnh vực, vị trí việc làm khác nhau… dẫn đến tình trạng nội dung thi tuyển
không liên quan đến công việc nên không chọn đúng người phù hợp với chuyên môn
công việc chưa kể hiện tại đề thi tuyển công chức ở Việt Nam có xu hướng khuyến khích
thí sinh học thuộc lòng và nhớ kiến thức một cách máy móc thay vì hiểu và sử dụng kiến
thức một cách sáng tạo. Việc công khai thông tin tuyển dụng chưa được thực hiện một
cách hoàn chỉnh, thông tin tuyển dụng chỉ có một số ít người biết nên những người có mối
quan hệ quen biết sẽ được ưu tiên. Người làm công tác tuyển dụng lại là người hạn chế
về trình độ chuyên môn và khả năng tuyển chọn người tài,….
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 14
Bài tiểu luận cuối kỳ
CHƯƠNG III: Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT CHÍNH DANH ĐỐI VỚI
VIỆC TUYỂN CHỌN CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM.
3.1 “Chính danh cán bộ, công chức” và ý nghĩa của thuyết chính danh trong
tuyển chọn cán bộ, công chức.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới vấn đề đạo đức, nhất là đạo
đức của người cách mạng. Trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, Người khẳng định: đạo đức
là cái gốc của người cách mạng. Người công chức, đạo đức là cầu nối giữa Nhà nước và
nhân dân, ngoài năng lực, người công chức phải thực sự là những người có tư cách đạo
đức tốt. Bởi lẽ, như Bác nói, “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức.
Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Tư cách
đạo đức của mỗi công chức đều có tác động mạnh mẽ đến người dân. Nếu không có đạo
đức tốt, người công chức sẽ trở thành tấm gương xấu có thể gây mất lòng tin và giảm hiệu
quả hoạt động của cả bộ máy hành chính.
Trong công tác tuyển chọn và giáo dục Cán bộ, công chức Hồ Chí Minh coi trọng
cả tài và đức. Người đặc biệt coi trọng việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho

đội ngũ cán bộ, công chức, bởi theo Người đạo đức là cái “gốc” của con người, đức là cái
gốc là rất quan trọng. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, “cần, kiệm, liêm, chính” là phẩm
chất đạo đức cơ bản nhất của con người mà đói với cán bộ, công chức thì càng quan
trọng. Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính”, Bác coi đó là bốn đức tính không thể
thiếu, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương, Bác viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”.
Theo Hồ Chí Minh, để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân và Tổ Quốc ngày càng
tốt hơn thì cán bộ, công chức bây giờ cần có bốn đức tính là cần, kiệm, liêm, chính”. Và
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 15
Bài tiểu luận cuối kỳ
nhấn mạnh, “những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không
giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”.
Chữ “cần” tức là làm đủ số thời gian Nhà Nước quy định. Đồng thời, “cần” cũng có
nghĩa là công việc của ngày nào phải làm xong trong ngày ấy. Cách nói của Bác về chữ
“cần” như vậy là rất chặt chẽ. Bởi lẽ, trên thực tế, có những công chức có mặt đủ số giờ ở
cơ quan, nhưng thời gian đó chỉ để giải quyết việc cá nhân, còn công việc cơ quan cứ lần
lữa không làm. Những công chức như thế và những công chức đi sớm về muộn, đều là
“lười biếng” như nhau. Chữ “kiệm” không chỉ có nghĩa là tiết kiệm tiền của, mà quan
trọng hơn, đó là tiết kiệm thời gian, công sức. Đồng thời, không chỉ là tiết kiệm tiền của,
thời gian, công sức của bản thân mình, mà còn là tiết kiệm tiền của, thời gian, công sức
của người khác. Đối với công chức, công vụ, việc đáng một người làm cũng xong nhưng
lại dây dưa hai, ba người mới giải quyết được, đó là xa xỉ, không tiết kiệm. Giải quyết
công việc chậm trễ, công việc đáng giải quyết trong một giờ, một ngày mà kéo dài ra hai
ba giờ, hai ba ngày, khiến dân phải đi lại nhiều lần, hao tổn thời gian và sức lực, đó cũng
là không tiết kiệm. Chữ “liêm” là người công chức phải thực sự rũ bỏ lòng tham, không

chỉ đối với tiền bạc vật chất mà cả với những danh vọng, địa vị, chức tước. Những tiền tài
và danh vọng đó có sức quyến rũ vô cùng mạnh mẽ. Nằm trong bộ máy nhà nước, nắm
trong tay quyền lực, người công chức rất dễ bị những cám dỗ đó lôi kéo. Và khi quyền lực
kết hợp với lòng tham, thì từ người công chức bỗng trở thành con mọt đục khoét của
công, hay trở thành ông quan cách mạng, chỉ là trong gang tấc. Do đó, đối với người công
chức, thực hiện chữ Liêm là vô cùng cần thiết, mặc dù rất khó khăn. Nhưng dù khó khăn
đến mấy, cũng phải “lấy Liêm làm đầu”.
Về chữ “chính”, Bác nói rất cụ thể. Bác dặn người công chức: “mình là người
làm việc cần phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem
người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công minh, chính trực, không nên vì tư ân, tư
huệ hay tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng,
làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn mà bổ họ vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất
lòng mà dìm những kẻ có tài hơn mình”.
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 16
Bài tiểu luận cuối kỳ
Theo Bác, Chính còn có nghĩa là “ngay thẳng, là đúng đắn, chính trực. Đối với
mình không tự cao tự đại. Đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa
lọc; luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để công lên trên lên
trước việc tư. Việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng phải tránh”.
Đó là những điều Bác đã nói rất rõ về chữ Chính và dường như nó vẫn còn
nguyên giá trị đối với bộ máy hành chính và đội ngũ công chức. Hiện nay, những biểu
hiện tiêu cực vẫn đang còn tồn tại trong nền công vụ và đội ngũ công chức. Đó là: dùng
người thì đưa “con ông cháu cha” vào bộ máy, những người tài giỏi, cương trực thì bị trù
dập; một số công chức nịnh bợ luồn cúi, đi bằng đầu gối để thăng quan tiến chức; tình
trạng thấy việc ác chẳng lên tiếng, thấy việc hay cũng lặng im, vì sợ va chạm, ngại đấu
tranh, Đó là những biểu hiện lệch lạc đạo đức trong nền công vụ, đi chệch ra khỏi chữ
“Chính” theo quan điểm Hồ Chí Minh. Rèn luyện và tu dưỡng theo đúng chữ Chính của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể xoá bỏ được những vấn đề này và xây dựng đội
ngũ công chức trong sạch, ngay thẳng, một nền công vụ hiệu quả.
“Cần, kiệm, liêm, chính” có mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết với nhau.

Theo Hồ Chí Minh: “Cần và Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Cần
mà không Kiệm,“thì làm chừng nào xào chừng ấy”,… Kiệm mà không Cần thì không
tăng thêm, không phát triển được”. “Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng như chữ
Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm mới có Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”.
“Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành,
lá, hoa, quả mới hoàn toàn. Một người có Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là
người hoàn toàn”.
Như vậy, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ có nhiều nét tương đồng
với Học thuyết Chính danh của Khổng Tử. Đặc biệt thể hiện ở chữ “chính”, điều quan
trọng để Cán bộ, công chức được dân tin yêu, ủng hộ không đơn thuần vì danh nghĩa,
chức danh mà chính là ở chỗ Cán bộ, công chức phải có đạo đức, trung thực, ngay thẳng,
thực sự gương mẫu trước dân, lo trước dân, vui sau dân, hết lòng chăm lo cho cuộc sống
của dân. Đồng thời cán bộ, công chứcphải là người cương trực, phải thực sự tài giỏi thì
dân mới nể, nói dân mới nghe. Sách Luận ngữ có câu: "Danh không chính thì lời không
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 17
Bài tiểu luận cuối kỳ
thuận, lời không thuận tất việc không thành”, cán bộ, công chứckhông đủ đức, đủ tài
không tôn trọng nhân dân thì không được dân yêu quý tin tưởng, nói dân không nghe theo
từ đó đường lối, chính sách của Đảng của nhà nước cũng không thể thực hiện được.
Như vậy để tuyển dụng đúng cán bộ công chứ thì ngay từ khâu tuyển chọn công
chức phải nói không với “con ông cháu cha”, “chạy chức chạy quyền” , phải thực sự công
bằng và minh bạch để tìm được người tài giỏi cương trực thì mới có thể xây dựng được
đội ngũ công chức được dân yêu, dân tin có như vậy đất nước mới phát triển đi lên được.
Thêm vào đó, đạo đức của người cán bộ không phải tự thân nó có. Mỗi cán bộ, công
chức, viên chức phải tích cực tu dưỡng, rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức công vụ,
chắc chắn chúng ta sẽ có một đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa chuyên” theo lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như đã đề cập ở trên Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi
người phải làm đúng chức phận của mình. Vậy “Chính danh cán bộ, công chức” là người
được gọi là cán bộ, công chức phải có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn đúng với

chức phận (cái danh) của mình. Kề thừa những tư tưởng từ học thuyết chính danh và tư
tưởng về người cán bộ công chức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Luật cán bộ công chức đã
quy định rõ nghĩa vụ của cán bộ công chức như sau:
Nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân (điều 8)
1. Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia.
2. Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
4. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
Nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ (điều 9)
1. Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn được giao.
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 18
Bài tiểu luận cuối kỳ
2. Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan,
tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
3. Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị.
4. Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.
5. Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái
pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định. Trường hợp
người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành
phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời
báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài việc thực hiện quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật cán bộ, công chức thì
cán bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các

nghĩa vụ sau đây (điều 10)
1. Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
2. Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức;
3. Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng,
lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
4. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc
quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, gây phiền hà cho công dân;
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 19
Bài tiểu luận cuối kỳ
5. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức;
6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Theo những quy định của Luật cán bộ, công chức thì người cán bộ công chức phải
có những phẩm chất đạo đức sau: phải trung thành với Đảng, Nhà Nước, phải tận tụy
phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Nhà nước lên hàng đầu. Như quan điểm
của V.I. Lênin Phẩm chất đạo đức là một tiêu chuẩn quan trọng đối với cán bộ, công chức,
họ phải là người hết lòng trong công việc, vì sự nghiệp phục vụ nhà nước, là công bộc của
nhân dân, có đạo đức tốt, có tư cách đúng đắn trong thực thi công vụ. Người Cán bộ, công
chứctrước tiên phải có một lịch sử bản thân rõ ràng, có một lý lịch phản ánh rõ ràng mối
quan hệ gia đình và xã hội. Chúng ta chống lại quan niệm cũ kỹ, duy ý chí về thành phần
chủ nghĩa, nhưng như thế không có nghĩa là không xem xét đến đạo đức của con người cụ
thể biểu hiện trong quan hệ tương tác với gia đình, xã hội và trong lịch sử bản thân. Nếu
không xem xét kỹ điều đó sẽ dẫn đến việc tuyển dụng những con người thiếu tư cách và
trong thực thi công vụ họ sẽ lợi dụng chức quyền đẻ mưu cầu lợi ích cá nhân. Do đó khi
tuyển chọn công chức ta phải chú ý đến điều này đồng thời đánh giá phẩm chất thông qua
cả quá trình học tâp, rèn luyện của những người tham gia thi tuyển.

Luật cán bộ công chức cũng đã quy định rõ những người đã gọi là cán bộ, công
chức thì phải hoàn thành những nghĩa vụ nêu trên, người nào ở vị trí nào thì phải hoàn
thành nhiệm vụ đó. Đây cũng chính là tư tưởng mà Học thuyết Chính danh đã nêu ra.
Những cán bộ cấp trên có quyền chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đồng thời phải chịu trách
nhiệm nặng nề hơn còn cán bộ cấp dưới phải chấp hành nhiệm vụ được giao theo quy
định của cấp trên. Tuy nhiên, cán bộ cấp dưới không phải chấp hành một cách mù quáng
mà phải biết đúng sai mà xử sự cho hợp lý. Điều này đòi hỏi cán bộ, công chức phải có
năng lực và hơn thế nữa người cán bộ giữ chức quản lý thì năng lực càng phải giỏi hơn
nữa thì cấp dưới mới nghe theo và chấp hành.
Theo V.I.Lênin năng lực là khả năng của một người để làm một việc gì đó, để xử lý
một tình huống và để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể trong một môi trường xác định. Nói
cách khác năng lực là khả năng sử dụng các tài sản, tiềm lực của con người như kiến thức,
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 20
Bài tiểu luận cuối kỳ
kỹ năng và các phẩm chất khác để đạt được các mục tiêu cụ thể trong một điều kiện xác
định. Thông thường người ta cho rằng năng lực gồm có các thành tố là kiến thức, kỹ năng
và thái độ. Năng lực của cán bộ, công chức luôn gắn với mục đích tổng thể, với chiến
lược phát triển của tổ chức và phải gắn với lĩnh vực, điều kiện cụ thể.
Một điều quan trọng mà trong tuyển chọn công chức chúng ta cần hiểu rằng năng
lực không phải là bằng cấp, trình độ được đào tạo chính quy. Năng lực liên quan chặt chẽ
đến quá trình làm việc, phương pháp làm việc hiệu quả và khoa học công nghệ. Yêu cầu
năng lực sẽ thay đổi khi tình hình công việc và nhiệm vụ thay đổi. Bằng cấp chỉ là một
điều kiện cần, chứ không phải là thước đo hiệu quả làm việc của một công chức. Do đó,
trong việc tuyển chọn công chức ta chỉ lấy bằng cấp là một điều kiện cần, ngoài ra còn
phải đưa ra các đề thi, tiêu chuẩn khác để đánh giá năng lực mà tuyển chọn cho đúng. Tài
và đức chỉ xuất hiện ở những cá nhân biết cố gắng học tập và không ngừng rèn luyện bản
thân cho nên khi xem xét bằng cấp thì ta cũng phải có biện pháp xem xét bằng cấp đó có
chính là thực tài, do người đó cố gắng, rèn luyện mà có được hay chỉ là tấm bằng có được
bằng cách dùng tiền chạy điểm, chạy bằng.
3.2 Giải pháp tuyển chọn cán bộ, công chức

Dựa trên những phân tích về ý nghĩa của học thuyết Chính danh trong việc tuyển
chọn công chức và thực trạng tuyển chọn công chức ở nước ta hiện nay có thế đưa ra một
số giải pháp cho việc tuyển chọn cán bộ công chức ở nước ta như sau:
Minh bạch trong tuyển dụng cán bộ công chức: Hiện nay ở nước ta tuyển chọn
công chức đã không minh bạch từ thông tin tuyển dụng, công tác coi thi và cả công tác
chấm thi. Về thông tin nhiều cơ quan trong quá trình sơ tuyển đã tự đặt tiêu chuẩn, điều
kiện trái quy định như phân biệt giới tính, trường đào tạo, loại hình đào tạo, loại bằng cấp,
đăng ký chuyên môn trong phạm vi hẹp, nhằm loại các thí sinh không quen biết, để
người của mình dự thi dễ dàng trúng tuyển. Về công tác coi thi thì hiện tượng gửi gắm, lộ
đề thi, thí sinh sử dụng “phao” tràn lan. Quá trình chấm thi công chức quá nhiều thời gian
nhiều cơ quan tổ chứ thi tuyển mà cả hơn nửa năm mới biết điểm, điều này đã đặt ra một
câu hỏi lớn rằng trong thời gian đó không biết có bao nhiêu người chạy điểm,…Do đó để
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 21
Bài tiểu luận cuối kỳ
tuyển chọn được nhân tài thực sự minh bạch, công bằng trong tuyển chọn công chức là
hết sức cấp thiết. Từ những khó khăn trên nên chăng trong thi tuyển cán bộ, cần lập một
hội đồng riêng tổ chức ra đề thi, giám sát coi thi cũng như chấm điểm thi độc lập với đơn
vị có nhu cầu tuyển chọn cán bộ, công chức. Trong quá trình coi thi cũng như chấm điểm
những thí sinh, giám thị, người chấm thi phải được giám sát chặt chẽ bằng các hệ thống
camera để chống gian lận. Chúng ta cũng có thể đổi mới phương thức thi tuyển như thi
tuyển trực tuyến mà thành phố Hà Nội đã áp dụng để hạn chế gian lận trong coi thi và
chấm điểm. Riêng về thông tin tuyển dụng cần phải chấm dứt tình trạng các cơ quan tự
đưa ra tiêu chuẩn tuyển dụng mà phải đặt ra quy định cơ quan nào thiếu công chức muốn
tuyển dụng phải báo cáo đầy đủ thông tin tuyển dụng lên cấp trên, cấp trên xem xét ký
duyệt và công bố rộng rãi để thu hút nhiều nhân tài tham gia tuyển dụng. Như vậy mới có
thể minh bạch trong tuyển dụng cán bộ công chức, đồng thời có thể khách quan chọn lựa
nhân tài.
Hoàn thiện nội dung thi tuyển: Nội dung thi tuyển công chức ở nước ta vẫn còn
hạn chế trong việc đánh giá đúng thực tài của người tham gia dự tuyển. Hiện nay, theo
quy định thì các thí sinh tham gia năm lần thi: Thi ngoại ngữ, thi tin học, thi viết kiến thức

chung, thi viết kiến thức chuyên ngành, thi trắc nghiệm kiến thức chuyên ngành. Trong đó
khó khăn nhất trong việc ra đề để đánh giá đúng thực tài đối với thí sinh là môn kiến thức
chuyên ngành. Do đó: Để đánh giá đúng thực tài theo vị trí việc làm thì mỗi vị trí việc
làm phải gắn với đề thi riêng biệt. Nội dung đề thi phải đánh giá được hết năng lực, phẩm
chất của người dự tuyển so với tiêu chuẩn của vị trí đó. Vì vậy, trước hết cần phải xây
dựng tiêu chuẩn chức danh theo vị trí việc làm. Đồng thời, để có đề thi đánh giá đúng
năng lực của người thi tuyển thi người ra đề phải là người am hiểu ngành, lĩnh vực, am
hiểu về vị trí việc làm cần tuyển và phải giữ được tính bảo mật của đề thi nên chúng ta
phải biệt lựa chọn đồng thời phải có các chương trình đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ cán
bộ này. Mỗi lần thi, nếu thực hiện ra đề thi theo vị trí việc làm thì số đề thi rất là lớn, cần
phải huy động một lực lượng ra đề đông đảo nên sẽ khó khăn trong khâu tổ chức và bảo
mật nên phải được giám sát chặt chẽ và nhờ đến các lực lượng an ninh.
HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 22
Bài tiểu luận cuối kỳ
Đa dạng các hình thức tuyển dụng: Thi tuyển công chức chỉ mới thực hiện thông qua
hình thức thi viết và trắc nghiệm như thế sẽ không thể đánh giá hết được phẩm chất đạo
đức cũng như năng lực của người được tuyển dụng. Qua kinh nghiệm của các nước có thể
thấy để đánh giá đầy đủ năng lực của thí sinh dự thi, các cơ quan phải tổ chức thành nhiều
vòng thi, qua nhiều khâu từ sơ loại thông qua thi viết hoặc phỏng vấn đến vòng thi trắc
nghiệm tâm lý và phỏng vấn sâu,….Một số công cụ trong đánh giá tuyển dụng như kỹ
thuật phỏng vấn, phương pháp phỏng vấn, các câu hỏi hành vi,…
Ngoài ra, để thu hút nhiều nhân tài tham gia thi tuyển chọn công chức ta phải tính
giảm biên chế, đánh giá và cắt giảm những cán bộ công chức “cắp ô” không có năng lực,
khi bộ máy nhà nước giảm bớt sự cồng kềnh một cách hợp lý, lượng công chức giảm đi
thì tăng lương cho những công chức thực sự, như vậy chúng ta vừa tuyển dụng được nhân
tài lại vừa hạn chế nạn quan liêu, tham nhũng.
Như vậy, việc tuyển dụng cán bộ, công chức được thực hiện một cách bài bản hơn,
mức độ công khai, minh bạch và công bằng trong tuyển dụng cao hơn. Đặc biệt là hướng
đến xây dựng một quy trình tuyển dụng hoàn chỉnh để tuyển dụng đúng người, đúng việc,
đánh giá được năng lực người dự tuyển vào từng vị trí tuyển dụng.

HVTT:Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 23
Bài tiểu luận cuối kỳ
KẾT LUẬN:
Học thuyết Chính danh tuy ra đời đã trên 2500 năm nhưng vẫn để lại ý nghĩa lớn lao
cho nhiều nước trên thế giới, riêng ở nước ta nó đã góp phần xây dựng một xã hội Viêt
Nam ổn định, có trật tự, một quốc gia thống nhất.
Ngày nay, cả nước ta đang bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ, công chức phải cần có đủ đức,
đủ tài mời có thể gánh vác nhiệm vụ to lớn của đất nước. Tuy nhiên, trong đội ngũ cán bộ,
công chức nước ta vẫn còn những cá nhân “vô dụng”, ngoài nguyên nhân từ những thiếu
sót trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thì những bất cập ngay từ khâu tuyển chọn
công chức chính là nguyên nhân hàng đầu.
Từ những ý nghĩa của Học thuyết Chính danh ta hiểu rằng “Chính danh cán bộ” là
người cán bộ phải có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn giỏi sao cho phù
hợp với vị trí, chức danh mà mình đang mang. Chúng ta cần phải biết tiếp thu và phát
triển những tư tưởng của học thuyết chính danh để thiết lập một cơ cấu tổ chức và giám
sát chặt chẽ quá trình tuyển chọn cán bộ. Trong đó, quan trọng nhất là công khai, minh
bạch trong thi tuyển, đồng thời phải xây dựngvà hoàn thiện nội dung và các hình thức thi
tuyển cũng như là có chính sách thu hút người tài bằng cách tinh giản biên chế và tăng
lương cho những cán bộ, công chứ thực sự. Chỉ như vậy, Việt Nam mới có thể phát triển
bền vững ngay từ nền móng, để rồi “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.
HVTT: Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 24
Bài tiểu luận cuối kỳ
Tài liệu tham khảo
1.
Giáo trình triết học (dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học), NXB Lý Luận Chính Trị.
2.
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Khổng Tử, NXB Văn hoá, 1991, Tp. Hồ Chí

Minh.
3.
Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học, 1995, Tp. Hồ Chí
Minh.
4.
Hoàng Thị Bình, bài “Nhân, nhân nghĩa, nhân chính trong Luận Ngữ và Mạnh Tử”, Tạp
chí Triết học, số 8, tháng 11-2001.
5.
Nguyễn Thị Lan Minh, “ Phạm trù Lễ của Khổng Tử và ý nghĩa đối với việc giáo dục đạo
đức cho học sinh Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sỹ, Trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên lý luận chính trị.
6.
Đôi nét về Học thuyết Chính danh của Khổng Tử , Học viện Phật giáo Việt Nam.
7.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
8.
Hoàng Văn Khải, Đạo đức công vụ theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị -
Hành chính.
9.
Lê Ngân Mai, Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm tuyển chọn, đào tạo cán bộ viên chức
Nhà nước, Tạp chí Hà Nội ngàn năm, 15/12/2009.
HVTT: Nguyễn Thị Thu Thảo Trang 25

×