Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Cơ chế trách nhiệm của chính phủ và các thành viên chính phủ trong nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.46 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ HẰNG

CƠ CHẾ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ VÀ
CÁC THÀNH VIÊN CHÍNH PHỦ TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
Chuyên ngành
Mã số

: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật

: 60 38 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2007


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: những vấn đề lý luận về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và

7



các thành viên Chính phủ

1.1.

Khái niệm cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành
viên chính phủ

7

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm chính phủ

7

1.1.2. Khái niệm cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành
viên chính phủ

16

1.2.

Nội dung cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành
viên chính phủ

20

1.2.1. Cơ sở trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính
phủ

20


1.2.2. Hình thức trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính
phủ

33

1.2.3. Trình tự thủ tục xử lý trách nhiệm của Chính phủ Chính phủ
và các thành viên chính phủ

38

1.3.

43

Sự phát triển cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành
viên Chính phủ theo các Hiến pháp Việt Nam


1.3.1. Cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ
theo Hiến pháp năm 1946

43

1.3.2. Cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ
theo Hiến pháp năm 1959

48

1.3.3. Cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ

theo Hiến pháp năm 1980

51

1.3.4. Cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ
theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

56

Chương 2:

Thực trạng về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ Và các

57

thành viên Chính phủ theo Pháp luật hiện hành

2.1.

Quy định của pháp luật về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ
và các thành viên Chính phủ

57

2.1.1. Trách nhiệm của Chính phủ

60

2.1.2. Trách nhiệm của Thủ tƣớng Chính phủ


61

2.1.3. Trách nhiệm của Phó Thủ tƣớng

62

2.1.4. Trách nhiệm của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ

62

2.1.5. Trách nhiệm của Thủ trƣởng các cơ quan thuộc Chính phủ

64

Đánh giá về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành
viên chính phủ

65

2.2.1. Chƣa làm rõ trách nhiệm của tập thể chính phủ trƣớc Quốc hội;
trách nhiệm của từng thành viên chính phủ trƣớc Thủ tƣớng

65

2.2.2. Thiếu các quy định của cơ sở quy trách nhiệm đối với Chính
phủ và từng thành viên chính phủ

68

2.2.3. Thủ tục chịu trách nhiệm đối với Chính phủ và các thành viên

chính phủ không đáp ứng yêu cầu

68

2.2.4. Hình thức trách nhiệm chƣa quy định cụ thể

71

2.2.


Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của

75

Chính phủ và các thành viên CHính phủ trong nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

3.1.

Yêu cầu Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đối với việc hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và
các thành viên chính phủ

75

3.1.1. Đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam

75


3.1.2. Yêu cầu Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
với việc hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các
thành viên chính phủ

77

3.2.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của
Chính phủ và các thành viên chính phủ trong Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

80

3.2.1. Cá biệt hóa trách nhiệm của tập thể chính phủ và từng thành
viên chính phủ trƣớc Quốc hội và trƣớc Thủ tƣớng Chính phủ

80

3.2.2. Quy định rõ cơ sở trách nhiệm của Chính phủ và các thành
viên chính phủ

86

3.2.3. Quy định cụ thể các hình thức trách nhiệm đối với Chính phủ
và các thành viên chính phủ

88


3.2.4. Quy định rõ quy trình xử lý trách nhiệm đối với tập thể chính
phủ và từng thành viên chính phủ

89

KẾT LUẬN

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

94

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ cấu tổ chức quyền lực, Chính phủ luôn ở vị trí trung tâm, đƣợc
thành lập để tổ chức trên thực tế quyền lực nhà nƣớc, tiến hành hoạt động quản lý,
điều hành và đứng đầu hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc. Hoạt động của
Chính phủ liên quan đến quyền và lợi ích của dân, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng,
Nhà nƣớc và công dân. Nhân dân đánh giá chế độ, đánh giá Nhà nƣớc một phần
lớn và trực tiếp thông qua hoạt động của bộ máy hành chính mà đứng đầu là Chính
phủ.
Thực tế cho thấy, những lời kêu gọi về bản lĩnh chính trị, về tinh thần tận
tụy phục vụ nhân dân tuy rất quan trọng nhƣng chúng chƣa bao giờ thay thế một cơ
chế chịu trách nhiệm vận hành trên thực tế. Do đó, Nhà nƣớc cần phải quy định
trách nhiệm và quy trình xử lý trách nhiệm đối với các cơ quan nhà nƣớc và các
nhân viên làm việc trong bộ máy nhà nƣớc, trọng tâm là trách nhiệm của Chính
phủ và các thành viên chính phủ. Chính phủ và các thành viên chính phủ mà không

phải là một chủ thể nào khác phải chịu trách nhiệm chính về sự phát triển hay tàn
lụi của quốc gia. Một Chính phủ hoạt động tốt đƣợc sự tín nhiệm của Quốc hội/
Nghị viện và sự ủng hộ của nhân dân, ngƣợc lại Chính phủ hoạt động thiếu trách
nhiệm hoặc phạm sai lầm gây tổn hại đến lợi ích nhân dân, nhân dân sẽ thay thế
bằng một Chính phủ khác.
Các quy định về cơ chế trách nhiệm là chất liệu gắn kết và đảm bảo quá
trình hoạt động nhịp nhàng, bền vững của các bộ phận cấu thành Chính phủ và hoạt
động của Chính phủ với các cơ quan nhà nƣớc khác. Do tầm quan trọng của việc kiểm
soát quyền lực hành pháp ngay từ những năm đầu giành chính quyền trong tổ chức bộ
máy, Nhà nƣớc đã quy định trách nhiệm và cơ chế trách nhiệm của Chính phủ, các
thành viên chính phủ trong trƣờng hợp không đạt đƣợc sự tín nhiệm của Nghị viện/
Quốc hội và nhân dân. Hiến pháp năm 1946 quy định, Nghị viện với tƣ cách là cơ


quan có quyền lực cao nhất của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bỏ
phiếu tín nhiệm đối với Nội các, Bộ trƣởng, kiểm soát hoạt động của Chính phủ. Các
bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở kế
thừa các quy định của Hiến pháp năm 1946 đã có sự thay đổi nhất định với mục
đích tăng cƣờng cơ chế kiểm soát và xử lý trách nhiệm đối với tập thể chính phủ và
từng thành viên chính phủ nhằm đảm bảo quyền lực hành pháp đƣợc sử dụng hợp
pháp và có hiệu quả. Đặc biệt, những quy định trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung
năm 2001 tạo hành lang pháp lý để xử lý trách nhiệm của Chính phủ và các thành
viên chính phủ nhằm hạn chế những rủi ro trong quá trình sử dụng quyền lực nhà
nƣớc. Tuy nhiên, những quy định đó chƣa đồng bộ, còn nhiều điểm không phù
hợp, thiếu tính thực tế, nhất là thiếu các quy định về thủ tục pháp lý làm cơ sở để
xử lý trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ. Cụ thể, Chính phủ,
Thủ tƣớng Chính phủ chịu trách nhiệm trƣớc ai, nhƣ thế nào, theo cơ chế nào, cũng
nhƣ trình tự, thủ tục xử lý chƣa đƣợc quy định rõ. Bên cạnh đó, trách nhiệm của
Phó Thủ tƣớng, các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ, Thủ trƣởng các cơ
quan thuộc Chính phủ trƣớc Thủ tƣớng Chính phủ hiện nay vẫn chƣa đƣợc cụ thể

hóa, có nhiều điểm không phù hợp khiến việc áp dụng khó khăn, nhiều khi không
đảm bảo xử lý đúng ngƣời đúng trách nhiệm.
Hiện nay, nƣớc ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân với đòi hỏi nghiêm khắc nâng cao chất
lƣợng quy trình xử lý trách nhiệm đối với tập thể chính phủ và cá nhân từng thành
viên chính phủ đảm bảo Chính phủ và các thành viên chính phủ phải nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật, bị xử lý nghiêm khắc khi không sử dụng quyền lực nhà nƣớc
đúng mục đích thì việc nghiên cứu một cách có hệ thống góp phần hoàn thiện pháp
luật về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ là yêu cầu
tất yếu.
Chính phủ là một chế định quan trọng trong hệ thống các cơ quan nhà
nƣớc, đã đƣợc các nhà khoa học xã hội xem xét nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác


nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cơ sở, hình thức, trình tự, thủ tục cũng nhƣ chế
tài trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ trong lĩnh vực hành
pháp còn nhiều khoảng trống đòi hỏi xem xét một cách sâu sắc và có hệ thống dƣới
góc độ khoa học Luật Hiến pháp.
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận
cũng nhƣ thực tiễn để đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế trách nhiệm
của Chính phủ và các thành viên chính phủ trong Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta
hiện nay là vấn đề cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm và cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính
phủ đƣợc đề cập trong các nghị quyết của Đảng và văn kiện của Nhà nƣớc. Trong
những năm gần đây đã có một số đề tài khoa học và sách báo ở dạng chung nhất về
trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ đƣợc công bố, tiêu biểu
nhƣ tác phẩm: "Chính phủ trong cơ chế quản lý nhà nước Việt Nam - quá trình xây
dựng, phát triển và những vấn đề cần tiếp tục đổi mới"; "Đổi mới, hoàn thiện bộ
máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay" của PGS.TS.Bùi Xuân Đức; hay PGS.TS

Nguyễn Đăng Dung viết về đề tài này thông qua hai tác phẩm: "Sự hạn chế quyền
lực nhà nước"; và "Nhà nước và trách nhiệm Nhà nước"; bài "Trách nhiệm Nhà
nước" của TS. Nguyễn Minh Đoan; "Trách nhiệm Hiến pháp" và "Chính phủ: cai
trị dân và kiểm soát mình" của ThS. Bùi Ngọc Sơn; Tháng 4 năm 2007, Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học về "Chính phủ trong Nhà
nước pháp quyền"…. Các nghiên cứu trên thƣờng chỉ tiếp cận dƣới góc độ chế
định Chính phủ nói chung, chƣa giải quyết một cách triệt để có tính hệ thống về cơ
chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu trong và ngoài
nƣớc, căn cứ vào thực tiễn và yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống


các quy định của pháp luật về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên
chính phủ nhằm hoàn thiện pháp luật làm cơ sở để kiểm soát và xử lý nghiêm trách
nhiệm của tập thể chính phủ và cá nhân các thành viên chính phủ, góp phần làm
trong sạch bộ máy hành pháp, nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ nhu cầu xã
hội nhằm dân chủ hóa đời sống, làm thay đổi diện mạo xã hội, hƣớng tới phục vụ
con ngƣời. Trƣớc những yêu cầu đảm bảo quyền làm chủ thực sự của ngƣời dân,
đảm bảo các cơ quan nhà nƣớc, những ngƣời làm việc trong bộ máy nhà nƣớc thực
sự là công bộc của dân, luận văn phân tích những quy định của pháp luật về cơ chế
trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ để thấy những điểm còn
tồn tại, qua đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của
Chính phủ và các thành viên chính phủ trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Thực hiện mục đích trên nhiệm vụ của luận văn:
- Khái quát những vấn đề lý luận về trách nhiệm và cơ chế trách nhiệm của
Chính phủ và các thành viên chính phủ làm cơ sở để khẳng định trách nhiệm đầu
tiên và quan trọng nhất của Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng và các thành viên

khác của Chính phủ là trách nhiệm chính trị, trách nhiệm trƣớc Quốc hội, cao hơn
cả là trách nhiệm trƣớc nhân dân.
- Phân tích quy định của pháp luật về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và
các thành viên chính phủ qua các Hiến pháp Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp hiện
hành để có bức tranh tổng quát, qua đó nêu ra những điểm còn bất cập, tồn tại
trong pháp luật hiện hành về vấn đề này.
- Trên cơ sở đánh giá pháp luật về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các
thành viên chính phủ đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế trách nhiệm


của Chính phủ và các thành viên chính phủ trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài lựa chọn là vấn đề rộng lớn và phức tạp, trong phạm vi một luận văn
thạc sĩ, chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về cơ chế trách nhiệm của
Chính phủ và các thành viên chính phủ theo Hiến pháp Việt Nam đặc biệt là Hiến
pháp năm 1992 (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001) làm luận cứ để đề xuất các
giải pháp hoàn thiện cơ chế này trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng các nguyên tắc, phƣơng pháp luận của triết học Mác Lênin, phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, kết hợp
chặt chẽ quan điểm đƣờng lối của Đảng.
Luận văn sử dụng các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà
nƣớc; công trình nghiên cứu, các bài viết trên các tạp chí trong và ngoài nƣớc có
liên quan đến trách nhiệm và cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên
chính phủ làm tài liệu tham khảo.
6. Điểm mới về khoa học của luận văn
Là công trình nghiên cứu có hệ thống về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ
và các thành viên chính phủ trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Những điểm mới của luận văn:

- Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về trách nhiệm và cơ chế trách
nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ.


- Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống pháp luật về cơ chế
trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ qua các Hiến pháp Việt
Nam.
- Các kiến nghị của luận văn góp phần hoàn thiện pháp luật về cơ chế trách
nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ trong quá trình xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý kiểm soát và xử lý
trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ, góp phần đảm bảo hiệu
quả hoạt động của Chính phủ và các thành viên chính phủ. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay chúng ta đang đề cập đến trách nhiệm của Nhà nƣớc thì việc hoàn thiện
pháp luật về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ là vấn
đề mang tính thời sự.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với kết quả đạt đƣợc, hy vọng luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề về lý luận và thực tiễn cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên
chính phủ.
Những kiến nghị góp phần hoàn chỉnh khung pháp lý để xử lý trách nhiệm
đối với tập thể chính phủ và cá nhân các thành viên chính phủ nhằm xây dựng và
hoàn thiện một Chính phủ mạnh ứng phó với yêu cầu xã hội đặt ra.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và
các thành viên chính phủ.
Chương 2: Thực trạng về cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành
viên chính phủ theo pháp luật hiện hành.



Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của Chính phủ
và các thành viên chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ TRÁCH NHIỆM
CỦA CHÍNH PHỦ VÀ CÁC THÀNH VIÊN CHÍNH PHỦ

Cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ là vấn đề
quan trọng cần đƣợc nghiên cứu và nhận thức đầy đủ trong điều kiện xây dựng xã
hội dân sự và Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Mục đích của chƣơng
này đƣa ra bức tranh khái quát về cơ sở, hình thức, trình tự thủ tục xử lý trách
nhiệm đối với tập thể chính phủ và từng thành viên chính phủ.
1.1. KHÁI NIỆM CƠ CHẾ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ VÀ CÁC
THÀNH VIÊN CHÍNH PHỦ

Trách nhiệm của Chính phủ và cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các
thành viên chính phủ là một vấn đề phức tạp về phƣơng diện lý luận và thực tiễn tổ
chức quyền lực nhà nƣớc. Trong phần này đề cập hai vấn đề:
- Trách nhiệm Chính phủ;
- Khái niệm cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính
phủ.
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm Chính phủ
"Trong việc tạo dựng một Chính phủ con ngƣời quản lý con ngƣời, khó
khăn lớn nằm ở chỗ trƣớc hết phải bảo đảm Chính phủ kiểm soát đƣợc những
ngƣời phải quản lý và tiếp theo phải đảm bảo Chính phủ phải kiểm soát đƣợc chính
bản thân mình" (Madison James, 1788).
Câu nói bất hủ của Madison James, ngƣời đƣợc mệnh danh là cha đẻ của

Hiến pháp Hoa Kỳ cho mãi đến ngày nay vẫn còn mang ý nghĩa cấp bách cho mọi
quốc gia trong việc tìm ra giới hạn quyền lực nhà nƣớc, trách nhiệm của Nhà nƣớc
cũng nhƣ các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc. Về nguyên tắc, các cơ quan nhà


nƣớc phải chịu trách nhiệm trƣớc nhân dân trong phạm vi thẩm quyền quy định
trong Hiến pháp. Sự chịu trách nhiệm này tạo nên sự hạn chế quyền lực nhà nƣớc.
Nhƣng với tƣ cách là trung tâm của bộ máy nhà nƣớc quyết định đến sự phát triển
của quốc gia và có ảnh hƣởng sang các ngành quyền lực nhà nƣớc khác thì hành
pháp phải chịu trách nhiệm chính và trƣớc tiên. Hành pháp phải chịu trách nhiệm
trực tiếp không gián tiếp nhƣ các cành quyền lực khác. Quy định Chính phủ phải
chịu trách nhiệm trƣớc Quốc hội/ Nghị viện - lập pháp, cơ quan đại diện nhân dân
thực hiện chủ quyền quốc gia thuộc về mình bầu ra, tức là Chính phủ - hành pháp
cơ quan duy nhất trong toàn bộ bộ máy nhà nƣớc có trách nhiệm chính trong việc
điều hành và quản lý đất nƣớc phải chịu trách nhiệm một cách gián tiếp trƣớc nhân
dân là một thành công lớn trong lịch sử phát triển dân chủ của nhân loại. Từ chỗ
quyền lực nhà nƣớc do thiên định không bị hạn chế của nhà vua trong chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến độc tài chuyên chế, chuyển dần sang chế độ
phân quyền, rồi chuyển sang hành pháp phải chịu trách nhiệm trƣớc Nghị viện/
Quốc hội và cuối cùng là sự hạn chế quyền lực nhà nƣớc là một quá trình đấu tranh
lâu dài. Sự chịu trách nhiệm của Chính phủ là điều kiện tiên quyết của chế độ dân
chủ, tiêu điểm của hạn chế quyền lực nhà nƣớc.
Trách nhiệm đƣợc hiểu là khái niệm của ý thức đạo đức và ý thức pháp
quyền nói lên một đặc trƣng của nhân cách trong việc thực hiện nghĩa vụ do xã hội
đề ra. Nếu nghĩa vụ đặt ra cho con ngƣời vấn đề nhận thức và thực hiện những yêu
cầu của xã hội, thì vấn đề trách nhiệm là ở chỗ con ngƣời hoàn thành và hoàn
thành đến mức nào hoặc không hoàn thành những yêu cầu ấy. Trách nhiệm là sự
tƣơng xứng giữa hoạt động với nghĩa vụ, là hệ quả của tự do ý chí của con ngƣời,
là đặc trƣng cho hoạt động có ý thức của con ngƣời. Con ngƣời ngày càng nhận
thức đƣợc quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội. Khi năng lực chi phối tự

nhiên, xã hội của con ngƣời lớn lên thì trách nhiệm của con ngƣời đối với hành vi
của mình cũng lớn lên. Về mặt pháp lý, việc xem xét trách nhiệm cá nhân phải


xuất phát từ sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ: quyền càng rộng thì trách
nhiệm càng lớn.
Khái niệm trách nhiệm Chính phủ đƣợc ghi nhận chính thức ở Việt Nam
trong Hiến pháp năm 1946. Hiện nay, thuật ngữ này đƣợc sử dụng rộng rãi nhƣng
có nhiều cách hiểu khác nhau:
Theo PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung thuật ngữ trách nhiệm Chính phủ đƣợc
hiểu theo hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là sự hạn chế quyền lực nhà nƣớc. Hạn chế
quyền lực nhà nƣớc (limited Government) tức là Chính phủ phải bị hạn chế, quyền
của Chính phủ không phải là vô hạn định, mà chỉ có quyền trong một phạm vi nhất
định đƣợc quy định rõ ràng trong luật. Mục đích của sự hạn chế này là nhằm bảo
vệ quyền lợi của nhân dân, quyền con ngƣời (nhân quyền - những quyền tự nhiên
của con ngƣời). Nghĩa thứ hai, trách nhiệm Chính phủ (accountability
Government), Chính phủ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trƣớc nhân
dân, trƣớc sự phát triển hay tàn lụi của quốc gia. Tức là, Chính phủ cùng các thành
viên chính phủ trong phạm vi thẩm quyền phải có trách nhiệm thực hiện nghiêm
chỉnh các nhiệm vụ, quyền hạn đã đƣợc quy định nhằm thúc đẩy xã hội, hay chí ít
là lĩnh vực của mình phụ trách đi lên, làm cho ngƣời dân đƣợc hƣởng lợi. Nếu nhƣ
ở nghĩa thứ nhất trách nhiệm đƣợc hiểu là hạn chế/giới hạn thì ở nghĩa thứ hai
trách nhiệm đƣợc hiểu là nghĩa vụ phải gánh vác. Hạn chế quyền lực hay giới hạn
quyền lực và trách nhiệm của Chính phủ nhƣ hai mặt của tấm huân chƣơng không
thể tách rời nhau. Nếu thuật ngữ giới hạn là ở nghĩa không đƣợc làm, thì trách
nhiệm ở nghĩa ngƣợc lại phải làm, không những làm, mà còn phải làm tốt hơn.
Trong trƣờng hợp không làm tốt thì phải có nghĩa vụ rút lui, nhƣờng chỗ cho ngƣời
khác làm tốt hơn. Đây chính là trách nhiệm chính trị của Chính phủ và các thành
viên chính phủ.
Hiệu quả hoạt động của Chính phủ đƣợc bảo đảm bằng hiệu quả hoạt động

của tập thể chính phủ, của Thủ tƣớng và từng thành viên chính phủ. Do đó, nói đến


trách nhiệm của Chính phủ là nói đến trách nhiệm của các bộ phận cấu thành
Chính phủ và trách nhiệm của các thành viên chính phủ. Cụ thể, trách nhiệm của
Thủ tƣớng Chính phủ - ngƣời đứng đầu Chính phủ chịu trách nhiệm về toàn bộ
hoạt động của Chính phủ; trách nhiệm của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang
bộ là ngƣời đứng đầu lãnh đạo một Bộ, cơ quan ngang bộ, phụ trách một số công
tác của Chính phủ; chịu trách nhiệm quản lý về ngành, lĩnh vực mình phụ trách
trong phạm vi cả nƣớc.
Trách nhiệm của Chính phủ còn đƣợc một số tác giả định nghĩa là trách
nhiệm giải trình (accountability). Hiến pháp quy định nghĩa vụ của Thủ tƣớng, Bộ
trƣởng và các thành viên chính phủ phải báo cáo và trả lời chất vấn của đại biểu
Quốc hội và nhân dân về hoạt động của họ và quyền của công dân thông qua đại
biểu Quốc hội đƣợc hành động chống lại các quan chức có hành vi mà công dân
coi là không chuẩn mực - là một yếu tố thiết yếu của dân chủ. Điều 98 Hiến pháp
năm 1992 quy định:
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ
trƣởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Ngƣời bị chất vấn phải trả lời trƣớc Quốc hội tại kỳ họp; trong
trƣờng hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trƣớc
Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho
trả lời bằng văn bản.
Điều 20 khoản 10 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định: Thủ tƣớng
Chính phủ thực hiện chế độ báo cáo trƣớc nhân dân về những vấn đề quan trọng
thông qua những báo cáo của Chính phủ trƣớc Quốc hội, trả lời của Chính phủ đối
với chất vấn của đại biểu Quốc hội, phát biểu của Thủ tƣớng với cơ quan thông tin
đại chúng.
TS. Nguyễn Minh Đoan xem xét trách nhiệm Chính phủ dƣới các góc độ
khác nhau:



- Dƣới góc độ đạo đức chính trị, trách nhiệm Chính phủ là bổn phận, vai
trò, nghĩa vụ chính trị của Chính phủ đối với xã hội. Chính phủ phải chịu trách
nhiệm trƣớc nhân dân, trƣớc xã hội, bởi Chính phủ xuất hiện từ xã hội, do nhu cầu
điều chỉnh, quản lý xã hội giữ cho xã hội ổn định và phát triển. Do ý thức về vị trí,
vai trò của mình đối với xã hội, Chính phủ cần tiến hành những hoạt động tích cực
nhất định đem lại lợi ích chung cho nhân dân để đáp lại lòng mong mỏi của nhân
dân.
Chính phủ thông qua vai trò đặc biệt của các Bộ trƣởng thay mặt nhân dân,
thay mặt xã hội đề ra cơ chế, chính sách liên quan đến sự ổn định và phát triển của
toàn ngành, toàn xã hội ở tầm vĩ mô. Sau đó, Chính phủ phải tổ chức thực hiện chủ
trƣơng, chính sách trong thực tiễn. Nếu cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp với
quy luật, với lòng ngƣời sẽ tạo điều kiện đƣa đất nƣớc phát triển, ngƣợc lại cơ chế,
chính sách không đúng sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, đƣa xã hội phát triển
không đúng hƣớng, không đúng quy luật, gây thiệt hại lớn cho nhân dân và xã
hội... Trong những trƣờng hợp Chính phủ không thực hiện tốt trách nhiệm của
mình, nhân dân sẽ thay thế bằng một Chính phủ khác.
- Dƣới góc độ pháp lý, trách nhiệm Chính phủ đƣợc xem xét dƣới hai khía
cạnh khác nhau:
+ Ở khía cạnh thứ nhất, trách nhiệm Chính phủ đƣợc hiểu là nghĩa vụ pháp
lý của Chính phủ. Khác với công dân đƣợc làm tất cả những gì luật không cấm,
Chính phủ và các thành viên chính phủ chỉ đƣợc làm những gì luật cho phép. Pháp
luật giới hạn phạm vi hoạt động nhằm ràng buộc trách nhiệm của Chính phủ tránh
hiện tƣợng lạm quyền trong khi thực thi quyền lực.
Hiến pháp quy định Chính phủ phải thực hiện một số hoạt động nhất định
nhằm duy trì đời sống, thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển. Chính phủ thống
nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nƣớc; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nƣớc



từ trung ƣơng đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp
luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân
(Điều 109 Hiến pháp năm 1992). Đồng thời, Chính phủ và các thành viên chính
phủ không đƣợc thực hiện những hoạt động nhất định. Theo quy định tại Điều 8
Hiến pháp năm 1992: Các cơ quan nhà nƣớc, cán bộ, viên chức nhà nƣớc phải tôn
trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe
ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng.
Trách nhiệm Chính phủ còn đƣợc hiểu là nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ. Chính phủ không mặc nhiên có đƣợc quyền lực, mà đƣợc nhân dân gián tiếp
trao cho Chính phủ thông qua Quốc hội. Để quyền lực sử dụng đúng mục đích
tránh lạm quyền việc trao quyền phải thông qua Hiến pháp làm cơ sở đảm bảo
nhân dân kiểm soát đƣợc quyền lực. Quyền lực muốn sử dụng đúng, có hiệu quả,
đòi hỏi việc trao quyền không đƣợc chung chung mà phải quy định cụ thể thông
qua những nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực nhất định. Do đó, với Chính
phủ và các thành viên chính phủ thì nhiệm vụ, quyền hạn cũng đồng thời là trách
nhiệm/nghĩa vụ phải thực hiện. Khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định
Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn: Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp
luật trong các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và
công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp
luật trong nhân dân. Đây vừa là nhiệm vụ, quyền hạn, đồng thời đặt ra trách nhiệm
của Chính phủ trong phạm vi quyền hạn đƣợc trao chủ động tiến hành các hoạt
động cần thiết nhằm thể chế hóa Hiến pháp, pháp luật vào đời sống thực tiễn. Qua
đó đảm bảo việc chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật trong các tầng
lớp nhân dân.
- Ở khía cạnh thứ hai, trách nhiệm của Chính phủ đƣợc hiểu là hậu quả
pháp lý bất lợi Chính phủ và các thành viên chính phủ phải gánh chịu khi vi phạm



pháp luật hoặc thực hiện những hành vi gây thiệt hại cho Nhà nƣớc, cho nhân dân
trong khi thi hành công vụ. Đây đƣợc xem là sự phản ứng, lên án của nhà nƣớc và
xã hội buộc Chính phủ và các thành viên chính phủ phải bồi thƣờng đối với những
thiệt hại mà ngƣời dân phải chịu do những quyết định sai trái của Chính phủ hay
của các thành viên chính phủ. Chẳng hạn, quy định mỗi ngƣời chỉ đƣợc phép đăng
ký một xe môtô hoặc xe gắn máy rõ ràng là vi hiến. Khi đƣa ra thảo luận ngƣời dân
đã không đồng tình nhƣng vẫn đƣợc ban hành, sau đó Bộ Công an đã ra Thông tƣ
số 17 bãi bỏ quy định: "Mỗi ngƣời chỉ đƣợc đăng ký một xe môtô hoặc xe gắn
máy, đồng thời trong hồ sơ xin đăng ký xe không phải thêm bản photo giấy chứng
nhận bảo hiểm..." là một quyết định phù hợp với quy luật và lòng ngƣời đƣợc nhân
dân đồng tình ủng hộ. Rõ ràng, đây là việc làm sai trái, quyết định ban hành ảnh
hƣởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân, cần áp dụng trách nhiệm trong trƣờng
hợp này.
Tóm lại, trách nhiệm Chính phủ đƣợc hiểu dƣới nhiều góc độ, nhiều khía
cạnh khác nhau phụ thuộc vào mục đích chính trị và yêu cầu của việc nghiên cứu.
Trách nhiệm của Chính phủ đƣợc đề cập ở đây là trách nhiệm chính trị, trách
nhiệm mang nghĩa tiêu cực: Chính phủ và các thành viên chính phủ phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình trƣớc nhân dân, trƣớc sự phát triển hay tàn lụi của quốc
gia. Trƣờng hợp Chính phủ không cải thiện đời sống của những ngƣời dân thì
ngƣời dân có quyền thay đổi bộ máy nhà nƣớc - Chính phủ khác để phục vụ họ tốt
hơn.
* Quy định về trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ là
yêu cầu khách quan, bắt buộc trong pháp luật của mỗi nhà nước.
Điều này xuất phát từ vị trí, vai trò trung tâm của Chính phủ trong bộ máy
nhà nƣớc. Chính phủ - hành pháp là nơi khơi dậy, phát động mọi nhân lực, vật lực
của xã hội, là khâu có tính chất quyết định trong toàn bộ quá trình tác động của
pháp luật vào đời sống xã hội. Hoạt động của Chính phủ có ảnh hƣởng đến các
nhánh quyền lực lập pháp và tƣ pháp. Tuy nhiên, hoạt động hành pháp cũng chứa



đựng nhiều yếu tố rủi ro, những trục trặc, sự cố trong việc thực hiện quyền lực nhà
nƣớc đa phần là ở khâu này. Sự nới lỏng về quản lý, cũng nhƣ việc tập trung quyền
lực vào một cơ quan, một cá nhân mà không có cơ chế kiểm soát, xử lý tạo điều
kiện cho những sai phạm có cơ hội nảy sinh và càng trở nên nghiêm trọng. Ngƣợc
lại, nếu có cơ chế xử lý nghiêm sẽ kiểm soát và xử lý trách nhiệm đối với Chính
phủ và các thành viên chính phủ, qua đó không chỉ thiết lập trật tự kỷ cƣơng trong
hoạt động chính trị, đem lại công bằng mà còn có tác dụng răn đe, nhắc nhở buộc
Chính phủ và các thành viên chính phủ phải thận trọng, có trách nhiệm trong hoạt
động của mình. Qua đó, tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển thông qua sự phát
triển nối tiếp của các chính sách đúng đắn.
Quy định về trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên chính phủ nhằm
chống lại sự lạm dụng quyền lực nhà nƣớc, sự tùy tiện của Chính phủ thông qua
hành vi của các thành viên chính phủ thay mặt Chính phủ đảm trách các công việc
thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Bởi, con ngƣời bên cạnh
những đức tính sáng tạo, chăm chỉ còn chứa đựng cả những tính lƣời nhác, tùy
tiện, tính tham lam, tính ỷ lại, tính dựa dẫm vào ngƣời khác, nhất là tính cách đam
mê quyền lực. Khi có quyền lực trong tay, con ngƣời có thể đạt đƣợc nhiều thứ
quyền lợi khác nhƣ: của cải, danh vọng, quyền sai khiến ngƣời khác. Do vậy, họ
tìm mọi cách để có đƣợc quyền lực, khi đã có thì tìm mọi cách để giữ cho đƣợc
quyền lực. Bởi vậy, khi một ngƣời đƣợc giao quyền lực nhà nƣớc nếu nhƣ không
có những biện pháp kiểm tra, giám sát sẽ tạo điều kiện cho việc lạm quyền, là
nguyên nhân gây nên những hậu quả cho nhà nƣớc. Hoạt động của Chính phủ là
một hoạt động phức tạp, nhiều vấn đề, phạm vi rộng, thƣờng phải do nhiều ngƣời
đảm nhiệm, nên nếu không có sự phân công rõ ràng thì rất rơi vào tình trạng ỷ lại
lẫn nhau, theo kiểu "cha chung không ai khóc". Trong hoạt động của lĩnh vực
công, càng tập trung bao nhiêu và càng làm việc tập thể với nguyên tắc đa số để
ban hành quyết định bao nhiêu, thì lại càng tạo ra cơ sở nhiều hơn cho sự ỷ lại và
không chịu trách nhiệm cá nhân bấy nhiêu [21, tr. 33].



Con ngƣời hoàn toàn có thể mắc sai lầm, dù đó là cá nhân hay tập thể, bất luận họ
đã đƣợc tuyển chọn chặt chẽ nhƣ thế nào; có trình độ, năng lực, phẩm chất ra sao;
ở quốc gia nào… Đã là con ngƣời thì không mấy ai thích

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC VĂN BẢN, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành
Trung hương khóa VIII (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƢỚC

3. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
4. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
5. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
6. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
7. Quốc hội (1992), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
8. Quốc hội (2001), Hiến pháp (đã được sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
9. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội, Hà Nội.
10. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
11. Quốc hội (2003), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Hà Nội.
12. Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ, Hà Nội.
13. Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng, Hà Nội.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC


14. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (2004), "Các nguyên lý của nền pháp quyền", Chương

trình Thông tin Quốc tế.
15. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2001), Giáo trình Luật Hiến pháp các nước tư
bản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Nguyễn Đăng Dung (2001), Về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 - một số
nguyên tắc/ Một số vấn đề hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
17. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2002), Tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam
theo các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 1992 sửa đổi, bổ sung năm
2001, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Nguyễn Đăng Dung (2004), Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của các
cơ quan nhà nước, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
19. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
20. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2006), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam,
Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
21. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước, Nxb Tƣ
pháp, Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Dung (2006), Góp ý vào dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ (sửa
đổi), Dân chủ và pháp luật, tháng 10 (175).
23. Nguyễn Đăng Dung (2006), "Sáng quyền lập pháp của Chính phủ và biện pháp
hạn chế Chính phủ tăng quyền hạn", Nghiên cứu lập pháp, 17(86).
24. Nguyễn Đăng Dung (2007), "Chính phủ trong một nền kinh tế thị trƣờng", Bài
tham luận tại Hội thảo khoa học: Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 4.


25. Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Thị Phƣợng (2006), "Sự cần thiết khách quan của
quyền lập quy của Chính phủ", Nghiên cứu lập pháp, 9(83).
26. Lê Sĩ Dƣợc (2000), Cải cách bộ máy hành chính cấp Trung ương trong công

cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đêviet Âuxbot, Tetghebiơ, Đổi mới hoạt động của Chính phủ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
28. Bùi Xuân Đức (2006), "Chính phủ trong cơ chế quyền lực nhà nƣớc Việt Nam quá trình xây dựng, phát triển và những vấn đề cần tiếp tục đổi mới", Luật
học, (2).
29. Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong giai đoạn
hiện nay, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước và việc tổ
chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
31. Nguyễn Ký (2006), "Về trách nhiệm cá nhân ngƣời đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nƣớc", Tạp chí Cộng sản, (9).
32. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
33. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Hoài Nam (2007), "Thủ tƣớng Chính phủ có quyền ra quyết định cảnh
cáo Bộ trƣởng không", Nghiên cứu lập pháp, 19(90).
35. Roger H. Davidson và Waer J.Oleszek (2002), Quốc hội và các thành viên, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Bùi Ngọc Sơn (2006), "Bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên chính phủ nên kế thừa
quy định của Hiến pháp năm 1946", Nghiên cứu lập pháp, (11).
37. Bùi Ngọc Sơn (2007), "Chính phủ: cai trị dân và kiểm soát mình", Bài tham
luận tại Hội thảo khoa học: Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 4.


38. Lê Minh Tâm (2005), "Bảo hiến, cơ chế bảo hiến và cơ chế bảo hiến Việt
Nam", Luật học, (4).
39. Nguyễn Phƣớc Thọ (2006), "Bƣớc đầu thực hiện điều chỉnh cơ cấu tổ chức
Chính phủ", Nghiên cứu lập pháp, 12(89).
40. Lê Minh Thông (chủ biên), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

41. Đào Trí Úc (chủ biên) (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
42. Văn phòng Quốc hội, Kỷ yếu kỳ họp thứ 10 - Quốc hội khóa XI phần chất vấn
và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, Hà Nội.
43. Viện Nghiên cứu pháp lý (2001), Chuyên đề về sửa đổi, bổ sung một số điều
Hiến pháp 1992, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
44. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
TRANG WEB

45. Thủ tướng phải được
chọn "đội hình".



×