Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.07 KB, 20 trang )

Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay


Cao Thị Sính



Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận án TS. ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 80 05
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Thúy Vinh, TS. Lưu Minh Văn
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông và xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (NNPQ XHCN) ở Việt Nam hiện
nay. Làm rõ ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng NNPQ XHCN ở
Việt Nam hiện nay trên một số phương diện cơ bản. Đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng
NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Keywords. Triết học; Chủ nghĩa duy vật biện chứng; Chủ nghĩa duy vật lịch sử;
Nhà nước pháp quyền; Tâm lý tiểu nông

Content
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới hiện nay, nhà nước đang là vấn đề được đặc biệt quan tâm, xem xét,


nghiên cứu. Những biến đổi to lớn của nền kinh tế thế giới đang đòi hỏi mọi nhà nước cần
phải nhìn lại những vấn đề căn bản về tổ chức quyền lực nhà nước, về mối quan hệ giữa
quyền lực nhà nước và xã hội, về vai trò của nhà nước trong phát triển nền kinh tế thị trường
v.v nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Xây dựng nhà nước pháp
quyền (NNPQ) được coi là giải pháp tốt để giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề cốt yếu liên
quan đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… của mọi quốc gia, dân tộc. Chính vì
vậy, xây dựng NNPQ có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội hiện
đại.
ở Việt Nam, công cuộc đổi mới đang diễn ra một cách sâu rộng, đồng bộ và toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực. Những bước tiến về đổi mới kinh tế, xây dựng và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, cũng như yêu cầu phát huy hơn nữa nền dân
chủ XHCN… đang đòi hỏi những đổi mới tương ứng về hệ thống pháp luật, chức năng,
phương thức hoạt động và quản lý của Nhà nước. Sự thay đổi to lớn về nhiều mặt của đất n-
ước ta trong những năm đổi mới vừa qua đang làm thay đổi nhanh chóng cơ sở hạ tầng của
xã hội và đòi hỏi sự thay đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng, trước hết là Nhà nước.
Vì vậy, xây dựng NNPQ XHCN trở thành một nhiệm vụ cần thiết khách quan nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nước ta hiện nay.
Mặc dù, ở nước ta đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên khảo về NNPQ,
tuy vậy, việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam -
một nhà nước chưa có tiền lệ trong lịch sử, với những đặc thù về truyền thống, văn hoá,
tâm lý dân tộc… vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài, khó khăn, phức tạp
nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, tiến bộ và văn minh.
Từ xu thế chung của thời đại và thực tiễn của đất nước ta, xây dựng NNPQ
XHCN được coi là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam hiện
nay. Nhưng, việc thực hiện nhiệm vụ này đang gặp phải những khó khăn lớn. Một trong
những khó khăn đó là sự tồn tại tâm lý tiểu nông - loại hình tâm lý xã hội nẩy sinh từ
nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu, tồn tại hàng nghìn năm, lực l-
ượng lao động chủ yếu trong xã hội là người nông dân. Nền sản xuất đó hiện vẫn chưa

được xoá bỏ hoàn toàn. Tâm lý tiểu nông vẫn đang tồn tại đậm nét, hiện diện trong các
tầng lớp dân cư, nhất là ở người nông dân nước ta. Tâm lý này, bên cạnh những mặt tích
cực, còn có những mặt tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ tới việc thiết định trong thực tế
nguyên tắc sống và làm việc theo pháp luật - một chuẩn mực của xã hội dân chủ, văn
minh, hiện đại; là một trở lực lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN ở
Việt Nam hiện nay.
Vì vậy, tìm hiểu những đặc trưng và ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây
dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam để từ đó tìm ra giải pháp nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu
cực của tâm lý tiểu nông đến việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam có ý nghĩa cả về lý
luận và thực tiễn.
Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn vấn đề: ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối
với việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay làm đề tài nghiên cứu luận án của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu có hai mảng tài liệu lớn:
1/ Những công trình nghiên cứu về tâm lý tiểu nông Việt Nam.
2/ Những công trình nghiên cứu liên quan đến xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN
ở Việt Nam.
Sau đây, chúng tôi khảo sát riêng từng mảng tài liệu trên.
Một là, những công trình nghiên cứu về tâm lý tiểu nông Việt Nam.
ở nước ngoài, trong các công trình nghiên cứu của mình, nhiều học giả đã đề cập đến
vấn đề tâm lý tiểu nông. Đó là những tác giả tiêu biểu như: Pierre Gorou với “Người nông
dân châu thổ Bắc kỳ”,(1936), tái bản năm 2003; Gerald C.Hickey với “Nghiên cứu một cộng
đồng thôn xã Việt Nam - Xã hội học”; Jams B. Hendry với “Cuộc nghiên cứu một cộng đồng
thôn xã Việt Nam - phần hoạt động kinh tế ”; Lloyd Woodruff với “Nghiên cứu một cộng
đồng thôn xã Việt Nam - phần hoạt động hành chính ”v.v
ở trong nước, trước cách mạng tháng Tám đã có nhiều công trình nghiên cứu về nông
dân, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam của các tác giả như: Đào Duy Anh, Phan Kế Bính,
Nguyễn Văn Huyên…Từ sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là sau năm 1954 có các công
trình tiêu biểu như: “Tìm hiểu tính cách dân tộc” của Nguyễn Hồng Phong, “Nông thôn Việt

Nam trong lịch sử”, tập I, II (1977, 1978); “Nông dân Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội”
(1979) Từ thời kỳ đất nước đổi mới đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Các công trình tiêu biểu đó là:
Về sách có các công trình tiêu biểu là: “Những hạn chế trong tâm lý nông dân” của
Đỗ Long và “ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với cán bộ công chức hiện nay”
của Vũ Dũng (Trong sách Tâm lý người Việt Nam đi vào CNH, HĐH - những điều cần khắc
phục do Phạm Minh Hạc chủ biên, 2004); ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với
cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước” của tập thể tác giả do Lê Hữu Xanh chủ
biên (2005). Có thể nói đây là các công trình đã cung cấp nhiều tư liệu quan trọng cho luận
án.
Về các bài viết đăng trên các tạp chí, tiêu biểu là các công trình sau: “Thử bàn về
tâm lý nông dân Việt” của Vũ Ngọc Khánh, Tạp chí Tâm lý học, số 7/2004; “Tâm lý của ng-
ười nông dân Việt Nam: một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực”
của Ngọc Lan, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 3 (67)/2004; “Một số đặc điểm tâm lý của người
nông dân Việt Nam ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hội nhập kinh tế” của Nguyễn Hồi
Loan, Tạp chí Tâm lý học, số 7 (76)/2005…
Các luận văn thạc sỹ, luận án phó tiến sĩ, tiến sĩ thuộc các chuyên ngành đã nghiên
cứu về đề tài này như: “Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong
giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sỹ Triết học của Bùi Thị Thanh Hương (2000); “Tâm lý
nông dân miền Bắc Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường - đặc trưng và xu hướng
biến đổi”, Luận án tiến sỹ Triết học của Đỗ Thị Thanh Mai (2001)
Về tâm lý làng xã, đây cũng là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Trong số đó có thể kể đến “Xã thôn Việt Nam” của Nguyễn Hồng Phong (1959); “Lệ làng
phép nước” của Bùi Xuân Đính (1985); “Tìm hiểu làng Việt” của Diệp Đình Hoa; “Nếp cũ -
làng xã Việt Nam” của Toan ánh (1992); “Làng Việt Nam, một số vấn đề kinh tế - xã hội”
của Phan Đại Doãn (1992); “Tâm lí cộng đồng làng và di sản” của Đỗ Long - Trần Hiệp
(1993); “Tác động của tâm lý làng xã trong việc xây dựng đời sống kinh tế xã hội ở nông
thôn đồng bằng Bắc bộ hiện nay” của Lê Hữu Xanh (Chủ biên), (2001)… Ngoài ra còn có
một số luận án như: “Xu hướng biến đổi của tâm lý cộng đồng làng ở Việt Nam trong giai
đoạn đổi mới”, luận án Tiến sỹ Triết học của Lê Văn Định (2000); “Lệ làng truyền thống với

việc hình thành ý thức pháp luật cho nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án Tiến sỹ
Triết học của Nguyễn Văn Long (2002)
Nhìn chung, các công trình nêu trên, từ nhiều góc độ khác nhau đã phân tích cơ sở
hình thành, đặc trưng của tâm lý nông dân, tâm lý làng xã, cũng như những điểm tích cực,
hạn chế và xu hướng biến đổi, ảnh hưởng của nó đến đời sống kinh tế xã hội ở nước ta.
Hai là, những công trình nghiên cứu liên quan đến xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
Từ khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ra đời đến nay (1991), mô hình lý luận và thực tiễn xây dựng NNPQ ở nước ta đã
có khá nhiều các công trình nghiên cứu và bước đầu thu được một số kết quả. Có thể khái
quát những thành quả nghiên cứu đó như sau:
Về sách, các bài báo được đăng tải trên các tạp chí. Đó là các công trình: Xây dựng
NNPQ Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Nguyễn Văn Niên (1996); Xây dựng
NNPQ XHCN Việt Nam do Đào Trí úc (Chủ biên, (2005); Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng
NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Trần Hậu Thành (2005); v.v
Nhìn chung, các công trình này đã đề cập đến những vấn đề như: các tiền đề tư tưởng của
NNPQ Việt Nam XHCN; những bước đi thích hợp của việc xây dựng NNPQ XHCN ở nước
ta; xây dựng NNPQ và vấn đề dân chủ, quan điểm về xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam, thực tiễn tổ chức nhà nước theo hướng NNPQ hiện nay trên
thế giới
Các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ. Đó là những công trình sau: Mối quan hệ giữa
việc xây dựng NNPQ đối với sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN, Luận án tiến sỹ
Triết học của Lê Minh Quân (1999); Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng NNPQ
Việt Nam, Luận án tiến sỹ Triết học của Đào Ngọc Tuấn (2002)
Có thể nói, vấn đề xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam đã thu hút nhiều nhà
nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau:
Dưới góc độ triết học: Đó là các tác giả như: Nguyễn Đức Bình, GS Đoàn Trọng
Tuyến; Nguyễn Duy Quý; Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Thị Thuý Vân… Các tác giả theo
hướng tiếp cận này thường dựa vào quan niệm duy vật lịch sử về nguồn gốc, bản chất, đặc
trưng và chức năng của nhà nước và mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc

thượng tầng để đưa ra các nội dung xây dựng NNPQ. Theo đó, xây dựng NNPQ XHCN ở
Việt Nam thực chất là quá trình thực hiện những nội dung cơ bản như: xây dựng cơ sở cho sự
tồn tại của NNPQ (kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội); củng cố, hoàn thiện bộ máy nhà nước
cho phù hợp với cơ sở tồn tại của nó.
Dưới góc độ luật học: Có các tác giả như: Đào Trí úc; Nguyễn Văn Niên; Trần Hậu
Thành; Phạm Hồng Thái; Hoàng Thị Kim Quế… Các công trình nghiên cứu theo hướng này
hết sức đa dạng và phong phú. Trên cơ sở nguyên lý về mối quan hệ giữa nhà nước và pháp
luật, các tác giả đã đưa ra nhiều nội dung liên quan tới việc xây dựng NNPQ XHCN ở nước
ta hiện nay như: Xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật; Thực hiện nguyên
tắc phân quyền, nguyên tắc tập trung dân chủ
Dưới góc độ chính trị học: Có các tác giả như: Phạm Ngọc Quang; Hồ Văn Thông;
Trần Ngọc Hiên Hướng nghiên cứu này đã căn cứ vào quy luật hình thành của quyền lực
chính trị, cơ sở, nội dung của chế độ dân chủ và mối quan hệ giữa quyền lực và pháp luật để
đưa ra các nội dung của việc xây dựng NNPQ như: Xây dựng thể chế chính trị dân chủ, mối quan
hệ giữa dân chủ và NNPQ, vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình xây dựng NNPQ.
Từ góc độ sử học và văn hoá học, tiêu biểu là các tác giả như: Vũ Minh Giang, Đỗ
Long,Trần Văn Giàu, Phan Huy Lê… đã góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề xây dựng
NNPQ XHCN ở Việt Nam.
Có thể nói, những năm qua, nghiên cứu vấn đề xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam
đã thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành khoa học, trong đó có triết học. Những hướng
tiếp cận, nghiên cứu trên đây đã mang lại những giá trị có ý nghĩa cho quá trình xây dựng
NNPQ ở Việt Nam.
Qua phần tổng quan trên, có thể thấy các công trình nghiên cứu ở cả hai mảng tài
liệu bàn trực tiếp đến vấn đề tâm lý tiểu nông còn chưa nhiều. Hơn nữa, nghiên cứu về
ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay thì
chưa có công trình nào đề cập tới, đặc biệt là nghiên cứu dưới góc độ triết học. Vì vậy, tôi lựa
chọn đề tài: ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam hiện nay với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu
vấn đề còn thiếu vắng này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

3.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Từ việc làm rõ những đặc trưng của tâm lý tiểu nông ở Việt Nam, luận án tập
trung phân tích ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng NNPQ XHCN ở
Việt Nam, từ đó luận án đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu cực
của tâm lý tiểu nông đối với xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận án.
Một là, hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông và xây dựng
NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, làm rõ ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng NNQP XHCN ở
Việt Nam hiện nay trên một số phương diện cơ bản.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý
tiểu nông đối với việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc
xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay dưới góc độ triết học.
Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề xây dựng NNPQ được thể hiện ở nhiều nội dung,
nhưng luận án này chỉ tập trung vào phân tích ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với
xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam trên một số phương diện cơ bản là: kinh tế - xã hội;
xây dựng ý thức pháp luật (YTPL); xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ
pháp luật và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
(mà hạt nhân là mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, sự tác động qua lại giữa các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng và sự tác động qua lại của các hình thái ý thức xã hội) của chủ nghĩa Mác -
Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực tư
tưởng, ý thức xã hội, tâm lý xã hội và NNPQ.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
cụ thể, trong đó chủ yếu là phương pháp lôgíc - lịch sử, qui nạp - diễn dịch, phân tích - tổng
hợp, so sánh,

6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án phân tích những ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng
NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay trên một số phương diện cơ bản như: kinh tế - xã hội;
xây dựng YTPL; xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật và xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
- Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm khắc khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của
tâm lý tiểu nông đối với xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần vào việc nghiên cứu tâm lý tiểu nông Việt Nam, ảnh hưởng của nó đối
với việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận án ở mức độ nhất định có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề về ý thức xã hội nói chung, tâm lý tiểu
nông nói riêng và xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo, góp thêm cơ sở cho việc hoạch định chủ
trương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước để phát huy ảnh hưởng tích cực, khắc
phục ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý nông dân góp phần xây dựng và hoàn thiện NNPQ
XHCN ở Việt Nam.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
gồm 3 chương, 11 tiết.

NỘI DUNG

Chương 1
Một số vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông và nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam
1.1. Cơ sở hình thành, tồn tại và đặc điểm cơ bản của tâm lý tiểu nông Việt Nam
Tâm lý tiểu nông là loại hình tâm lý xã hội, bao gồm các hiện tượng như tình cảm,
tâm trạng, niềm tin, ước muốn, nhu cầu, thói quen, tập quán, động cơ, thái độ, hứng thú, sở
thích, xu hướng… của tầng lớp nông dân được hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của nền

kinh tế tiểu nông; những điều kiện lao động sản xuất, sinh hoạt riêng có của nông dân, nông
nghiệp, nông thôn đã sản sinh, quyết định và chi phối thái độ, hành vi, cách ứng xử của họ.
Chủ thể của tâm lý đó là nông dân, song trên thực tế tâm lý tiểu nông không chỉ tồn tại và
biểu hiện ra ở người nông dân mà còn biểu hiện ra ở cả những người không phải là nông dân.
Tâm lý tiểu nông được hình thành, tồn tại bởi rất nhiều yếu tố, trong đó trực tiếp và
chủ yếu là nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ, manh mún, tình trạng nền sản xuất phân tán,
biệt lập, khép kín là phổ biến, đặc biệt là tình trạng kém phát triển của sự phân công lao động
xã hội.
Bên cạnh những đặc trưng tâm lý tích cực như: lòng yêu nước, đoàn kết cộng đồng,
yêu lao động, cần cù, lạc quan trong cuộc sống; trọng con người, trọng tình cảm, trọng đạo
đức, trọng danh dự , tâm lý tiểu nông Việt Nam còn có những đặc trưng tiêu cực như: thói
quen sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, bảo thủ, lối nghĩ dựa theo kinh nghiệm; hẹp hòi, vị lợi, cục
bộ địa phương; tính tuỳ tiện, kém kỷ luật, kỷ cương, trọng lệ hơn luật Đó chính là tính
lưỡng diện, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn trong tâm lý tiểu nông Việt Nam.
Từ khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi đến trước những năm đổi mới đất nước,
vị thế của người nông dân và đời sống vật chất, tinh thần của họ được thay đổi đáng kể.
Điều đó đã làm cho tâm lý của họ có những biến đổi nhất định. Công cuộc đổi mới đất
nước từ 1986 đến nay đã tạo ra những thay đổi nhanh chóng trong đời sống kinh tế - xã hội
nông thôn. Sự thay đổi ấy đang tác động, làm biến đổi dần dần những đặc điểm tâm lý truyền
thống của người nông dân và làm xuất hiện những nhân tố mới, vừa có mặt tích cực, vừa có
những biểu hiện tiêu cực, vừa phong phú, đa dạng, vừa phức tạp, đan xen. Song, những đặc điểm
tâm lý tiểu nông nêu trên vẫn còn tồn tại và tiếp tục phát triển. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên
nhân: tính bảo thủ và sức ỳ rất lớn của tâm lý tiểu nông, vẫn còn cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn
tại của tâm lý tiểu nông, cơ chế chính sách pháp luật chưa đồng bộ, việc thực thi pháp luật, thực
hiện các chính sách chưa nghiêm…
1.2. Khái niệm nhà nước pháp quyền, đặc điểm và nội dung xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam
NNPQ là nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó mọi chủ thể (kể cả nhà
nước) đều phải tuân thủ, phục tùng tuyệt đối pháp luật - một pháp luật thể hiện đầy đủ những
giá trị cao cả nhất của xã hội và con người, có sự phân công quyền lực nhằm mục đích bảo vệ

tối đa chủ quyền của nhân dân.
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay với những
đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
Thứ hai, Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ ba: Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Thứ tư: Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng bằng pháp
luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Thứ năm, Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN ở Việt Nam được xác định với những nội
dung cơ bản là: Xây dựng cơ sở, nền tảng cho sự tồn tại của NNPQ XHCN; xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật; thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật; xây dựng YTPL
cho nhân dân; cải cách bộ máy nhà nước, trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ công chức;
mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Việc xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều nhân
tố (kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá ), trong đó nhân tố con người đóng vai trò đặc biệt
quan trọng, quyết định đến việc xây dựng và thực thi NNPQ XHCN Việt Nam. Con
người Việt Nam với những đặc điểm tâm lý tiểu nông vẫn còn tồn tại đã, đang và sẽ tác động
mạnh mẽ đến việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN ở nước ta. Vì vậy, việc xây dựng
NNPQ XHCN ở nước ta đang đối diện với những tác động cả tích cực và tiêu cực từ tâm lý
tiểu nông vẫn đang tồn tại trong mỗi người Việt Nam.

Chương 2
Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam hiện nay trên một số phương diện cơ bản


2.1. Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đến kinh tế, xã hội - cơ sở, nền tảng của việc
xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam
Những ảnh hưởng tích cực của tâm lý tiểu nông đến phát triển kinh tế, xã hội thể hiện
ở các đặc điểm tâm lý như: tình yêu đất nước, đoàn kết gắn bó cộng đồng, cần cù lao động,
lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo Đó là những yếu tố tâm lý
quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội tạo nên tính tổ chức, sự ổn định, kỷ
cương của xã hội, tạo môi trường tâm lý xã hội lành mạnh Điều đó tạo cơ sở, điều kiện
thuận lợi để xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.
Tâm lý coi trọng tình cảm, lối sống trọng tình nghĩa, trọng nghĩa vụ, tôn trọng các
quy tắc cộng đồng của người nông dân nói riêng, con người Việt Nam nói chung - xét
trong mối quan hệ tương hỗ với yêu cầu tôn trọng quyền cá nhân trên cơ sở thống nhất
giữa quyền cá nhân và lợi ích cộng đồng cũng như yêu cầu tôn trọng pháp luật, đề cao
pháp luật, đề cao tư pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam - cũng có những tác động tích
cực. Xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam cần đến việc thực hiện nghĩa vụ của cá nhân như
một bảo đảm cho việc thực hiện quyền cá nhân và lợi ích chung của cộng đồng và xã hội.
Đó chính là mặt tích cực của lối sống trọng tình, trọng nghĩa vụ, tôn trọng các qui tắc
cộng đồng của người dân Việt Nam đến việc xây dựng NNPQ.
Những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với việc phát triển kinh tế, xã hội
được thể hiện ở các đặc điểm như: tâm lý bình quân chủ nghĩa, tâm lý dựa dẫm, ỷ lại, tâm lý
bám làng thiển cận, tâm lý cầu an, tâm lý cục bộ địa phương, tâm lý “phép vua thua lệ làng”,
tâm lý bảo thủ, trì trệ, không muốn đổi mới Các đặc điểm tâm lý này không khuyến khích
sự phát triển tính tích cực, năng động, sáng tạo của các cá nhân. Đó là những trở lực đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội, khi mà đất nước ta đang đòi hỏi mỗi người dân phải là những
nhân cách độc lập, có tính quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tích cực
năng động, sáng tạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong quá trình mở cửa
hội nhập và giao lưu với quốc tế.
2.2. Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đến xây dựng ý thức pháp luật trong nhân
dân
Tâm lý tiểu nông vừa tác động tích cực, vừa tác động tiêu cực đến việc xây dựng

YTPL được thể hiện chủ yếu thông qua con đường tâm lý pháp luật (truyền thống, thói quen,
tập quán, lối sống )
ảnh hưởng tích cực của tâm lý tiểu nông đối với xây dựng YTPL trong nhân dân được
thể hiện:
Một là, tâm lý tiểu nông ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng lối sống tuân thủ theo
pháp luật trong nhân dân
Truyền thống cộng đồng, đoàn kết gắn bó keo sơn, tương thân tương ái, coi trọng
nhân cách, coi trọng đạo đức, coi trọng danh dự, coi trọng lẽ phải trong tâm lý tiểu nông
Việt Nam đã ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng lối sống theo pháp luật cho người dân
trong xã hội ta hiện nay - ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cá nhân, công dân trước cộng
đồng, xã hội; ý thức chấp hành những qui định, qui ước của cộng đồng, sống theo các chuẩn
mực giá trị của cộng đồng. Lối sống kỷ cương, tôn trọng những quy định của cộng đồng phù
hợp với những chuẩn mực của pháp luật nhà nước và yêu cầu quản lý xã hội có tác động to
lớn đến việc xây dựng lối sống, thói quen tuân thủ, chấp hành pháp luật cho người dân ở
nước ta hiện nay.
Hai là, tâm lý tiểu nông ảnh hưởng tích cực tới xây dựng ý thức về dân chủ, về quyền
và nghĩa vụ của người dân.
Tinh thần trách nhiệm với cộng đồng đã hình thành ở mỗi người dân ý thức về dân chủ,
về quyền và nghĩa vụ. Tinh thần dân chủ ấy được phát huy sẽ thực sự là nhân tố tiềm năng quan
trọng để hướng người dân biết sử dụng pháp luật và thực hiện quyền làm chủ của mình trong giai
đoạn hiện nay.
Thứ ba, tâm lý tiểu nông ảnh hưởng tích cực tới xây dựng tâm lý, thói quen không vi
phạm pháp luật, ngăn cản những hành vi vi phạm pháp luật cho người dân.
Thông qua quan hệ họ hàng - làng xóm, bằng dư luận xã hội và vai trò tự quản (đây là
ý thức tự giác của người dân trong việc quản lý xã hội), người dân đã lên án, phê phán những
thói hư, tật xấu, những hành vi vi phạm pháp luật. Điều này vừa có tác dụng lớn đến việc xây
dựng tâm lý pháp luật cá nhân theo hướng tích cực, góp phần nâng cao hiểu biết, nhận thức
về pháp luật của nhân dân, vừa ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật ở mỗi
người dân.
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, tâm lý tiểu nông còn có những tác động tiêu cực

đối với việc xây dựng YTPL trong nhân dân.
Thứ nhất, tâm lý “phép vua thua lệ làng”, tính cục bộ địa phương ảnh hưởng tiêu cực
tới việc xây dựng thói quen tôn trọng pháp luật nhà nước của người dân.
Do ảnh hưởng của tâm lý “phép vua thua lệ làng”, sống theo “lệ làng” nên người dân,
nhất là người nông dân vẫn chưa có thói quen tôn trọng pháp luật, không có tình cảm, thậm
chí coi thường pháp luật của Nhà nước trong xã hội nước ta hiện nay. Tâm lý ấy làm cho họ
nhiều khi có những hành động vô chính phủ, hành vi thiếu ý thức pháp luật, thiếu tinh thần
trách nhiệm, tinh thần dân chủ.
Thứ hai, tâm lý coi trọng địa vị, ngôi thứ, tính vị lợi, cục bộ địa phương đã ảnh hưởng
tiêu cực đến việc xây dựng hành vi tuân thủ, chấp hành pháp luật của người dân.
Thứ ba, mặt trái của tâm lý coi trọng người cao tuổi đã ảnh hưởng tiêu cực đến xây
dựng ý thức dân chủ, YTPL của người dân
ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý trọng người cao tuổi biểu hiện ở tâm lý sống lâu lên
lão làng, coi trọng về tri thức kinh nghiệm, coi thường và hạn chế, ngăn cản sự sáng tạo của
lớp trẻ. Về mặt xã hội, nó góp phần làm mất dân chủ, bình đẳng giữa các thế hệ, hạn chế việc
phát huy trí tuệ, sự sáng tạo, năng động của thế hệ trẻ. Nét tâm lý này là một yếu tố ảnh hưởng
tiêu cực đến việc xây dựng ý thức về dân chủ, xây dựng YTPL của người dân Việt Nam.
Thứ tư, tâm lý sống theo lệ làng đã góp phần làm hạn chế và vi phạm quyền của người
dân, làm cho họ thiếu lòng tin vào pháp luật. Đây là một trở lực đáng kể cho việc xây dựng
một nhân cách pháp luật, YTPL của người dân.
Thứ năm, tâm lý “trọng tình hơn trọng lý” đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc xây
dựng lối sống và sự ứng xử theo pháp luật của người dân.
Do ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý “trọng tình hơn trọng lý”, mà nhiều người, nhất là
người nông dân và những người sống ở nông thôn chưa có thói quen sử dụng luật pháp để
thực hiện quyền làm chủ của mình cũng như chưa có thói quen tìm hiểu và nhận thức về pháp
luật; lối sống và sự ứng xử coi trọng tình hơn lý của người dân vẫn diễn ra ở nước ta hiện
nay.
2.3. Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đến hoạt động xây dựng pháp luật, thực
hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật (công lý của xã hội)
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, chúng ta không thể tránh khỏi

những khó khăn từ sự tác động do tính cục bộ địa phương, tính vị lợi trong tâm lý tiểu nông
vẫn còn tồn tại ở các chủ thể trực tiếp soạn thảo các văn bản luật. Vì vậy mà nội dung của những
văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình soạn thảo không thể tránh khỏi giành những ưu
quyền về phía Nhà nước, hay lợi ích cục bộ của một ngành, địa phương, đơn vị.
Khi lấy ý kiến đóng góp từ các cơ quan tổ chức có liên quan và trong các tầng lớp
nhân dân trong việc xây dựng pháp luật cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực từ tâm lý tiểu nông của
người Việt Nam. Tính cục bộ địa phương, tâm lý vị lợi, vị tình tồn tại trong họ đã dẫn tới
những ý kiến đóng góp vào các dự thảo văn bản pháp luật của những người này có xu hướng
“quan tâm, chăm lo” đến ngành, nghề của mình, đến địa phương, đơn vị của mình hơn các
ngành khác, địa phương khác; chưa thể hiện được sự kết hợp hài hoà về lợi ích giữa các cá
nhân, các tập thể và xã hội, chưa đảm bảo được tính công bằng, khách quan, thống nhất trong
xây dựng pháp luật. Mặt khác, do phần đông nhân dân ta hiện nay rơi vào tình trạng kém hiểu
biết về pháp luật, thiếu kiến thức pháp lý, vì vậy, việc người dân tham gia đóng góp ý kiến
vào dự thảo các văn bản pháp luật của nhà nước là rất hạn chế, chưa thể hiện tính tích cực,
tinh thần trách nhiệm với tư cách là chủ thể trong việc tham gia vào hoạt động xây dựng pháp
luật.
Trong NNPQ, quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân là quan hệ bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ dựa trên nguyên tắc về quyền ưu tiên của cá nhân trước công quyền; công dân có
ý thức cao về quyền cá nhân, về quyền bình đẳng với công quyền và ưu quyền của cá nhân
trước nhà nước. Nhưng Tâm lý trọng tình hơn trọng lý, trọng lệ hơn trọng luật đang khiến
cho công quyền trở nên tuỳ tiện, vô hiệu hoá các chuẩn mực của pháp luật.việc xây dựng
NNPQ XHCN ở nước ta đang gặp phải khó khăn từ sự tác động tiêu cực của tâm lý coi trọng
cộng đồng, đề cao cộng đồng, truyền thống hạn chế quyền cá nhân trước cộng đồng và xã
hội.
NNPQ là nhà nước đặt mình dưới pháp luật, chịu sự kiểm soát của pháp luật để bảo
vệ quyền con người. Đối với nước ta, việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN phải đối
diện với sự tác động của tâm lý trọng địa vị ngôi thứ của người dân. Tâm lý coi công quyền
và đội ngũ quan chức cấu thành của nó hiển nhiên có được những đặc quyền, đặc lợi vẫn còn
là tâm lý tương đối phổ biến trong nhân dân ta hiện nay, điều đó khiến cho công quyền hoạt
động vượt ra khỏi khuôn khổ của pháp luật, đứng trên dân cư để ban phát quyền lợi cho dân

cư.
Một trong những đặc trưng và yêu cầu của NNPQ là thừa nhận và tôn trọng tính tối
cao của pháp luật, xử sự theo pháp luật trong việc thực thi công quyền và trong đời sống xã
hội. Trong nhà nước ấy, pháp luật phải giữ vị trí tối thượng, là công cụ của công lý được
người dân sử dụng để bảo vệ mình, để kiểm soát nhà nước, chống lại sự lạm quyền. Thực
hiện điều này đối với việc xây dựng và thực thi NNPQ XHCN ở Việt Nam gặp khó khăn do
tác động tiêu cực từ tâm lý trọng lệ hơn trọng luật trong nhân dân. Thói quen đó đã dẫn tới
người dân đặt pháp luật ở vị trí yếu thế hơn so với lệ tục, đặt công quyền vào thế tuỳ tiện
trong thực thi quyền lực.
Việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam đòi hỏi phải đề cao vai trò xét xử của toà
án đối với những vi phạm pháp luật của cả cơ quan, quan chức nhà nước lẫn công dân. Thực
hiện nhiệm vụ này ở nước ta gặp những trở ngại, tác động tiêu cực từ tâm lý trọng tình hơn
trọng lý, chưa có thói quen sử dụng pháp luật, không thích kiện tụng, ít giải quyết bằng con
đường pháp luật, bằng con đường toà án Cách ứng xử này của người dân đã tạo ra thói quen
tuỳ tiện, vô kỷ luật, thói quen không tuân theo pháp luật, ngại sử dụng pháp luật của người
dân.
Xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN ở Việt Nam cần bảo đảm nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, có sự kiểm tra và giám sát chặt chẽ việc thực hiện
quyền lực nhà nước. Nhưng điều đó cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng mức độ này, mức độ khác từ
những mặt tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Tâm lý cục bộ địa phương, trọng lệ hơn trọng luật dẫn
tới người dân chỉ tôn trọng và tuân thủ theo những chuẩn mực của lệ tục, xa lánh pháp luật,
không chủ trương dùng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ giữa
người dân với nhà nước. Do đó, họ không chú ý, quan tâm đến việc giám sát, kiểm tra hoạt động
của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện công quyền. Quan niệm ấy ảnh hưởng không nhỏ
đến việc thực thi quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay.
2.4. Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
Những đặc điểm tâm lý tiểu nông tích cực là tiền đề, cơ sở vững chắc, là điều kiện
thuận lợi, ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng những phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán
bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên” để xây dựng NNPQ XHCN

Việt Nam hiện nay: yêu nước, yêu cơ quan, đơn vị, đoàn kết, lao động cần cù, lối sống tình
nghĩa, “tương thân tương ái”
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, tâm lý tiểu nông còn có những ảnh hưởng tiêu
cực đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhà nước.
Tư duy manh mún ở người cán bộ, công chức, về cơ bản ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động công vụ thực tiễn của họ như: quá trình định hướng hoạt động, xác định mục đích hoạt động
của cá nhân trong việc lập kế hoạch và các chương trình hoạt động cũng như trong cách giải
quyết mọi vấn đề và các tình huống nẩy sinh; cách nhìn nhận và đánh giá con người một cách hạn
chế; làm hạn chế tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của người cán bộ, công chức, đặc
biệt là những công chức giữ các vị trí quản lý, lãnh đạo.
Tâm lý coi trọng tình cảm dòng họ, trọng tình hơn lý tồn tại ở những cán bộ,
công chức nắm giữ quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp sẽ ảnh hưởng đến việc thực
hiện cán cân công lý và sự nghiêm minh của pháp luật trong xã hội.
Tâm lý cục bộ địa phương trong đội ngũ cán bộ, công chức tạo ra tính cục bộ, bè phái
trong quan hệ quyền lực, trong quản lý xã hội ở các địa phương, các cơ quan nhà nước; làm
giảm đi tính cố kết, tinh thần đoàn kết, thống nhất trong tập thể, làm tăng thêm các xung đột
mâu thuẫn trong các cơ quan và cộng đồng xã hội, giảm hiệu lực của các quan hệ pháp luật
và ảnh hưởng xấu đến tính lợi ích của tập thể và đất nước nói chung.
Tâm lý bảo thủ, thụ động, ỷ lại, yên phận tác động tiêu cực đến việc xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức với những phẩm chất như: chủ động, sáng tạo, mạnh dạn đổi mới để đáp
ứng với sự thay đổi trong cách thức tổ chức, quản lý và cải cách bộ máy nhà nước hiện nay.
Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, tâm lý bảo thủ, thụ động, ỷ lại, yên
phận là một trở ngại trong hoạt động thực tiễn của họ. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý
chịu ảnh hưởng của nét tâm lý này sẽ kém tính năng động, linh hoạt trong công việc,
làm giảm hiệu quả hoạt động của cơ quan, tập thể
Tâm lý bình quân chủ nghĩa, cào bằng, kìm hãm người tài ảnh hưởng đến nhận thức
và hành vi của cán bộ, công chức nhà nước hiện nay. Sự ảnh hưởng của tâm lý này đối với
người cán bộ thể hiện ở các khía cạnh: nhận thức và đánh giá con người; lựa chọn, đề bạt, cất
nhắc cán bộ trong cơ quan, đơn vị; phân chia lợi ích trong cơ quan, đơn vị

Đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tâm lý bình quân chủ nghĩa, cào bằng, kìm
hãm người tài sẽ không chú trọng đề bạt, cất nhấc, bố trí những cán bộ có năng lực vào các
cương vị chủ chốt. Tâm lý bình quân chủ nghĩa ở người lãnh đạo không kích thích được
những cá nhân có khả năng cố gắng vươn lên, hăng say và trách nhiệm trong công việc, vì
vậy, không tạo được sức mạnh thúc đẩy sự phát triển của tập thể.
Tính tuỳ tiện, kém kỷ luật, kỷ cương, chưa có thói quen sống và làm việc theo pháp
luật ảnh hưởng tiêu cực đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước ta thể hiện ở tác phong
làm việc không theo kế hoạch, yêu cầu và thời gian quy định; ý thức kỷ luật của công chức
chưa cao
Sự ảnh hưởng tiêu cực của nét tâm lý này trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thể
hiện ở chỗ: không chấp hành nghiêm luật pháp của Nhà nước; đề ra những yêu cầu, đòi hỏi
không hợp lý đối với cấp dưới; không khách quan, công bằng trong việc đánh giá, đề bạt, sử
dụng cán bộ

Chương 3
Một số giải pháp nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến
việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay

3.1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - cơ sở, tiền đề để khắc phục ảnh
hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông
3.1.1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sẽ tạo ra cơ sở khách
quan để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng NNPQ
XHCN ở Việt Nam trên một số điểm sau:
Nền kinh tế thị trường buộc người dân phải năng động, sáng tạo, nhạy bén trong quá
trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm. Điều này khác xa so với thói quen thụ
động, trông chờ, ỷ lại trong nền kinh tế trước đây, sẽ tạo ra tiền đề kinh tế - xã hội cho việc khắc
phục tâm lý cục bộ, địa phương chủ nghĩa cũng như tâm lý bảo thủ, khép kín của người dân. Sự
thay đổi, linh động của sản xuất dưới cơ chế thị trường làm cho những ai bảo thủ, trì trệ, luôn bám

vào cái đã có như những giá trị bất biến cũng phải thay đổi. Những biến đổi đó đã góp phần hình
thành nên điều kiện, môi trường xã hội thuận lợi cho việc phát triển tư duy khoa học, khắc phục lối
nghĩ theo kinh nghiệm, lối nhìn thiển cận ở nhân dân ta nói chung, người nông dân nói riêng.
Kinh tế thị trường cũng đòi hỏi người dân phải có khả năng tự quyết định, tự chịu
trách nhiệm, buộc họ phải tìm hiểu về những yêu cầu, qui định, tiêu chuẩn Mỗi người đều
có nhu cầu tìm hiểu về pháp luật, nâng cao kiến thức pháp luật và hành động theo pháp luật,
từ đó xây dựng cho mình một YTPL, một nhân cách pháp luật, nhân cách dân chủ. Đây là
điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế phải tuân theo yêu cầu của các qui
luật kinh tế khách quan. Điều này đòi hỏi người sản xuất, kinh doanh phải nắm bắt và tuân
thủ các qui luật đó. Và do vậy, nó sẽ giúp phá bỏ tính chủ quan, tuỳ tiện, quen làm theo kinh
nghiệm ở người dân nước ta. Trong điều kiện đó, đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo - những người thực hành công vụ và nắm giữ những
vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước càng không thể làm việc theo kinh nghiệm cũ, tuỳ
tiện, chủ quan, không tuân thủ pháp luật mà phải từng bước nâng cao trình độ văn hoá, đặc
biệt là trình độ văn hoá pháp lý, chuyên môn nghiệp vụ, loại bỏ thói quen tiêu cực, lạc hậu
trong tâm lý tiểu nông mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam.
3.1.2. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển lực
lượng sản xuất
CNH, HĐH ở nước ta sẽ từng bước xoá bỏ nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ -
nền tảng vật chất của sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của tâm lý tiểu nông và tạo ra nền
sản xuất lớn. Quá trình này, một mặt tác động trực tiếp, loại bỏ dần những biểu hiện tiêu
cực của tâm lý tiểu nông, mặt khác làm nẩy sinh, xuất hiện những nét tâm lý mới như:
tính kỷ luật cao, tác phong nhanh nhẹn, tư duy sáng tạo, năng động, nhạy bén Điều đó
sẽ tạo điều kiện thuận lợi, ảnh hưởng tích cực tới việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt
Nam.
Khi tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường như
hiện nay, những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông sẽ dần dần được khắc phục.
Việc đưa các tiến bộ khoa học, công nghệ vào trong sản xuất, công cụ thủ công được
thay thế bằng máy móc hiện đại, các thành tựu sinh học, hoá học được áp dụng một

cách phổ biến đòi hỏi mọi người phải tích cực học tập, nâng cao vốn kiến thức, phải
được trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật mới có thể làm việc cũng như mới có đủ năng
lực để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh trong sản xuất và đời sống. Điều đó sẽ
kéo theo sự thay đổi về tầm nhìn, nếp nghĩ; lối suy nghĩ theo kinh nghiệm, thiển cận,
bảo thủ, ngại đổi thay, ngại tiếp thu cái mới từng bước được loại bỏ; óc quan sát, óc phê
phán, phương pháp đánh giá nhìn nhận, giải quyết vấn đề sẽ được phát triển trên cơ sở
khoa học ở mỗi người Việt Nam nói chung, người nông dân nói riêng.
CNH, HĐH ở nước ta tất yếu sẽ dẫn tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế
có cơ cấu cơ bản là nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ hiện
đại, trong đó tốc độ phát triển và tỷ trọng công nghiệp sẽ tăng lên. Khi cơ cấu nền kinh
tế được thay đổi, trong đó công nghiệp, dịch vụ giữ vai trò chủ đạo thì đời sống kinh tế -
xã hội của đất nước cũng như ở địa bàn nông nghiệp, nông thôn có sự chuyển biến sâu
sắc, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy ảnh hưởng tích cực, khắc phục
ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tất yếu dẫn tới sự đô thị hoá nông
thôn diễn ra nhanh chóng. Nhờ đó, kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam trở nên sôi động
hơn, người nông dân cũng trở nên năng động hơn. Điều kiện sống và làm việc với
phong cách công nghiệp sẽ làm thay đổi một loạt những tập quán, thói quen lao động và
sinh hoạt cũ lạc hậu (lối sống khép kín, cách cư xử nặng tình nhẹ lý, tác phong lề mề,
chậm chạp ) của người tiểu nông Việt Nam.
Quá trình CNH, HĐH đất nước, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng sẽ
tạo ra sự biến đổi căn bản diện mạo đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam, tạo ra tiền đề
vật chất cho việc cải thiện đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân, tạo bầu không khí
tâm lý nông thôn, nông dân lành mạnh, hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại.
Đây là yếu tố quyết định hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc xây
dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.
3.2. Phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng và đẩy mạnh thực
hiện dân chủ ở nông thôn
3.2.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn
Đội ngũ đảng viên ở nông thôn bao gồm nhiều thế hệ, nhiều lớp tuổi, phần đông có

mối quan hệ họ hàng - làng xóm với nhau. Vì vậy, đảng viên ở nông thôn không thể không chịu
những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông: Tính cục bộ địa phương, dòng họ, tâm lý trọng
tình hơn trọng lý Nét tâm lý này đã ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phê và tự phê bình ở
nhiều nơi gặp khó khăn; tâm lý cả nể, né tránh “rút dây sợ động rừng”, “đóng cửa bảo nhau”, xu
hướng ngại va chạm, ngại đấu tranh trở thành miếng đất tốt cho tâm lý, tư tưởng tiêu cực nảy
sinh, ảnh hưởng xấu đến xây dựng bộ máy chính quyền cũng như hoạt động của bộ máy này ở
nông thôn nước ta.
Để khắc phục những yếu kém của tổ chức cơ sở đảng do những ảnh hưởng tiêu cực
của tâm lý tiểu nông tồn tại trong mỗi đảng viên, đòi hỏi vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng phải được phát huy. Muốn vậy, cần tập trung giải quyết những yêu cầu sau:
Một là, thường xuyên làm tốt công tác tư tưởng, bồi dưỡng đảng viên theo tiêu chuẩn
phù hợp với thực tế ở nông thôn và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng; phát huy bản chất giai cấp
công nhân của Đảng; phát huy tinh thần gương mẫu đi đầu của người đảng viên trong việc thực
hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước; nâng cao trình
độ toàn diện cho người đảng viên.
Hai là, kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở; qui hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng
cán bộ đảm bảo cho công tác này đi vào nề nếp.
Ba là, phải kiên quyết sàng lọc, loại bỏ những đảng viên thoái hoá, biến chất, vi phạm
Điều lệ đảng, vi phạm pháp luật, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh
Bốn là, làm tốt công tác phát triển Đảng, gắn công tác này với việc qui hoạch đội ngũ
cán bộ cơ sở, chăm lo xây dựng đoàn thanh niên vững mạnh. Phối hợp đồng bộ với chính
quyền và các đoàn thể để thực hiện công tác phát triển Đảng, như vậy sẽ hạn chế được xu
hướng cục bộ, dòng họ, làng xóm đố kỵ ở nông thôn hiện nay đang ảnh hưởng tiêu cực đến
việc xây dựng YTPL của người dân.
3.2.2. Dân chủ hoá ở nông thôn, đẩy mạnh việc thực hiện hiệu quả qui chế
dân chủ ở cơ sở
Để tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hoá ở nông thôn và thực hiện có hiệu quả hơn nữa Qui
chế dân chủ ở cơ sở, nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc xây
dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam cần quan tâm, chú trọng hơn nữa một số giải pháp như: tăng
cường hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên sâu sát của các cấp uỷ Đảng, đặc biệt

là Đảng uỷ cấp xã; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện Qui
chế dân chủ ở cơ sở; tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền, nhất là chính
quyền cơ sở trong việc tổ chức, triển khai thực hiện qui chế dân chủ
3.3. Nâng cao đời sống văn hoá đi đôi với cải biến phong tục, tập quán lạc hậu
Do đặc thù của làng - xã trong đời sống của người dân Việt Nam, nên trong giai đoạn
hiện nay, việc xây dựng thành công các làng - xã văn hoá nói riêng, “xây dựng nông thôn
mới” nói chung mà trong đó, mỗi người dân đều có ý thức sống và làm việc theo pháp luật
trên cơ sở thực thi các qui định trong Qui ước làng văn hoá sẽ hình thành một nông thôn mới
với môi trường văn hoá - xã hội lành mạnh. Môi trường đó sẽ góp phần tích cực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, đồng thời cũng tạo ra những mối quan hệ xã hội mới có ảnh hưởng tới tâm
lý của người dân sống ở nơi đây, sẽ có tác dụng khắc phục dần tâm lý tiểu nông lạc hậu, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc hình thành những nhân tố tâm lý mới, tiến bộ hơn. Điều đó ảnh hưởng
tích cực tới việc xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta. Đồng thời với việc xây dựng đời sống văn
hoá - xã hội mới cho người dân, nhất là người nông dân, chúng ta cần phải cải biến, dần dần xoá
bỏ những thói quen, phong tục, tập quán lạc hậu nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của nó
trong việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.
3.4. Nâng cao ý thức pháp luật cho người dân với việc khắc phục mặt tiêu cực
của tâm lý tiểu nông
3.4.1. Nâng cao dân trí cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là người nông dân -
Điều kiện cơ bản để nâng cao nhận thức pháp luật
Nâng cao trình độ học vấn, dân trí là giải pháp cơ bản để giúp cho người dân nói
chung, người nông dân nói riêng có tri thức, nhận thức về vai trò của pháp luật, nâng cao khả
năng tự điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với những yêu cầu của pháp luật, tiến tới biết
sử dụng pháp luật để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, làm cho YTPL của họ được nâng
lên. Theo đó, tâm lý coi thường, thờ ơ, thậm chí là ác cảm với pháp luật, tâm lý “phép vua
thua lệ làng”, cục bộ, địa phương của người dân dần dần được khắc phục. Điều này ảnh
hưởng tích cực đến việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.
3.4.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức
tôn trọng pháp luật, ứng xử theo pháp luật cho người dân
Để tuyên truyền và giáo dục pháp luật có hiệu quả nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu

cực của tâm lý tiểu nông Việt Nam đến việc xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta cần chú ý
tới: nội dung, hình thức và biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; tăng cường
hơn nữa việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng,
đẩy mạnh công tác xã hội hoá các hoạt động giáo dục pháp luật; tăng cường giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử công khai của Toà án nhân dân các cấp
3.5. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
3.5.1. Đổi mới nhận thức về đánh giá, bố trí sử dụng cán bộ
Trong giai đoạn hiện nay, cần khắc phục lối đánh giá cán bộ chung chung, trừu tượng, lấy nhiệt
tình cách mạng, tình cảm cá nhân, tình cảm dòng họ , cần phải căn cứ vào năng lực thực tế và phẩm
chất đạo đức của họ, cần khắc phục tâm lý “sống lâu lên lão làng”,“tre già măng mọc”, tâm lý “trọng
xỉ”, “cục bộ địa phương” đồng thời khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, hẫng hụt cán bộ ở nhiều
địa phương, ngành; thực hiện công khai, minh bạch trong đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ; khắc phục
tình trạng nể nang, né tránh, thiếu khách quan khi xem xét, quyết định công tác cán bộ.
3.5.2. Không ngừng nâng cao trình độ và tư duy lý luận cho cán bộ, chú
trọng cán bộ ở nông thôn
Do ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông và hạn chế về trình độ nên đội ngũ cán bộ, công
chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ công chức ở nông thôn thường có xu hướng tuyệt đối hoá
kinh nghiệm, tư duy chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức độ kinh nghiệm, chưa vươn tới tầm lý
luận. Trong khi đó, vai trò của tư duy lý luận trong hoạt động của đội ngũ cán bộ này là vô
cùng quan trọng. Điều đó càng có ý nghĩa hơn đối với đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ hoạch
định chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đối với cán bộ là đại biểu của
Quốc hội, là những chính khách, những người có vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
nhân dân trong việc soạn thảo các dự án luật, xây dựng các bộ luật - công việc không thể
thiếu tư duy lý luận và tầm nhìn chiến lược mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ này.
3.5.3. Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng cho cán bộ, công chức.
Những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông như: tâm lý hẹp hòi, cá nhân, vị
lợi, cục bộ địa phương đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới phẩm chất đạo đức cách
mạng của người cán bộ. Do vậy, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trên đòi hỏi
phải đẩy mạnh công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ nói chung,

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng là
con đường tích cực hình thành phẩm chất đạo đức cách mạng ở người cán bộ, công
chức.

KẾT LUẬN
1. 1. Tâm lý tiểu nông là loại hình tâm lý xã hội của tầng lớp nông dân được hình
thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của nền kinh tế tiểu nông, với những điều kiện lao động sản
xuất, sinh hoạt riêng có của nông dân, nông nghiệp, nông thôn, do điều kiện đó sản sinh,
quyết định và chi phối thái độ hành vi, cách ứng xử của họ. Chủ thể của tâm lý đó là nông
dân, song trên thực tế tâm lý tiểu nông không chỉ tồn tại và biểu hiện ra ở người nông dân mà
còn biểu hiện ra ở cả những người không phải là nông dân.
Bên cạnh những đặc trưng tâm lý tích cực như: đoàn kết cộng đồng, yêu lao động, cần
cù, lạc quan trong cuộc sống; trọng con người, trọng tình cảm, trọng đạo đức, trọng danh
dự , tâm lý tiểu nông Việt Nam còn có những mặt tiêu cực như: thói quen sản xuất nhỏ lẻ,
manh mún, bảo thủ, lối nghĩ dựa theo kinh nghiệm; hẹp hòi, vị lợi, cục bộ địa phương; tính
tuỳ tiện, kém kỷ luật, kỷ cương, trọng tình hơn trọng lý, trọng lệ hơn luật Đó chính là tính l-
ưỡng diện, tính vừa thống nhất vừa mâu thuẫn trong tâm lý tiểu nông Việt Nam.
Tâm lý tiểu nông ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội ta,
trong đó ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam.
2. NNPQ là nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó mọi chủ thể (kể cả
nhà nước) đều phải tuân thủ, phục tùng tuyệt đối pháp luật - một pháp luật thể hiện đầy đủ
những giá trị cao cả nhất của xã hội và con người, tổ chức theo nguyên tắc phân định quyền
lực nhằm mục đích bảo vệ tối đa chủ quyền của nhân dân.
Xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam xác định với những nội dung cơ bản
là: Xây dựng cơ sở, nền tảng cho sự tồn tại của NNPQ XHCN; xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật; thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật; xây dựng YTPL cho nhân dân;
cải cách bộ máy nhà nước, trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; mở rộng dân chủ
XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
3. Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài, luận án tập trung phân tích sự ảnh hưởng của
tâm lý tiểu nông Việt Nam đối với việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam trên một số

phương diện cơ bản sau:
Một là, ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đến kinh tế, xã hội - cơ sở, nền tảng của xây
dựng NNPQ XHCN Việt Nam.
Hai là, ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với xây dựng ý thức pháp luật cho nhân
dân.
Ba là, ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đến hoạt động xây dựng pháp luật, thực
hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật (công lý của xã hội).
Bốn là, ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước.
4. Khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng
NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ khó khăn, lâu dài. Để giải quyết nhiệm
vụ đó, các giải pháp chủ yếu được xác định là: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và đẩy mạnh CNH, HĐH, đặc biệt là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển
lực lượng sản xuất; Phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng và đẩy mạnh thực
hiện dân chủ ở nông thôn; Nâng cao đời sống văn hoá đi đôi với cải biến phong tục, tập quán
lạc hậu; Nâng cao YTPL cho người dân; Tiếp tục đổi mới công tác đào tào, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, công chức - những người trực tiếp thực thi hoạt động công vụ của bộ máy NNPQ
XHCN. Việc tiến hành đồng bộ các giải pháp trên sẽ vừa tạo ra cơ sở kinh tế, vừa tạo ra môi
trường văn hoá - xã hội, vừa tác động gián tiếp, vừa tác động trực tiếp vào tâm lý tiểu nông
để phát huy những ảnh hưởng tích cực, đồng thời khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của
tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.


References
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Phạm Ngọc Anh (1998), Quan hệ giữa nhà nước và nông dân ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
3. Toan ánh (1992), Nếp cũ - Làng xóm Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Văn Thảo,Trần
Xuân Sầm (Đồng chủ biên) (1999), Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước

ta trong giai đoạn mới, NXB CTQG, Hà Nội.
5. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Lê Văn Cảm (1997), Học thuyết về nhà nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở Liên
bang Nga, NXB Sáng tạo, Mátxcơva.
7. Nguyễn Cúc (chủ biên) (2002), Thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện
nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB CTQG, Hà Nội.
8. Đoàn Văn Chức (1997), Xã hội hoá văn hoá, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), “Hội nhập quốc tế: cơ hội và thách thức đối với giá trị
truyền thống trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay”, Tạp chí Triết học (159 ), tr. 5 -
11.
10. Diu Righin (1986), Pháp luật, chính trị, đạo đức và ý thức pháp luật xã hội, NXB Sự
thật, Hà Nội.
11. Phan Đại Doãn (chủ biên) (1996), Quản lý xã hội nông thôn nước ta hiện nay - một số
vấn đề và giải pháp, NXB CTQG, Hà Nội.
12. Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam - một số vấn đề kinh tế xã hội, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
13. Phan Đại Doãn (2004), Mấy nét về văn hoá làng- xã Việt Nam trong lịch sử, NXB
CTQG, Hà Nội.
14. Nguyễn Quang Du (1994), ý thức nông dân trong cán bộ, đảng viên nông thôn miền
Bắc Việt Nam - những đặc trưng chủ yếu, Luận án PTS Triết học, Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2004): Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
16. Trần Sỹ Dương (2010), ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
17. Bùi Huy Đáp (1996), Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới, NXB CTQG,
Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII, NXB CTQG, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
NXB Sự thật, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương khoá VIII, NXB CTQG, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương khoá VIII, NXB CTQG, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, NXB CTQG, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB Sự thật, Hà Nội.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung
ương khoá IX, NXB CTQG, Hà Nội.
25. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB
CTQG, Hà Nội.
26. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập Tập 51, NXB CTQG, Hà
Nội.
27. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập Tập 52, NXB CTQG, Hà
Nội.
28. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập Tập 53, NXB CTQG, Hà
Nội.
29. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập Tập 54, NXB CTQG, Hà
Nội.
30. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập Tập 55, NXB CTQG, Hà
Nội.
31. Đảng cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng
Khoá X (Hội nghị lần thứ ba, tư, năm, sáu, bẩy và chín), NXB CTQG, Hà Nội.
32. Đảng cộng sản Việt Nam - Ban chấp hành Trung ương - Tiểu ban tổng kết, bổ sung và
phát triển Cương lĩnh năm 1991 (2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011), NXB
CTQG, Hà Nội.
33. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng, NXB CTQG, Hà Nội.

34. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng và phép nước, NXB Pháp lý, Hà Nội.
35. Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
36. Bùi Xuân Đính (1999), 101 truyện pháp luật đời xưa, NXB Thanh niên, Hà Nội.
37. Lê Văn Định (2000), Xu hướng biến đổi của tâm lý cộng đồng làng ở Việt Nam trong
giai đoạn đổi mới, Luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
38. Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
39. Vũ Minh Giang (1992), “Thiết chế làng xã cổ truyền và quá trình dân chủ hoá hiện nay
ở nước ta”, Tạp chí Thông tin lý luận (9), tr. 22 - 25.
40. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến
cách mạng tháng Tám Tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
41. Trần Văn Giàu (1980), Các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
42. P.Gourou(2003), Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, NXB Trẻ.
43. Hoàng Văn Hảo (1997), “Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân”, Đại hội VIII những tìm tòi và đổi mới, Học viện CTQG, tr. 85 - 98.
44. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2004), Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá - Những điều cần khắc phục, NXB CTQG, Hà Nội.
45. Diệp Đình Hoa (1990), Tìm hiểu làng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
46. Nguyễn Huy Hoàng (2004), Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
47. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các môn khoa học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, NXB CTQG,
Hà Nội.
48. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ
máy nhà nước ở một số nước, NXB Tư pháp, Hà Nội.
49. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992) (1995), NXB CTQG, Hà Nội.
50. Hiến pháp năm 1992 và các luật tổ chức Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (1993), NXB CTQG, Hà Nội.

51. Trần Văn Hiệp (1996), Những biểu hiện chủ yếu của tâm lý làng xã và những biến đổi
của nó hiện nay, Luận án PTS Tâm lý học xã hội, Hà Nội.
52. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam Tập1, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam Tập 2, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
54. Bùi Thị Thanh Hương (2000), Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân
nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
55. Phan Thanh Khôi, Lương Xuân Hiến (2006), Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong
tiến trình CNH, HĐH vùng đồng bằng sông Hồng, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
56. Nguyễn Văn Khiết (2000), Những biểu hiện đặc thù của tâm lý người nông dân đồng
bằng sông Cửu Long, Luận văn thạc sỹ Triết học, Hà Nội.
57. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên) (1994), Các giá trị truyền thống và con ng-
ười Việt Nam hiện nay Tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
58. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên) (1996), Các giá trị truyền thống và con ng-
ười Việt Nam hiện nay Tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
59. V.I. Lênin (2005), Toàn tập Tập 3, NXB CTQG, Hà Nội.
60. V.I. Lênin (2005), Toàn tập Tập 26, NXB CTQG, Hà Nội.
61. V.I. Lênin (2005), Toàn tập Tập 31, NXB CTQG, Hà Nội.
62. V.I. Lênin (2006), Toàn tập Tập 41, NXB CTQG, Hà Nội.
63. V.I. Lênin (2006), Toàn tập Tập 43, NXB CTQG, Hà Nội.
64. V.I. Lênin (2006), Toàn tập Tập 45, NXB CTQG, Hà Nội.
65. V.I. Lênin (2006), Nhà nước và cách mạng, NXB CTQG, Hà Nội.
66. Nguyễn Ngọc Long (Chủ nhiệm) (1994), Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị
nước ta trong giai đoạn quá độ lên CNXH, Chương trình KHCN cấp Nhà nước KX
05- 04, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
67. Nguyễn Ngọc Long (2001), “Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức
cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý”, Tạp chí Lý luận chính trị (4), tr. 8 -
14.
68. Đỗ Long, Trần Hiệp (1993), Tâm lý cộng đồng làng và di sản, NXB Khoa học Xã hội,

Hà Nội.
69. Đỗ Long (2000), Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
70. Nguyễn Văn Long (2002), Lệ làng truyền thống với việc hình thành ý thức pháp luật
cho nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
71. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (Sửa đổi) (2004), NXB CTQG, Hà Nội.
72. Lý luận chung về nhà nước và pháp luật (2004), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
73. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập Tập 2, NXB CTQG, Hà Nội.
74. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập Tập 3, NXB CTQG, Hà Nội.
75. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập Tập 7, NXB CTQG, Hà Nội.
76. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập Tập 8, NXB CTQG, Hà Nội.
77. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập Tập 9, NXB CTQG, Hà Nội.
78. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập Tập 12, NXB CTQG, Hà Nội.
79. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập Tập 13, NXB CTQG, Hà Nội.
80. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập Tập 18, NXB CTQG, Hà Nội.
81. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập Tập 19, NXB CTQG, Hà Nội.
82. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập Tập 20, NXB CTQG, Hà Nội.
83. C. Mác và Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập Tập 23, NXB CTQG, Hà Nội.
84. C. Mác và Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập Tập 46, NXB CTQG, Hà Nội.
85. Đỗ Thị Thanh Mai (2001), Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam khi chuyển sang kinh
tế thị trường - Đặc trưng và xu hướng biến đổi, Luận án Tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
86. Nông Đức Mạnh (2004), “Đưa cuộc vận động thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở lên
một bước mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn”, Tạp chí Cộng sản (20), tr.3-
6.
87. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập Tập 1, NXB CTQG, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập Tập 4, NXB CTQG, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập Tập 5, NXB CTQG, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập Tập 6, NXB CTQG, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập Tập 7, NXB CTQG, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập Tập 9, NXB CTQG, Hà Nội.

93. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập Tập 12, NXB CTQG, Hà Nội.
94. Montsquieu (1996), Tinh thần pháp luật, NXB Giáo dục, Hà Nội.
95. Đỗ Mười (1997), “Xây dựng Nhà nước và Quốc hội thật sự của dân do dân và vì dân,
hoạt động có hiệu quả”, Tạp chí Cộng sản (19), tr. 3- 8.
96. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997), Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp,
NXB CTQG, Hà Nội.
97. Phạm Xuân Nam (1998), Văn hoá vì sự phát triển, NXB CTQG, Hà Nội.
98. Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, NXB CTQG, Hà Nội.
99. Phan Ngọc (1994), Văn hoá Việt Nam - cách tiếp cận mới, NXB Văn hoá thông tin, Hà
Nội.
100. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
101. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học Hà Nội - Đà
Nẵng, NXB Đà Nẵng.
102. Nguyễn Hồng Phong (1959), Xã thôn Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội.
103. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
104. Thang Văn Phúc - Hà Quang Ngọc (1998), “Tự quản và vấn đề phát huy dân chủ ở cở
sở”, Tạp chí Cộng sản (16), tr. 33 - 35.
105. Nguyễn Minh Phương (2011), “Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý đối với các tổ chức
xã hội ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2), tr 21-25.
106. Lê Minh Quân (1999), Mối quan hệ giữa việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối với
sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án tiến sỹ Triết học, Hà
Nội.
107. Lê Minh Quân (2003), Xây dựng NNPQ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, NXB CTQG, Hà Nội.
108. Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên) (2005), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
109. Nguyễn Duy Quý (1995), “Một số suy nghĩ về vấn đề xây dựng NNPQ ở nước ta”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2), tr. 12 - 13.

110. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam Tập 1, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
111. Trương Hữu Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam Tập 2, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
112. Trần Văn Sơn (Sưu tầm và tuyển chọn) (2000), Qui chế dân chủ ở cơ sở, NXB lao
động, Hà Nội.
113. Văn Tạo (1993), Chúng ta kế thừa những di sản nào, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
114. Văn Tạo (1996), Phương thức sản xuất châu á: Lý luận Mác - Lênin và thực tiễn Việt
Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
115. Trần Hậu Thành (2000), “Nguyên tắc thống nhất quyền lực và phân công, phối hợp
giữa các quyền trong tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước ta”, Tạp chí Nghiên
cứu lý luận (6), tr 24- 28.
116. Trần Hậu Thành (2000), “Dân chủ và mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với dân
chủ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (10), tr. 9-11, 48.
117. Trần Hậu Thành (2000), “Quan hệ giữa nhà nước và pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận (2), tr. 47 - 51.
118. Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
119. Trần Hậu Thành (2005), “Một số vấn đề lý luận về quan hệ Nhà nước, xã hội và công
dân trong NNPQ”, Tạp chí Triết học (6), tr 16-22.
120. Võ Văn Thắng (2005), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc
trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
121. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
122. Hồ Văn Thông (1997), “Xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay”, Đại hội VIII những tìm
tòi và đổi mới, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, tr. 35 - 68.
123. Hồ Văn Thông (1998), Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện nay, NXB
CTQG, Hà Nội.
124. Lê Minh Thông (1997), “Để nhà nước ta thực sự là nhà nước “của dân, do dân và vì
dân”, Tạp chí Triết học (6), tr.19 - 26.
125. Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát (2002), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính

quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay, NXB CTQG, Hà Nội.
126. Lê Đức Tiết (1998), Về hương ước và lệ làng, NXB CTQG, Hà Nội.
127. Đinh Gia Trinh (1968), Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam (từ nguồn gốc
đến thế kỷ XIX) Tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
128. Đào Ngọc Tuấn (2002), Tính phổ biến và đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam, Luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
129. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
130. Từ điển tiếng Việt (1994), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
131. Từ điển Triết học (Tiếng Việt) (1986), NXB Tiến bộ, Matxcơva.
132. Nguyễn Bằng Tường (2000), “Bước đầu tìm hiểu tư duy của người Việt Nam trong
lịch sử”, Tạp chí Nghiên cứu lí luận (4), tr. 49-53.
133. Đào Trí úc (chủ biên) (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề
cấp bách của khoa học về nhà nước và pháp luật, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
134. Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
135. Đào Trí úc (chủ biên) (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, NXB CTQG, Hà Nội.
136. Đào Trí úc - Phạm Hữu Nghị (Đồng chủ biên) (2009), Xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt nam trong giai đoạn hiện nay, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Từ
điển Bách khoa, Hà Nội.
137. Nguyễn Thuý Vân (2000), “Một số đặc điểm của ý thức pháp luật Việt Nam”, Tạp chí
Triết học (5), tr. 47 - 49.
138. Viện sử học (1977), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử Tập 1, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
139. Viện sử học (1979), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử Tập 2, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
140. Viện sử học (1990), Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại Tập 1, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
141. Viện sử học (1993), Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại Tập 2, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội.
142. Viện Sử học (1979), Nông thôn Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
143. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (1992), Thuyết “Tam quyền phân lập” và bộ máy
nhà nước tư sản hiện đại, Hà Nội.
144. Viện Ngôn ngữ học (2001), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
145. Nguyễn Khắc Viện (Chủ biên) (1994), Từ điển Xã hội học, NXB Thế giới.
146. Lê Kim Việt (1998), Đặc điểm tâm lý nông dân đồng bằng Bắc Bộ và sự tác động của
nó đối với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ nước
ta, NXB CTQG, Hà Nội.
147. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2000), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục
148. Lê Hữu Xanh (chủ biên) (1999), Tâm lý nông dân đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình
CNH, HĐH nông thôn hiện nay, NXB CTQG, Hà Nội.
149. Lê Hữu Xanh (chủ nhiệm đề tài cấp Bộ) (2002), ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu
nông đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh của nhà n-
ước trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
150. Lê Hữu Xanh (chủ biên) (2005), ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với cán
bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
151. Insun. Yu, Luật xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII (1994), NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.





×