Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định của bộ luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.29 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM TUẤN ANH

THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI CHẾT
ĐỂ LẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ
MÃ SỐ
: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI ĐĂNG HIẾU

HÀ NỘI – NĂM 2007


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của bản thân, các kết luận trong bản luận văn chưa từng
được công bố trong một công trình của người khác. Các
tài liệu tham khảo được trích dẫn một cách hợp pháp.
Tác giả

Phạm Tuấn Anh

2



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa

1

Lời cam đoan

2

Mục lục

3

Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt

5

MỞ ĐẦU

6

Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ VÀ VIỆC THỰC
HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI
1.1. Thừa kế và quan hệ pháp luật thừa kế

10
10

1.1.1. Khái niệm thừa kế


10

1.1.2. Quan hệ pháp luật thừa kế

14

1.1.2.1. Khái niệm

14

1.1.2.2. Các yếu tố cấu thành

17

1.2. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

22

1.2.1. Khái niệm nghĩa vụ và nghĩa vụ tài sản

22

1.2.2. Thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại – Một
sự chuyển giao nghĩa vụ đặc biệt

27

1.3. Sơ lược những quy định của pháp luật thời kỳ phong kiến đến
trước khi có Bộ luật dân sự


33

Chương 2. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI
CHẾT ĐỂ LẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ

37

2.1. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản

37

2.1.1. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết trong
trường hợp di sản chưa được chia

38

2.1.2. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản sau khi di sản được
chia

41

2.1.2.1. Người thừa kế

41

2.1.2.2. Người được di tặng

47


2.1.2.3. Người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng

50

2.1.3. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp được chỉ

55

3


định trong di chúc
2.1.4. Thứ tự thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể

57

2.2. Thời điểm phát sinh và phạm vi thực hiện nghĩa vụ

61

2.2.1. Thời điểm phát sinh

61

2.2.1.1. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ của người thừa kế

61

2.2.1.2. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ của các chủ thể
khác


63
2.2.2. Phạm vi thực hiện nghĩa vụ

64

2.2.2.1. Trường hợp di sản chưa được chia

65

2.2.2.2. Trường hợp di sản đã được chia

68

2.3. Các loại nghĩa vụ tài sản của người chết để lại và thứ tự thanh
toán nghĩa vụ tài sản
2.3.1. Các loại nghĩa vụ

75
75

2.3.1.1. Nhóm thứ nhất: nghĩa vụ với nhà nước

75

2.3.1.2. Nhóm thứ hai: nghĩa vụ với cá nhân, tổ chức khác

76

2.3.1.3. Các chi phí phát sinh


78

2.3.2. Thứ tự thanh toán

79

2.3.3. Thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản

87

Chương 3. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, NHỮNG
VƯỚNG MẮC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT

91

3.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp và một số vướng mắc trong
thực tiễn

91

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật về
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

98

KẾT LUẬN

103


TÀI LIỆU THAM KHẢO

104

4


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
BLDS 1995

Bộ luật Dân sự năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005

PLTK 1990

Pháp lệnh thừa kế năm 1990

DSTC

Di sản dùng vào việc thờ cúng

DT

Di tặng

NVTSCL


Nghĩa vụ tài sản còn lại

5


MỞ ĐẦU
I. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
So với các chế định khác của dân luật, thừa kế là một chế định có lịch
sử phát triển khá lâu dài và là một trong những chế định cơ bản, quan trọng
nhất của pháp luật dân sự. Ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, thừa kế
luôn nhận được sự quan tâm thích đáng của các nhà làm luật cũng như giới
nghiên cứu khoa học pháp lý.
Cùng với sự phát triển của đất nước qua mỗi giai đoạn, chế định thừa
kế đã phần nào phản ánh được những đặc trưng về điều kiện kinh tế – chính
trị – xã hội và nền tảng văn hoá truyền thống. Từ đó, góp phần điều chỉnh có
hiệu quả các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Trong giai đoạn hiện nay,
khi chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và việc gia nhập WTO thể hiện sự hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới
thì cơ hội làm giàu cho bản thân và đất nước sẽ rộng mở cho tất cả mọi người.
Vì vậy, một kết quả dễ dự đoán đó là sự xuất hiện ngày càng đa dạng, phức
tạp những quan hệ tài sản, trong đó, thừa kế cũng không phải là ngoại lệ.
Thực tiễn xét xử tranh chấp thừa kế trong những năm vừa qua đã phần nào
phản ánh sự phức tạp này. Để đáp ứng được sự thay đổi và đảm bảo được
quyền thừa kế của cá nhân cũng như những chủ thể có quyền, nghĩa vụ tài sản
liên quan thì những vấn đề của thừa kế cần tiếp tục nhận được sự quan tâm
của những nhà nghiên cứu và những nhà lập pháp. Yêu cầu cơ bản đối với chế
định thừa kế đó là trả lời và giải quyết hai câu hỏi lớn: Tài sản của người chết
để lại sẽ thuộc về ai, theo trình tự nào? và những nghĩa vụ tài sản của họ để lại
sẽ chấm dứt hay do ai tiếp tục thực hiện? Đây là hai mặt của một vấn đề. Hiện

tại, những công trình, đề tài nghiên cứu và cả những quy định của pháp mới
chủ yếu tập trung trả lời cho câu hỏi thứ nhất. Do đó, nghiên cứu để làm sáng

6


tỏ cơ sở lý luận của việc chuyển giao nghĩa vụ tài sản của người chết cho
những chủ thể khác, trên cơ sở phân tích luật thực định và thực tiễn giải quyết
tranh chấp cũng như vướng mắc và từ đó đề ra những kiến nghị hoàn thiện
các quy định pháp luật sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Từ lý do này,
tác giả chọn đề tài “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy
định của Bộ luật dân sự Việt Nam”.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện tại, những công trình, đề tài nghiên cứu mới
chủ yếu tập trung trả lời cho câu hỏi tài sản của người chết để lại thuộc về ai
và theo trình tự nào, rất ít công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề thực hiện
nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
Những công trình nghiên cứu một cách tổng quát về thừa kế có: “Tìm
hiểu pháp lệnh thừa kế” của Luật sư Lê Quế, năm 1994; Sách chuyên khảo
“Bình luận khoa học về Thừa kế trong luật dân sự Việt Nam” của Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Điện – Khoa Luật Đại học Cần Thơ, Nhà xuất bản trẻ. “Thừa
kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng” của Tiến sĩ Phạm Văn
Tuyết, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Nghiên cứu những vấn đề cụ thể về
thừa kế có: Sách chuyên khảo “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt
Nam từ 1945 đến nay” của Tiến sĩ Phùng Trung Tập - Đại học Luật Hà Nội,
NXB Tư pháp; Luật án tiến sĩ “Di sản thừa kế” của Nghiên cứu sinh Nguyễn
Thị Huệ - Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ “Điều kiện có hiệu lực của
di chúc” của học viên Nguyễn Hồng Nam – Cao học khoá 8 Khoa Luật Đại
học quốc gia Hà Nội...
Ngoài ra còn có một số bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí

chuyên nghành và các khoá luận tốt nghiệp của các sịnh viên luật.

7


III. Mục đích nghiên cứu
Luận văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc chuyển giao nghĩa vụ tài
sản của người chết, trên cơ sở phân tích tính kế thừa qua các giai đoạn lịch sử,
phân tích luật thực định và đánh giá tực tiễn giải quyết tranh chấp từ đó đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
IV. Nhiệm vụ của luận văn
+ Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc chuyển giao nghĩa vụ tài sản của
người chết
+ Đánh giá một cách có hệ thống sự kế thừa của pháp luật qua các giai
đoạn lịch sử
+ Phân tích những quy định của luật hiện hành cùng với việc nêu thực
tiễn giải quyết tranh chấp
+ Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
V. Phạm vi nghiên cứu
Thừa kế là một vấn đề lớn và khá phức tạp. Trong phạm vi luận văn
thạc sĩ, tác giả chỉ đề cập đến một mặt trong một vấn đề rộng lớn đó. Luận
văn đi vào phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản của thừa kế
và việc chuyển giao nghĩa vụ tài sản của người chết. Kết hợp với việc phân
tích các quy định của luật hiện hành cùng với việc đánh giá thực tiễn giải
quyết tranh chấp từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
VI. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lênin cùng những thành tựu của khoa học pháp lý. Tác giả đã vận
dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các


8


phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh, tổng kết thực
tiễn... để lý giải những vấn đề đặt ra.
VII. Những đóng góp và ý nghĩa khoa học, thực tiễn của đề tài
+ Luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về thừa kế và
việc chuyển giao nghĩa vụ
+ Phân tích và làm rõ tính kế thừa của pháp luật qua các giai đoạn
+ Phân tích để làm rõ những quy định của luật hiện hành cùng với việc
nêu thực tiễn giải quyết các tranh chấp và những vướng mắc từ đó đưa ra các
kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
+ Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu,
giảng dạy cũng như những người hoạt động thực tiễn.
VIII. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Luận văn được bố cục làm ba chương
như sau:
Chương 1: Lý luận chung về thừa kế và việc thực hiện nghĩa vụ tài sản
của người chết để lại
Chương 2: Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy
định của Bộ luật Dân sự
Chương 3: Thực trạng giải quyết tranh chấp, những vướng mắc trong
thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

9


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ VÀ VIỆC
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI


1.1. THỪA KẾ VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT THỪA KẾ

1.1.1. Khái niệm thừa kế
Thừa kế theo nghĩa chung nhất là “hưởng của người chết để lại cho”
[32, tr. 972]. Ở đây, chúng ta quan tâm đến khía cạnh thừa kế về tài sản.
Trong mối quan hệ giữa con người với con người về tài sản, ngay từ
thời kỳ sơ khai chúng ta đã phải đứng trước vấn đề: khi một cá nhân chết đi
thì tài sản của họ để lại sẽ được xử lý như thế nào. Vấn đề này cũng song
hành cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ
lịch sử, từng hình thái xã hội với những chế độ sở hữu khác nhau mà chúng ta
nhận được những câu trả lời khác nhau cho vấn đề này.
Ở thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ thị tộc, bộ lạc
đã hình thành và tài sản có được thuộc về quyền chung của thị tộc, bộ lạc.
Thời kỳ này, thừa kế đã manh nha hình thành và được giải quyết theo tập tục.
Trong điều kiện kinh tế, xã hội và hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của
người phụ nữ trong thị tộc, nên việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người
đã chết cho những người còn sống tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và
các phong tục tập quán của thị tộc. Ph.Ăngghen đã nhận xét: “Theo chế độ
mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục
thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc
chết. Tài sản để lại trong thị tộc, nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao
cho những người cùng huyết tộc với người mẹ” [13, tr.79].

10


Sự kế thừa tài sản trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã đặt nền
móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài
sản theo huyết thống. Hiện nay, ở một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam và một

số dân tộc trên thế giới vẫn duy trì việc thừa kế tài sản theo huyết thống của
người mẹ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, cùng với những sự phân công lao
động trong xã hội và gia đình, người đàn ông đã tạo ra nhiều của cải nuôi
sống các thành viên trong thị tộc, bộ lạc đã làm thay đổi quan hệ xã hội. Sự
thiết lập địa vị của người đàn ông trong gia đình và trong từng thị tộc, bộ lạc
đã là căn cứ sắp xếp lại trật tự của thị tộc, bộ lạc. Khi người đàn ông đã chiếm
vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội thì chế độ mẫu hệ đã bị thay thế bằng chế
độ phụ hệ. Cũng từ căn cứ đó, các con trong gia đình có quan hệ huyết thống
với người cha, mang họ của cha theo chế độ phụ hệ và thừa kế tài sản của
người cha được xác lập. Như vậy, tương ứng với từng giai đoạn lịch sử phát
triển nhất định là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của hình thức gia
đình..., của sự thay đổi quan hệ sở hữu và theo đó việc thừa kế tài sản cũng
thay đổi.
Tóm lại, trong thời kỳ đầu của xã hội loài người - thời kỳ Nhà nước
chưa xuất hiện và pháp luật chưa ra đời thì sở hữu và thừa kế tài sản đã xuất
hiện như một tất yếu khách quan và nó thuộc về phạm trù kinh tế. Mối quan
hệ giữa sở hữu và thừa kế phát sinh trong xã hội và được thể hiện ở chỗ: Nếu
sở hữu là yếu tố tiền đề để thừa kế phát sinh thì ngược lại, thừa kế lại là
phương tiện để duy trì, củng cố và phát triển sở hữu tài sản. Thừa kế là một
thực tế xã hội được thể hiện ở sự chuyển dịch tài sản của người chết cho
người còn sống, nó gắn chặt với lợi ích của cá nhân, gia đình, cộng đồng dòng
họ..., vì thế trong bất kỳ chế độ xã hội nào cũng có sự tác động của quy tắc xã

11


hội. Quy tắc đó được biểu hiện ở những yếu tố như phong tục, tập quán và
cao hơn nữa là quy phạm pháp luật.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cải xã hội ngày càng

được làm ra nhiều hơn, không những đảm bảo cho sinh hoạt và đời sống của
cộng đồng thị tộc, bộ lạc mà còn dư thừa, đời sống trong mỗi gia đình và xã
hội đã có nhiều thay đổi và theo đó trong mỗi thị tộc, bộ lạc người có địa vị
đã lợi dụng chức phận để chiếm đoạt một phần sản phẩm của thị tộc cùng với
sự nắm quyền điều hành thị tộc, bộ lạc. Những người nắm quyền đó đã trở
thành những người giàu có trong xã hội và xã hội nguyên thuỷ đã bắt đầu tan
rã, nhường chỗ cho xã hội mới – xã hội có giai cấp đã xuất hiện. Sự phân hoá
này về cơ bản dựa theo mức độ, giá trị tài sản, tư liệu sản xuất mà các tầng
lớp người trong xã hội chiếm hữu được khác nhau, từ đó hình thành nên chế
độ tư hữu về tài sản mà chủ yếu đối với tư liệu sản xuất. Hình thức thừa kế
phù hợp với chế độ tư hữu tài sản được hình thành, nó xuất hiện như một tất
yếu, đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ tài sản và quan hệ thừa kế tài
sản.
Khi giai cấp xuất hiện thì có giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, đương
nhiên đối kháng giai cấp là điều không tránh khỏi. Những trật tự trong quan
hệ sở hữu tài sản nói chung và trong quan hệ thừa kế nói riêng được Nhà
nước của chế độ tư hữu thiết lập trong giai đoạn này nhằm bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị. Thông qua những quy phạm pháp luật, Nhà nước điều
chỉnh quan hệ thừa kế trong việc xác định phạm vi chủ thể, nội dung, hình
thức, điều kiện chuyển dịch tài sản thừa kế và những vấn đề khác có liên quan
đến việc thừa kế tài sản.
Cùng với sự hình thành, phát triển nhà nước và pháp luật của chế độ tư
hữu thì sở hữu và thừa kế đều là những phạm trù pháp luật và giữa chúng có

12


mối quan hệ mật thiết với nhau. Chế độ tư hữu tài sản là tiền đề của chế định
thừa kế, ngược lại, chế định thừa kế là cơ sở để củng cố chế độ tư hữu tài sản.
Như vậy, giữa chúng có mối liên hệ ràng buộc theo những chuẩn mực pháp

luật nhất định và mang bản chất giai cấp sâu sắc. Tất nhiên, sự thể hiên tính
giai cấp trong mỗi lĩnh vực pháp luật khác nhau là khác nhau. Thậm chí, trong
mỗi chế định, sự thể hiện tính giai cấp cũng có sự đậm, nhạt khác nhau. Đối
với chế định thừa kế, sự thể hiện tính lịch sử, tính truyền thống có phần đậm
nét hơn.
Thừa kế là phạm trù pháp luật có tính khả biến. Tính khả biến được thể
hiện qua các quy phạm pháp luật mà các quy phạm này không những phụ
thuộc vào mức độ phát triển trong một chế độ xã hội nhất định, nghĩa là cũng
có quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế. Thừa kế
khi đó không những là phạm trù kinh tế, phạm trù pháp luật mà còn mang tính
lịch sử, bởi vì nó thể hiện rõ nét quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các
chế độ xã hội khác nhau và của một chế độ xã hội theo từng giai đoạn phát
triển nhất định.
Từ sự phân tích nêu trên có thể rút ra một số kết luận:
- Thừa kế là một phạm trù xuất hiện cùng với sự xuất hiện của quan hệ
sở hữu từ buổi sơ khai của loài người và nó phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội
nói chung và lịch sử phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
- Thừa kế với tư cách một phạm trù pháp luật cũng phản ánh tính giai
cấp đồng thời so với các chế định khác của dân luật thì thừa kế phản ánh rõ
nét hơn văn hoá truyền thống.

13


1.1.2. Quan hệ pháp luật thừa kế
1.1.2.1. Khái niệm
Từ khi giai cấp xuất hiện, Nhà nước ra đời, để bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị, các quan hệ xã hội nói chung, trong đó có thừa kế đã được Nhà
nước điều chỉnh bằng một loại quy phạm mới đó là quy phạm pháp luật.
Trong lý luận pháp lý hiện đại, khi các quan hệ xã hội được điều chỉnh

bằng pháp luật thì những quan hệ đó không chỉ đơn thuần mang tính kinh tế xã hội hay lịch sử mà nó còn mang tính pháp lý và khi đó những quan hệ này
được gọi là những quan hệ pháp luật.
Các nhà khoa học pháp lý đã định nghĩa: “Quan hệ pháp luật là hình
thức pháp lý của các quan hệ xã hội xuất hiện dưới tác động điều chỉnh của
các quy phạm pháp luật” [20, tr. 390].
Các quan hệ pháp luật được cấu thành bởi ba yếu tố: 1) Chủ thể; 2)
Khách thể; 3) Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý; và phát sinh, thay đổi,
chấm dứt căn cứ trên các sự kiện pháp lý.
Trên cách thức tiếp cận truyền thống của khoa học pháp lý về quan hệ
pháp luật, chúng ta cùng làm sáng tỏ những khía cạnh lý luận của khái niệm
“quan hệ pháp luật thừa kế”.
Việc dịch chuyển tài sản của cá nhân người đã chết cho những người
còn sống luôn tồn tại quan hệ giữa người với người. Khi mối quan hệ giữa
người với người trên cơ sở tài sản của người chết để lại được Nhà nước điều
chỉnh bằng pháp luật thì chúng trở thành quan hệ pháp luật thừa kế - một loại
quan hệ pháp luật dân sự. Quan hệ pháp luật dân sự được xác định là nhóm
các quan hệ xã hội do pháp luật dân sự điều chỉnh. Các quan hệ pháp luật dân
sự rất phong phú, đa dạng về chủ thể, khách thể, nội dung, cách thức phát

14


sinh... Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau mà chúng ta có thể phân loại quan
hệ pháp luật dân sự thành quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân; quan hệ dân
sự tương đối và và quan hệ dân sự tuyệt đối... Căn cứ vào nhóm các quan hệ
dân sự có tính chất cùng loại và liên hệ mật thiết với nhau ta có thể có quan hệ
pháp luật sở hữu, quan hệ pháp luật nghĩa vụ, quan hệ pháp luật thừa kế…
Từ đây, theo cách phân loại như trên, có thể đưa ra một khái niệm
chung nhất về quan hệ pháp luật thừa kế: Quan hệ pháp luật thừa kế là nhóm
các quan hệ xã hội do pháp luật thừa kế điều chỉnh.

Sự điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ thừa kế ở nước ta có
những diễn biến, thay đổi phức tạp vì chính quá trình hình thành và phát triển
pháp luật dân sự phụ thuộc vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội qua từng
thời kỳ. Chính sự phát triển phức tạp này mà hiện nay, trong một số bài viết,
luận văn hoặc các công trình nghiên cứu về pháp luật thừa kế ở nước ta, một
số tác giả đưa ra những cách hiểu khác nhau về quan hệ pháp luật thừa kế.
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, “quan hệ thừa kế là mối liên hệ giữa
người để lại di sản và người nhận di sản” [21, tr. 9-11]. Cách hiểu như vậy là
có sự nhầm lẫn khi xác định chủ thể của quan hệ thừa kế. Quan hệ pháp luật
thừa kế chỉ phát sinh từ thời điểm người để lại di sản chết hoặc được xác định
là đã chết theo một bản án của Toà án tuyên bố một người là đã chết có hiệu
lực pháp luật (thời điểm mở thừa kế). Và đương nhiên khi đã chết hay Toà án
tuyên bố là đã chết thì về lý luận cũng như pháp lý cá nhân đó chấm dứt tư
cách chủ thể. Từ thời điểm đó, cá nhân này không có ý nghĩa gì với quan hệ
thừa kế, có chăng chỉ là ý chí của họ đã thể hiện khi còn sống nếu họ có để lại
di chúc. Quan hệ pháp luật thừa kế lúc này phát sinh giữa những chủ thể còn
sống trong việc chuyển giao tài sản của người đã chết và xử lý những vấn đề
có liên quan.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn kiện của Đảng
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam.
II. Văn bản pháp luật Việt Nam
2. Bộ luật Dân sự Bắc kỳ năm 1931.
3. Bộ luật Dân sự Pháp.
4. Bộ luật Dân sự Trung kỳ.
5. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005.

6. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
7. Luật Phá sản năm 2004.
8. Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/8/1990.
9. Sắc lệnh 90/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
10. Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
11. Thông tư 594/NCPL ngày 27/8/1968 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn.
đường lối xét xử các việc tranh chấp về thừa kế.
12. Thông tư 81/TATC của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các
tranh chấp về thừa kế.
III. Giáo trình, sách tham khảo
13. Ph.Ăngghen (1961), Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
14. Nguyễn Mạnh Bách (1998), Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Mạnh Bách (1996), Tìm hiểu luật dân sự Việt Nam, Nxb Đồng Nai,
Đồng Nai.

16


16. Bộ Tư pháp - Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1995), Bình luận khoa học
Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Bộ Tư pháp - Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1998), Một số vấn đề về
pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
18. Đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình luật dân sự, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
19. Đại học Quốc gia Hà Nội – Trung tâm hợp tác nghiên cứu Việt Nam (1994),

Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2001), Giáo trình Lý luận chung về
Nhà nước và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
21. Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về thừa kế trong luật dân sự
Việt Nam, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.
22. Trần Thị Huệ (1999), Xác định di sản và việc thanh toán, phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật Việt Nam, Luận án Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội
23. Lê Thị Sơn chủ biên (2005), Những giá trị của Bộ luật Hồng Đức, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
24. TS. Phùng Trung Tập (2004), Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam
từ năm 1945 đến nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
25. Ngô Văn Thâu – Nguyễn Hữu Đắc (1996), Các thuật ngữ cơ bản trong Luật
dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
27. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
28. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
29. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân
dân. Hà Nội.

17


31. TS. Phạm Văn Tuyết (2007), Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32. Viện Ngôn ngữ học (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
33. Nguyễn Thị Vĩnh (1996), Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam, Luận án Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội
IV. Bài viết trên báo, tạp chí
34. Trần Thị Huệ (2002), “Một số vấn đề xác định di sản thừa kế”, Tạp chí Luật học
(3), tr. 29-33.
35. Trần Thị Huệ (2003), “Bàn về việc xác định hai phần ba suất của một người
thừa kế theo pháp luật”, Tạp chí Luật học (21), tr. 21-24.
36. Trần Thị Huệ (1994), “Về Điều 21 Pháp lệnh Thừa kế và Điều 590 Dự thảo Bộ
luật Dân sự Việt Nam ”, Tạp chí Luật học (21), tr. 3-4.
37. Trần Thị Huệ (2005), “Những nguyên tắc căn bản về thanh toán di sản trong Bộ
luật Dân sự Việt Nam ”, Tạp chí Luật học (2), tr. 12-16.
38. Lê Minh Hùng (2004), “Thời hiệu khởi kiện thừa kế - Những bất cập và hướng
hoàn thiện” Tạp chí nghiên cứu lập pháp (9), tr. 40-51.
39. Nguyễn Văn Mạnh (2006) “Những vướng mắc khi áp dụng chế định thừa kế”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp (4), tr. 1-5.
40. Nguyễn Văn Mạnh (2002) “Hoàn thiện chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp (3,4), tr. 11-16.
41. Phùng Trung Tập (2001), “Di sản dùng vào việc thờ cúng trong mối liên hệ với
di sản thừa kế”, Tạp chí Luật học (1), tr. 47-51.
42. Nguyễn Minh Tuấn (2003), “Bàn về quyền và nghĩa vụ của người thừa kế”, Tạp
chí Luật học (4), tr. 2-7.
43. TS. Phạm Văn Tuyết (2003), “Hoàn thiện quy định về thừa kế trong Bộ luật
Dân sự”, Tạp chí Luật học (11), tr. 76-82.
44. TS. Phạm Văn Tuyết (2002), “Bàn về khái niệm thừa kế”, Tạp chí Luật học
(06), tr. 45-47.

18



19



×