Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ NGỌC TRANG

ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ NGỌC TRANG

ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH

Hà Nội – 2015




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Ngọc Trang


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT
VỤ VIỆC DÂN SỰ .......................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự . 6
1.1.1. Khái niệm về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự: ........................... 6
1.1.2. Đặc điểm của đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự: ........................ 10
1.1.3 Ý nghĩa của đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự.............................. 15
1.2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định về đình
chỉ giải quyết vụ việc dân sự. .......................................................................... 16
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về đình chỉ giải quyết vụ
việc dân sự ............................................................................................... 16
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định về đình chỉ giải quyết

vụ việc dân sự. ......................................................................................... 19
1.3. Sơ lƣợc về sự phát triển của các quy định về đình chỉ giải quyết vụ việc
dân sự của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay ..........20
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959 ......................................................... 20
1.3.2 Giai đoạn từ năm 1960 đến 1989................................................... 22
1.3.3. Giai đoạn từ 1990 đến 2004 ......................................................... 23
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay. ................................................... 25
Chƣơng 2:NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ
VIỆC DÂN SỰ ............................................................................................... 30
2.1. Các quy định về căn cứ đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự.. .............. 30
2.1.1. Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ
của họ không được thừa kế ........................................................................... 30


2.1.2. Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không
có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của các
cơ quan, tổ chức đó . ...................................................................................... 32
2.1.3 Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc
người khởi kiện không có quyền khởi kiện .............................................. 34
2.1.4. Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có
nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án.. 40
2.1.5. Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục
giải quyết vụ án ....................................................................................... 41
2.1.6. Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt, trừ trường hợp người đó có đơn giải quyết vắng mặt hoặc vì sự kiện
bất khả kháng .......................................................................................... 42
2.1.7. Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ
án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó .... 43

2.1.8. Thời hiệu khởi kiện đã hết ............................................................. 45
2.1.9. Các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 168 của Bộ luật này mà
Tòa án đã thụ lý ...................................................................................... 46
2.1.10. Các trường hợp đình chỉ khác mà pháp luật quy định . ............. 53
2.2. Các quy định về thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của đình chỉ
vụ việc dân sự .........................................................................................................54
2.2.1. Thẩm quyền đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự ............................ 55
2.2.2. Thủ tục đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự.................................... 58
2.2.3. Hậu quả pháp lý của đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự .............. 59
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT
VỤ VIỆC DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................... 69


3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết
vụ việc dân sự. ................................................................................................... 69
3.1.1. Những kết quả trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về
đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự. .......................................................... 69
3.1.2. Những vướng mắc, hạn chế trong việc áp dụng các quy định của
pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự. ..................................... 70
3.1.3. Những nguyên nhân của vướng mắc, hạn chế trong việc áp dụng
các quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự.......... 77
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự. ............... 78
3.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp luật về đình chỉ
giải quyết vụ việc dân sự ......................................................................... 78
3.2.1. Kiến nghị về thực hiện các quy định của pháp luật về đình chỉ giải
quyết vụ việc dân sự: ............................................................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

DTBLTTDS

: Dự thảo BLTTDS sửa đổi trình Quốc hội tại Phiên
họp thứ 40, Quốc hội khóa XIII, tháng 8/2015.

LSĐBSBLTTDS

: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004

NQ 05/2012/NQ-HĐTP : Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012
của TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án
cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung
theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS
NQ 06/2012/NQ-HĐTP : Nghị quyết số 06/2012/NQ-HDTP hướng dẫn thi hành
một số quy định trong phần thứ ba: “Thủ tục giải quyết
vụ án tại tòa cấp phúc thẩm của Bộ luật Tố tụng dân
sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự”.
BLDS

: Bộ luật Dân sự 2005


PLTTGQCVADS

: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989

PLTTGQCVAKT

: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994

PLTTGQCTCLĐ

: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
năm 1996

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

HĐTPTANDTC

: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao

VADS

: Vụ án dân sự

VDS

: Việc dân sự


VVDS

: Vụ việc dân sự


VAKT

: Vụ án kinh tế

VALĐ

: Vụ án lao động

NLHVTTDS

: Năng lực hành vi tố tụng dân sự


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việc Toà án giải quyết vụ việc dân sự (VVDS) là nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp do thiếu
thận trọng nên Tòa án đã thụ lý cả những vụ việc không đảm bảo các điều
kiện thụ lý mà pháp luật quy định. Ngoài ra, cũng có những trường hợp việc
thụ lý vụ việc của Tòa án là đúng pháp luật nhưng trong quá trình giải quyết
đã phát sinh một số sự kiện làm cho đối tượng của vụ việc cần phải giải quyết
tại Tòa án không còn tồn tại hoặc được suy đoán là không tồn tại. Trong
những trường hợp như vậy, Tòa án phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết
vụ việc để giải phóng cho các bên đương sự, đặc biệt là bị đơn, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khỏi việc tham gia tố tụng vốn bị coi là một

nghĩa vụ bắt buộc đối với họ. Tuy nhiên, nếu việc đình chỉ giải quyết VVDS
không đúng có thể dẫn tới quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn, người yêu cầu
sẽ không được Tòa án xem xét giải quyết và quyền khởi kiện, quyền yêu cầu
của họ sẽ bị mất nếu như các quy định về quyền khởi kiện, quyền yêu cầu lại
không được pháp luật ghi nhận.
Trong lịch sử lập pháp, vấn đề đình chỉ VVDS đã được quy định trong
các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) và sau này
tiếp tục được quy định trong các pháp lệnh về thủ tục tố tụng như: Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 (PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án tranh chấp lao động năm 1996 (PLTTGQCTCLĐ)….
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và đáp ứng yêu cầu của xã hội, tại kỳ
họp thứ 5 ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS).

1


Việc ban hành BLTTDS đã đánh dấu một bước phát triển mới của hệ thống
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, khắc phục tình trạng tản mạn trong các
quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết VVDS trước đó. Cụ thể là, trước
đây vấn đề về đình chỉ VVDS đối với mỗi tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao
động được quy định ở các văn bản riêng biệt, thiếu tính hệ thống. BLTTDS đã
pháp điển hóa các quy định về đình chỉ giải quyết VVDS trong một văn bản
chung, đảm bảo sự thống nhất trong áp dụng. Qua một thời gian thực hiện,
ngày 29 tháng 2 năm 2011, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLTTDS (LSĐBSBLTTDS). LSĐBSBLTTDS đã cơ bản khắc
phục những được hạn chế, vướng mắc của BLTTDS nói chung và quy định về
đình chỉ giải quyết VVDS nói riêng. Đây là một sự đổi mới có ý nghĩa quan
trọng của hệ thống pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam. Tuy vậy qua một

số năm thực hiện cho thấy, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành về đình chỉ giải quyết VVDS vẫn chưa thực sự rõ ràng, cụ thể dẫn đến
những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
Với lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Đình chỉ giải quyết vụ việc
dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành” làm đề tài luận
văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi BLTTDS được ban hành cũng đã có một số tác giả nghiên
cứu và có bài viết về vấn đề này như: bài viết “Vì sao những bản án kinh tế bị
hủy, bị sửa phải xét xử lại vụ án, phải đình chỉ việc giải quyết vụ án”của tác
giả Nguyễn Bá Châu đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2000. Sau khi
BLTTDS được cũng đã có một số tác ban hành giả tiếp tục nghiên cứu và có
bài viết như:“Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự” của tác giả Nguyễn Triều
Dương – Tạp chí Luật học số đặc san về BLTTDS; bài viết “Đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự” của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Nghiên cứu

2


lập pháp, số 7 (tháng 7/2005); bài “Quy định về đình chỉ trong BLTTDS”
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4 (41)/2007 của tác giả Tống Công
Cường; bài viết“Đình chỉ xét xử phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự ở Tòa án cấp phúc thẩm”của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên Tạp chí
Luật học số 7/2010; luận văn thạc sĩ “Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ
VDS theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004” của tác giả Phạm
Hải Tâm, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010... Tuy nhiên, mỗi
bài viết nghiên cứu vấn đề ở một góc độ khác nhau hoặc chỉ giải quyết những
khía cạnh riêng biệt về đình chỉ giải quyết VVDS. LSĐBSBLTTDS được ban
hành với một số điều khoản quy định về đình chỉ giải quyết VVDS cũng được
sửa đổi, bổ sung đáng kể. Từ khi Luật này có hiệu lực cho đến nay, chưa có

công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và đầy đủ những
quy định về đình chỉ giải quyết VVDS.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về đình chỉ giải
quyết VVDS; pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về đình chỉ giải quyết
VVDS và thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về đình
chỉ giải quyết VVDS ở các Toà án Việt Nam.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu làm
rõ một số vấn đề lý luận về đình chỉ giải quyết VVDS như khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa của đình chỉ giải quyết VVDS; những quy định của BLTTDS,
LSĐBSBLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành về đình chỉ giải quyết
VVDS. Những vấn đề khác liên quan đến đề tài này sẽ được tiếp tục nghiên
cứu khi có điều kiện.
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận về đình chỉ giải
quyết VVDS; nội dung các quy định đình chỉ giải quyết VVDS và việc thực

3


hiện chúng trên thực tế, từ đó đánh giá đúng thực trạng, nhận diện được
những bất cập và tìm ra các giải pháp khắc phục.
Để đạt được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ
sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về đình chỉ giải quyết VVDS
như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc đình chỉ giải quyết VVDS; cơ sở
khoa học của việc xây dựng các quy định về đình chỉ giải quyết VVDS; sự
phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về đình chỉ giải quyết VVDS;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng những quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành về đình chỉ giải quyết VVDS;

- Khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam hiện hành về đình chỉ giải quyết VVDS tại các Toà án, phát hiện
những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng;
- Tìm được các giải pháp nhằm khắc phục những bất cập, vướng mắc
về đình chỉ giải quyết VVDS.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, việc
nghiên cứu đề tài cũng được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu
khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp phân tích, so sánh, tổng
hợp... Từ đó, rút ra những đánh giá, kết luận và đề xuất các kiến nghị.
6. Những điểm mới và đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên
quan đến đình chỉ giải quyết VVDS, có những điểm mới và đóng góp cho khoa
học chuyên ngành luật dân sự và tố tụng dân sự ở những điểm sau đây:
- Hoàn thiện khái niệm, làm rõ đặc điểm và ý nghĩa của việc đình chỉ
giải quyết VVDS; cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về đình chỉ

4


giải quyết VVDS; sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về đình
chỉ giải quyết VVDS từ năm 1945 đến nay.
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về đình chỉ giải quyết VVDS và thực tiễn thực hiện tại
các Tòa án Việt Nam trong những năm gần đây.
- Phát hiện được những vướng mắc, bất cập trong các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về đình chỉ giải quyết VVDS và
thực tiễn thực hiện đồng thời đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn

thiện và thực hiện chúng có hiệu quả trên thực tế.
Luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện và thực
hiện các quy định của BLTTDS về đình chỉ giải quyết VVDS. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn cung cấp thêm một nguồn tài liệu phục vụ cho
việc nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật tố tụng dân sự tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu bởi 3 phần: Phần mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự và kiến nghị.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ
VIỆC DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐÌNH CHỈ GIẢI
QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự
Trước khi có BLTTDS, 03 (ba) pháp lệnh về thủ tục tố tụng
(PLTTGQCVADS, PLTTGQCVAKT, PLTTGQCTCLĐ) chỉ đề cập tới thuật
ngữ vụ án dân sự (VADS), vụ án kinh tế (VAKT) và vụ án lao động (VALĐ).
Theo đó, VADS bao gồm cả những việc tranh chấp và những việc không có
tranh chấp. VAKT bao gồm các tranh chấp về kinh tế. VALĐ bao gồm các
tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể. Theo tác giả

Hoàng Ngọc Thỉnh: “Trong hầu hết các vụ án dân sự đều có các tranh chấp
về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đương sự mà họ không thể thương lượng
tự giải quyết được, do đó họ phải yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Ngoài
những vụ án nói trên, cũng còn một số vụ án mà giữa các bên đương sự
không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ” [4, tr 7-8]. Tinh thần này được
tác giả tiếp tục khẳng định: “Có thể chia vụ án dân sự ra làm hai loại: Loại
thứ nhất là việc kiện dân sự... Loại thứ hai là việc dân sự” [5, tr 8]
BLTTDS và LSĐBSBLTTDS đã quy định hai loại trình tự, thủ tục
riêng là trình tự, thủ tục giải quyết VADS và trình tự, thủ tục giải quyết việc
dân sự. Dựa trên cơ sở quy định tại Điều 1 và các điều từ Điều 25 đến Điều
32, Điều 311 BLTTDS, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm về
VVDS. Theo Tiến sĩ Nguyễn Công Bình “Các vụ việc phát sinh từ quan hệ
pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động
do Tòa án giải quyết được gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những việc
có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự;

6


đối với những việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
được gọi là việc dân sự”[6, tr. 9]. Tiến sĩ Đinh Trung Tụng cũng đưa ra một
khái niệm tương tự theo hướng VVDS, bao gồm cả VADS có tranh chấp và
việc dân sự không có tranh chấp [4, tr.20].
Như vậy, từ khi BLTTDS được ban hành khái niệm VADS đã có sự
thay đổi về cơ bản. Trước đây, VADS bao gồm cả việc có tranh chấp dân sự
và việc không tranh chấp, trong khi đó VAKT và VALĐ chỉ bao gồm các việc
có tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, VVDS là một khái niệm rộng bao
hàm các việc tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp
luật về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động gọi
là VADS và các việc về dân sự, hôn nhân gia và gia đình, kinh doanh, thương

mại và lao động không có tranh chấp gọi là việc dân sự (VDS). Đối tượng cần
phải giải quyết trong VADS hoặc VDS chính là các quan hệ pháp luật nội
dung được xác định trên cơ sở các yêu cầu của đương sự trong VADS hoặc
VDS.
Tại Điều 1 Dự thảo BLTTDS sửa đổi trình Quốc hội tại Phiên họp thứ
40, Quốc hội khóa XIII, tháng 8/2015 (DTBLTTDS) có quy định về VVDS
như sau: “Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
(sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án
giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án....”
Như vậy, trên cơ sở kế thừa những quy định trước đó và tham khảo ý
kiến của các nhà nghiên cứu trong DTBLTTDS sửa đổi đã quy định khá chi

7


tiết, cụ thể khái niệm VVDS, theo đó VVDS bao gồm VADS và VDS được
giải quyết tại Tòa án.
Theo Từ điển tiếng Việt, “đình chỉ là ngừng lại hoặc làm cho phải
ngừng lại trong một thời gian hay vĩnh viễn”[35, tr. 324]. Theo định nghĩa
này, đình chỉ giải quyết VVDS là trường hợp việc giải quyết VVDS bị ngừng
lại vĩnh viễn. Theo Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, “đình chỉ vụ án là
việc các cơ quan tố tụng quyết định kết thúc vụ án khi có những căn cứ do
luật định” [18, tr. 134]. Trong tố tụng dân sự, thuật ngữ đình chỉ vụ án được
dùng với nghĩa là đình chỉ giải quyết vụ án. Cách định nghĩa này đi từ khái
niệm về đình chỉ vụ án nói chung tới đình chỉ giải quyết VADS trong tố tụng
dân sự (TTDS) nói riêng. Từ đó ta có thể hiểu rộng ra đình chỉ giải quyết

VADS là một trong những cách thức để cơ quan tố tụng kết thúc vụ án khi có
những căn cứ luật định. Tuy vậy, xoay quanh khái niệm đình chỉ giải quyết
VADS cũng có nhiều quan điểm, giải thích khác nhau:
Theo tác giả Tống Công Cường: “Đình chỉ giải quyết vụ án là chấm dứt
tố tụng dân sự khi có những căn cứ nhất định mà không thông qua xét xử hay
hòa giải” [1, tr. 290]. Quan điểm này cũng đã chỉ ra được hậu quả pháp lý của
đình chỉ giải quyết VADS là làm chấm dứt mọi hoạt động tố tụng. Tuy nhiên,
định nghĩa này chưa nêu lên được căn cứ đình chỉ phải do pháp luật quy định
cũng như thẩm quyền đình chỉ thuộc về cơ quan nào. Mặt khác, quan điểm này
cho rằng đình chỉ giải quyết VADS là chấm dứt tố tụng không qua xét xử hay
hòa giải cũng chưa chính xác. Bởi theo quy định tại Điều 265 BLTTDS sửa đổi
thì Tòa án vẫn có thể có quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm tại phiên tòa. Điều đó
có nghĩa việc đình chỉ giải quyết vụ án vẫn có thể được thực hiện khi vụ án đã
được hòa giải không thành và đưa ra xét xử tại phiên tòa.
Theo Tiến sỹ Nguyễn Công Bình, đình chỉ giải quyết VADS là việc
“Tòa án ngừng việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý...Việc đình chỉ giải

8


quyết vụ án có thể được tiến hành ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm” [4. tr. 190-191]. Tiến sĩ Hoàng Ngọc Thỉnh cho rằng:
“Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết định ngừng việc giải
quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định”[1. tr 270].
Cũng theo tác giả này, “Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án chấm
dứt hoàn toàn các hoạt động tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án
[11.tr. 354]. Có thể nói đó là những quan điểm khá đầy đủ về đình chỉ giải
quyết VADS, đã phản ánh được nội dung, bản chất và hậu quả pháp lý của nó.
Tác giả đã thể hiện được cách nhìn của mình về đình chỉ dưới góc độ là một
quyết định kết thúc việc giải quyết VADS.

Như vậy, các tác giả nói trên đã đưa ra khái niệm về đình chỉ giải quyết
VADS ở nhiều góc độ khác nhau nhưng chưa đưa ra một khái niệm về đình
chỉ giải quyết VVDS nói chung. Xét về thực tế, VADS và VDS tuy là những
khái niệm khác nhau nhưng chúng đều thuộc nội hàm của khái niệm rộng hơn
là VVDS. Vấn đề đặt ra là đình chỉ giải quyết VADS và đình chỉ giải quyết
VVDS có cùng bản chất và căn cứ pháp lý hay không?
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu lý luận đã phân tích ở trên,
trước khi có BLTTDS không có sự phân biệt giữa VADS và VDS mà VADS
bao gồm cả những việc tranh chấp và những việc không có tranh chấp. Do
vậy, việc đình chỉ giải quyết VADS được hiểu là đình chỉ giải quyết những
việc kiện có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các đương sự hoặc đình chỉ
giải quyết những việc không có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các đương
sự mà Tòa án đã thụ lý. Ngoài ra, trong những vụ án có nhiều quan hệ pháp
luật cần giải quyết (bao gồm cả quan hệ pháp luật có tranh chấp và quan hệ
pháp luật mà các bên có sự thỏa thuận hoặc chỉ yêu cầu Tòa án xác định một
sự kiện pháp lý) thì đình chỉ giải quyết vụ án ở đây lại được hiểu theo nghĩa
rộng. Có nghĩa là chấm dứt việc xem xét, quyết định về toàn bộ các quan hệ

9


pháp luật cần phải giải quyết trong vụ án (bao gồm cả quan hệ pháp luật có
tranh chấp và quan hệ pháp luật không có tranh chấp). Từ khi có BLTTDS thì
mới phân biệt VADS là việc có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các đương
sự và VDS là việc không có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các đương sự.
Như vậy, có thể suy luận rằng đình chỉ giải quyết VADS và đình chỉ giải
quyết VVDS đều cùng dựa trên những căn cứ nhất định.
Xét về thực tế, sau khi Tòa án thụ lý vụ việc, trong quá trình giải quyết
VADS hoặc VDS có thể phát hiện các tình tiết, sự kiện làm cho việc giải
quyết VADS hoặc VDS không thể tiếp tục được mà căn nguyên là do Tòa án

đã thụ lý vụ việc khi VADS hoặc VDS không thỏa mãn các điều kiện của việc
thụ lý theo quy định của pháp luật. Do vậy, để khắc phục những sai lầm này,
Tòa án cần phải chấm dứt ngay việc giải quyết vụ việc mà mình đã thụ lý.
Ngoài ra cũng có những trường hợp việc thụ lý vụ việc của Tòa án là đúng
pháp luật nhưng trong quá trình giải quyết đã phát sinh một số sự kiện làm
cho đối tượng của VVDS cần phải giải quyết không còn nữa, khi đó Tòa án
cũng cần phải chấm dứt việc giải quyết VVDS. Tùy theo trường hợp, việc
chấm dứt giải quyết VVDS có thể được tiến hành ở cấp tòa sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Từ những phân tích trên và kế thừa các kết quả nghiên cứu của những nhà
nghiên cứu trước đây, có thể rút ra kết luận về đình chỉ giải quyết VVDS như
sau: “Đình chỉ giải quyết VVDS là việc Tòa án quyết định ngừng hẳn việc giải
quyết VADS hoặc VDS đã thụ lý khi có những căn cứ do pháp luật quy định
và sau khi quyết định đình chỉ giải quyết VVDS có hiệu lực pháp luật thì
đương sự không có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc đó
nữa, trừ những trường hợp đặc biệt mà pháp luật có quy định khác.”
1.1.2. Đặc điểm của đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự
Việc đình chỉ giải quyết VVDS có những đặc điểm sau đây:

10


Thứ nhất, đình chỉ giải quyết VVDS là một quyết định kết thúc việc
giải quyết một VADS hoặc VDS.
Đây là điểm khác biệt cơ bản của đình chỉ giải quyết VVDS với tạm
đình chỉ giải quyết VVDS. Tạm đình chỉ giải quyết VVDS được hiểu là việc
Tòa án quyết định tạm ngừng việc giải quyết VADS hoặc VDS đã thụ lý
trong một thời hạn nhất định khi có những căn cứ do pháp luật quy định; khi
lý do của việc tạm đình chỉ không còn thì Tòa án lại tiếp tục giải quyết VADS
hoặc VDS đó. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VVDS chỉ có ý nghĩa về

mặt thủ tục chứ không có ý nghĩa về việc giải quyết nội dung vụ việc. Trong
khi đó, đình chỉ giải quyết VVDS có ý nghĩa kết thúc cả về mặt thủ tục lẫn
giải quyết nội dung vụ án. Khi VVDS bị đình chỉ giải quyết, các hoạt động tố
tụng giải quyết VVDS sẽ ngừng hẳn, Tòa án sẽ xóa sổ thụ lý đối với VVDS,
việc giải quyết VVDS không được khôi phục lại, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì việc giải quyết vụ
việc mới được tiến hành lại sau khi đương sự khởi kiện lại hay yêu cầu lại và
đương sự phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về án phí, lệ phí cho lần khởi kiện,
lần yêu cầu mới này. Như vậy, điểm khác biệt cơ bản nhất giữa tạm đình chỉ
giải quyết VVDS và đình chỉ giải quyết VVDS đó là tạm đình chỉ là “tạm
ngừng”, còn đình chỉ là “ngừng hẳn” mọi hoạt động tố tụng đối với VADS
hay VDS đó. Hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ là Tòa án sẽ tiếp tục giải
quyết VADS và VDS khi lý do tạm đình chỉ không còn đối với đình chỉ giải
quyết VVDS là chấm dứt hoàn toàn và đương sự không có quyền khởi kiện
hay yêu cầu Tòa án giải quyết VVDS đó, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Ngoài ra, từ đặc điểm này của đình chỉ giải quyết VVDS cũng giúp
chúng ta có thể phân biệt với đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự trong
VADS tại Tòa án cấp sơ thẩm. Như đã nêu ở trên, đối tượng mà Tòa án phải
giải quyết trong VVDS được xác định trên cơ sở yêu cầu của bên đương sự.

11


Trong một VADS đương sự có thể đưa ra nhiều yêu cầu khác nhau về giải quyết
một quan hệ pháp luật hoặc các quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau như
yêu cầu trả nhà cho thuê và bồi thường thiệt hại do sử dụng nhà gây ra v.v...Hoặc
trong VADS có nhiều đương sự cùng đưa ra yêu cầu như nhiều người được thừa
kế yêu cầu chia thừa kế, nhiều người bị thiệt hại do nhà máy thải chất thải gây ô
nhiễm môi trường kiện đòi bồi thường thiệt hại v.v... Trong trường hợp, nếu
các đương sự đều rút yêu cầu của mình hoặc tự hòa giải được thì đối tượng

của VVDS không còn và Tòa án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS
hoặc VDS đã thụ lý. Tuy vậy, đối với những trường hợp trong VADS đương
sự đưa ra nhiều yêu cầu nhưng không rút hết yêu cầu hoặc trong vụ án có
nhiều đương sự đưa ra yêu cầu mà có đương sự rút yêu cầu nhưng đương sự
khác vẫn giữ yêu cầu của mình thì Tòa án không ra quyết định đình chỉ giải
quyết VADS mà chỉ quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự đã
rút, những yêu cầu còn lại Tòa án vẫn phải xem xét, giải quyết. Thực chất đây
là trường hợp trong VADS có nhiều quan hệ pháp luật phải giải quyết và Tòa
án chỉ đình chỉ giải quyết một phần của VADS.
Thứ hai, đình chỉ giải quyết VVDS phải dựa trên những căn cứ mà
pháp luật đã quy định trước chứ không được tiến hành tùy tiện theo ý chí chủ
quan của Tòa án.
Để đảm bảo việc giải quyết VVDS một cách khách quan, đúng đắn và
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật quy định cụ thể
các căn cứ đình chỉ giải quyết VVDS. Theo đó, các căn cứ đình chỉ giải quyết
VVDS ở các Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm và tái
thẩm không giống nhau. Trong quá trình giải quyết VVDS, căn cứ vào các
căn cứ đình chỉ giải quyết VVDS do pháp luật quy định, Tòa án ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ việc theo đúng thẩm quyền, trình tự và thủ tục quy

12


định. Tòa án không được ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc một cách
tùy tiện khi không có những căn cứ do pháp luật quy định.
Thứ ba, việc đình chỉ giải quyết VVDS trước phiên tòa do Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ việc quyết định; việc quyết định có đình chỉ
giải quyết VADS tại phiên tòa hay không do Hội đồng xét xử, Hội đồng giải
quyết VDS hoặc Thẩm phán phụ trách giải quyết VDS quyết định.
Việc đình chỉ giải quyết VVDS có thể được tiến hành ở cấp sơ thẩm,

phúc thẩm hay ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc đình chỉ giải quyết
VADS ở Tòa án cấp sở thẩm, phúc thẩm có thể thực hiện trước hoặc trong
phiên tòa. Quá trình giải quyết VVDS trước phiên tòa chủ yếu do Thẩm phán
tiến hành, do đó trước phiên tòa mà phát hiện có căn cứ đình chỉ giải quyết
VVDS thì Thẩm phán có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết
VVDS. Việc giải quyết VADS tại phiên tòa do Hội đồng xét xử thực hiện, vì
vậy tại phiên tòa mà phát hiện có căn cứ đình chỉ giải quyết VADS thì Hội
đồng xét xử có thẩm quyền quyết định. Việc giải quyết VDS ở phiên họp giải
quyết VDS có thể do Thẩm phán hoặc Hội đồng giải quyết VDS thực hiện, do
vậy nếu việc giải quyết VDS trước phiên họp do Thẩm phán thực hiện thì
Thẩm phán quyết định còn nếu việc giải quyết VDS ở phiên họp do Hội đồng
giải quyết VDS thực hiện thì Hội đồng giải quyết VDS quyết định.
Thứ tư, hậu quả của đình chỉ giải quyết VVDS là mọi hoạt động tố tụng
giải quyết VVDS đều phải chấm dứt.
Khi ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS hoặc VDS, Tòa án không
tiến hành thêm bất cứ hoạt động nào để giải quyết VVDS đó nữa. Tòa án sẽ
xóa sổ thụ lý và đương sự không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết lại
VVDS, trừ trường hợp pháp luật có quy định.

13


Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt đình chỉ giải quyết VVDS với
tạm đình chỉ giải quyết VVDS. Tạm đình chỉ giải quyết VVDS không có hậu
quả pháp lý làm ngừng hẳn các hoạt động tố tụng giải quyết VVDS mà chỉ
làm tạm ngừng việc giải quyết VVDS, khi lý do của tạm đình chỉ giải quyết
VVDS không còn nữa, Tòa án lại tiếp tục giải quyết VVDS. Ngoài ra, đặc
điểm này cũng giúp chúng ta phân biệt đình chỉ giải quyết VVDS tại Tòa án
cấp phúc thẩm với và đình chỉ xét xử phúc thẩm. Đình chỉ xét xử phúc thẩm
không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của đương sự về mặt nội dung mà

chỉ chấm dứt thủ tục tố tụng phúc thẩm. Nói cách khác, đình chỉ xét xử phúc
thẩm làm chấm dứt hoạt động xét xử phúc thẩm đối với vụ án có kháng cáo,
kháng nghị nhưng cũng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án,
quyết định sơ thẩm, theo đó những quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết
định sơ thẩm của các đương sự phải được tôn trọng và thi hành. Thời điểm
đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể trước phiên tòa, phiên họp phúc thẩm hoặc
tại phiên tòa, phiên họp phúc thẩm. Hình thức văn bản được áp dụng chung là
quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nếu đình chỉ xét xử phúc thẩm trước
phiên tòa, phiên họp thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do
Thẩm phán được phân công phụ trách giải quyết VVDS quyết định, còn tại
phiên tòa, phiên họp phúc thẩm do Hội đồng xét xử phúc thẩm VADS, Hội
đồng giải quyết phúc thẩm VDS quyết định. Quyết định đình chỉ xét xử phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.
Như vậy, đình chỉ giải quyết phúc thẩm VVDS khác với đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với kháng cáo, kháng nghị. Việc đình chỉ giải quyết VVDS có
thể được thực hiện ở Tòa án cấp phúc thẩm khi có những căn cứ mà pháp luật
quy định nhưng bản chất của nó là làm chấm dứt hoàn toàn việc giải quyết vụ
việc đã được thụ lý từ cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án, quyết
định sơ thẩm và ngừng hẳn mọi hoạt động tố tụng, vụ việc được xóa sổ và coi
14


như không còn tồn tại. Trong khi đó, đình chỉ xét xử phúc thẩm chỉ áp dụng
đối với trường hợp có việc rút một phần hay toàn bộ kháng cáo, kháng nghị
phúc thẩm. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm không dẫn tới hậu quả Tòa án cấp
phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm và xóa sổ thụ lý vụ án mà trái lại
bản án, quyết định sơ thẩm vẫn có thể có hiệu lực pháp luật.
1.1.3. Ý nghĩa của đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự
Như đã phân tích ở trên, trong nhiều trường hợp sau khi đã thụ lý vụ
việc, Tòa án mới phát hiện được VVDS đã được thụ lý mà không thỏa mãn

các điều kiện của việc thụ lý theo quy định pháp luật. Do vậy, trong những
trường hợp này, việc Tòa án đình chỉ giải quyết VVDS chấm dứt việc giải
quyết vụ việc mà mình đã thụ lý sẽ khắc phục được những sai lầm do việc thụ
lý VVDS không đúng, đảm bảo được giải quyết VVDS một cách khách quan,
chính xác và đúng pháp luật.
Đối với những trường hợp việc thụ lý VVDS của Tòa án là đúng pháp
luật nhưng trong quá trình giải quyết VVDS đã phát sinh một số sự kiện làm
cho đối tượng của VVDS cần phải giải quyết tại Tòa án không còn nữa. Trong
những trường hợp này, việc quyết định đình chỉ giải quyết VVDS có ý nghĩa
giúp cho Tòa án nhanh chóng quyết định về vụ việc khi đối tượng cần giải
quyết trong vụ việc không còn hoặc quyền lợi của đương sự đã chấm dứt mà
không có sự kế thừa giải phóng cho các bên đương sự, đặc biệt là bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khỏi việc tham gia tố tụng vốn bị coi
là một nghĩa vụ bắt buộc đối với họ.
Đình chỉ giải quyết VVDS cũng có ý nghĩa bảo đảm quyền tự định đoạt
của các đương sự. Trong tố tụng dân sự các đương sự có quyền tự định đoạt
nên sau khi đưa ra yêu cầu khởi kiện VADS, yêu cầu giải quyết VDS mà
nguyên đơn, người yêu cầu rút tất cả các yêu cầu của họ thì đối tượng giải
quyết VVDS không còn nên Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VVDS.
Việc Tòa án đình chỉ giải quyết VVDS trong những trường hợp này vừa bảo

15


đảm quyền tự định đoạt của các đương sự vừa tránh cho đương sự không phải
tốn kém tiền bạc và thời gian tham gia tố tụng.
Ngoài ra, việc đình chỉ giải quyết VVDS cũng tiết kiệm thời gian, công
sức, chi phí cho cả Nhà nước. Khi Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết
VVDS một cách đúng đắn sẽ làm quá trình giải quyết vụ việc nhanh gọn, Tòa
án không phải kéo dài thời giải giải quyết vụ việc, thậm chí không phải mở

phiên tòa, phiên họp để giải quyết vụ việc. Nhờ đó gánh nặng về số VVDS
cần phải giải quyết được giảm tải, Tòa án có điều kiện tập trung giải quyết các
vụ việc cần thiết khác để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁP LUẬT
QUY ĐỊNH VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ

1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về đình chỉ giải quyết
vụ việc dân sự
Việc Tòa án chấm dứt giải quyết VVDS mà mình đã thụ lý là nhằm
khắc phục những sai lầm do việc thụ lý vụ việc không đúng đem lại hoặc giải
phóng cho các bên đương sự, đặc biệt là bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan khỏi việc tham gia tố tụng vốn bị coi là một nghĩa vụ bắt buộc đối
với họ. Tuy nhiên, việc xác định căn cứ đình chỉ giải quyết vụ việc không hợp
lý có thể dẫn tới quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn, người yêu cầu sẽ không
được Tòa án xem xét giải quyết và quyền tiếp cận công lý của công dân
không được đảm bảo nếu như trong trường hợp đó việc khởi kiện, yêu cầu lại
của đương sự không được pháp luật ghi nhận. Theo kết quả nghiên cứu thì
việc đình chỉ giải quyết VVDS có thể được dựa trên một số sự kiện như sự sai
lầm trong việc thụ lý vụ việc; đối tượng của việc giải quyết không còn do
đương sự chết, sự việc đã được giải quyết, các bên đã tự hòa giải hoặc từ bỏ
việc khởi kiện, yêu cầu hoặc được suy đoán là đã từ bỏ quyền khởi kiện,
quyền yêu cầu..... Cụ thể như sau:
- Phát hiện việc Tòa án thụ lý vụ việc không đúng.

16


Quyền khởi kiện, quyền yêu cầu là quyền quan trọng mà đương sự có
thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo
sự ổn định của các quan hệ pháp luật, trong một số trường hợp, nhà lập pháp

đã giới hạn việc thực hiện quyền khởi kiện, quyền yêu cầu của mình trong
một thời hiệu nhất định. Theo đó, để tránh tình trạng một vụ việc lại có nhiều
cách giải quyết khác nhau gây mất niềm tin của đương sự vào công lý, nhà lập
pháp cũng quy định việc thực hiện quyền khởi kiện, quyền yêu cầu chỉ được
thực hiện nếu trước đó sự việc chưa được Tòa án giải quyết bằng bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Pháp luật cũng đòi hỏi người thực hiện
quyền khởi kiện, quyền yêu cầu phải là chủ thể có quyền khởi kiện, quyền
yêu cầu, có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, có đủ điều kiện để thực
hiện việc khởi kiện ra Tòa án. Ngoài ra, Tòa án cũng chỉ có thẩm quyền thụ lý
vụ việc nếu sự việc thuộc thẩm quyền về dân sự của Tòa án.
Như vậy, quyền khởi kiện, quyền yêu cầu là quyền quan trọng mà
đương sự có thể sử dụng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mình, tuy nhiên,
như đã phân tích ở trên, pháp luật đã quy định đương sự chỉ có thể thực hiện
quyền này khi thỏa mãn các điều kiện nhất định. Thế nhưng trên thực tế,
nhiều trường hợp do thiếu thận trọng, Tòa án đã thụ lý cả những vụ việc
không đảm bảo các điều kiện thụ lý mà pháp luật quy định. Những sai sót này
cần được khắc phục thông qua việc chấm dứt giải quyết vụ việc mà Tòa đã
thụ lý. Nếu Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ việc mặc dù biết những vụ việc
này không đủ điều kiện thụ lý thì sai lầm của Tòa án càng trở nên nghiêm
trọng và có thể gây tổn hại cho quyền lợi của bên bị đơn. Hơn nữa, việc tiếp
tục giải quyết vụ việc trong những trường hợp nêu trên đồng nghĩa với việc
Tòa án đã đi ngược lại tinh thần và mục đích của các quy định mà các nhà lập
pháp đã xây dựng. Do đó, khi vụ việc đã được Tòa án thụ lý mặc dù không

17


×