Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Quyền của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THU HƯƠNG

QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: QUYỀN CON NGƯỜI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ MAI THANH

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Học viện Khoa
học Xã hội Việt Nam.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN



Đặng Thị Thu Hương


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1

1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT

6

1.1

Khái niệm và đặc điểm quyền của người khuyết tật

6

1.2

Nội dung quyền của người khuyết tật

11

1.3

Các yếu tố bảo đảm quyền của người khuyết tật


19

1.4

Pháp luật và cơ chế bảo đảm quyền của người khuyết tật

25

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
NGƯỜI KHUYẾT TẬT

33

2.1

Thực trạng pháp luật bảo đảm quyền dân sự, chính trị
của người khuyết tật

33

2.2

Thực trạng pháp luật bảo đảm quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa của người khuyết tật

37

2.3


Đánh giá cơ chế pháp lý bảo đảm quyền của người
khuyết tật

51

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT

54

3.1

Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của
người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay

54

3.2

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật tại Việt Nam

61

Chương 2

Chương 3

KẾT LUẬN


75

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

78
84


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ LĐ-TB & XH

: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

CRC

: Công ước quốc tế về quyền trẻ em

CRPD

: Công ước về quyền của người khuyết tật 2006

CEDAW
ECOSO

: Công ước về xóa bỏ hình thức phân biệt đối xử với
nữ kinh tế và xã hội
Hội đồng
: phụ


HĐBA

: Hội đồng Bảo an

HĐQT

: Hội đồng quản thác

ICCPR

: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
năm 1966

ICESCR

: Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa năm 1966

ILO

: Tổ chức Lao động thế giới

LHQ

: Liên Hợp Quốc

NKT

: Người khuyết tật


PHCN

: Phục hồi chức năng

UNCHR

: Văn phòng cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn

UNESCO

: Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên
hợp quốc
: Chương trình phát triển của Liên hợp quốc
: Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc
: Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc
: Tổ chức y tế thế giới

UNDP
UNHRC
UNCEEF
WHO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng
định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân [33]. Điều đó có nghĩa rằng, việc đảm bảo sự bình đẳng trong cơ

hội tiếp cận và thực hiện các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tất cả
mọi tầng lớp dân cư trong xã hội là nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình xây dựng
và hoàn thiện một nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. NKT là những
người bị khiếm khuyết về mặt thể chất hoặc tinh thần trong một thời gian dài khiến
họ không thế thực hiện được các quyền của mình một cách đầy đủ như những người
bình thường khác. Đây được xem là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương
và phải chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Do vậy, họ luôn cần nhận được sự
quan tâm trợ giúp của gia đình, Nhà nước và toàn xã hội.
Với truyền thống nhân đạo, đoàn kết của dân tộc và chủ trương xây dựng một
xã hội công bằng, văn minh, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm tới chính sách đối
với NKT. Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật NKT và ngày 28/11/2014 Quốc hội Việt
Nam đã phê chuẩn Công ước LHQ về quyền của NKT.
Hiện nay, các vấn đề về thực hiện việc bảo đảm quyền của NKT còn nhiều bất
cập. Luật NKT đã được Quốc hội thông qua, nhưng quyền của NKT lại được ghi
nhận tại nhiều văn bản pháp luật, thiếu tính đồng bộ, chưa có một hệ thống Luật,
nghị định riêng biệt. Các cơ quan nghiên cứu chính sách, các đề tài nghiên cứu về
quyền của NKT còn ít về số lượng, hạn chế về nội dung. Việc tuyên truyền tới
người dân chưa được quan tâm đúng mức nên mức độ thực thi quyền của NKT
trong xã hội là rất khiêm tốn. Do đó, NKT vẫn bị phân biệt đối xử, bị miệt thị, bị
lạm dụng và lãng quên.
Nhằm tìm hiểu rõ hơn quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trên cũng
1


như đưa ra một số ý kiến để hoàn thiện pháp luật liên quan đến NKT, học viên đã
lựa chọn chủ đề “Quyền của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam” để làm đề
tài luận văn tốt nghiệp Cao học Luật, chuyên ngành Quyền con người hy vọng sẽ
góp phần nhỏ bé vào việc phát triển, hoà nhập đời sống cộng đồng xã hội và bảo
đảm thực hiện các quyền của NKT.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền của NKT, pháp luật về quyền của NKT liên quan đến mọi
quốc gia trên thế giới, cho nên đã có một số công trình khoa học nghiên cứu
trong và ngoài nước dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nói
trên còn để lại nhiều khoảng trống, chưa đề cập một cách toàn diện nội dung,
tính khả thi của pháp luật về quyền của NKT. Chưa có công trình nào tiếp cận
dưới góc độ quyền con người để nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
của pháp luật về quyền của NKT.
Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau:
- Quyền con người và người khuyết tật ( Human Rights and disability) do tập
thể tác giả Gerard Quinn, Theresia Degener, Anna Bruce, Chritstine Burke,
Dr.Johua Castellino, Pacdraic Kenna, Dr. Ursula Kilkelly, Shivaun Quinlivan trong
các ấn phẩm của LHQ xuất bản.
- Báo cáo của UNICEF và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội năm 2009
nghiên cứu về việc “Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam: đánh giá
luật và những chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có những hoàn cảnh đặc
biệt tại Việt Nam”
- Sách "Quyền con người và người tàn tật” (Vũ Ngọc Bình - Nxb Lao động Xã hội, H, 2001).
- Đề tài “Đánh giá việc thực hiện Bộ luật lao động đối với lao động là người
tàn tật và pháp lệnh người tàn tật” - Nguyễn Thị Diệu Hồng- Bộ Lao động, thương
binh và xã hội, thực hiện năm 2002.
- Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Báo - Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia với đề tài: Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở
2


Việt nam hiện nay, năm 2008.
- Luận án Tiến sĩ giáo dục học của Nguyễn Thị Hoàng Yến với đề tài: Các biện
pháp tổ chức giáo dục hoà nhập giúp trẻ em khuyết tật thính giác vào lớp 1.
- Bảo vệ một số quyền cơ bản của NKT: so sánh pháp luật Việt Nam với công

ước của Liên hợp quốc về quyền của NKT – ThS. Đinh Thị Cẩm Hà, Nxb Đại học
Quốc gia TP Hồ Chí Minh – 2011
- Sách "Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam" (Nxb Thế giới,
H, 2005) là công trình nghiên cứu tập thể của nhóm tác giả: Lê Bạch Dương, Đặng
Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung và Robert Leroy Bách.
- Báo cáo của UNICEF và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội năm 2009
nghiên cứu về việc “Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam: đánh giá
luật và những chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có những hoàn cảnh đặc
biệt tại Việt Nam”;
- Hoàng Thị Kim Quế (2010), Chủ nhiệm đề tài, “Hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Đề tài nghiên cứu khoa học,
Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.
Tuy vậy, tất cả các công trình trên, dù tiếp cận dưới góc độ chính sách pháp
luật, giáo dục, đào tạo NKT, chăm sóc sức khoẻ NKT hoặc đánh giá quá trình thực
hiện pháp luật lao động liên quan đến đối tượng là NKT trong quá trình tìm việc
làm và tiếp cận xã hội trong các lĩnh vực khác nhau thì cũng đã có những nội dung
liên quan tới việc bảo đảm quyền của NKT. Tuy vậy hiện nay chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách trực tiếp và có hệ thống về toàn bộ các quy định
của pháp luật về quyền NKT ở Việt Nam. Luận văn sẽ góp phần làm phong phú hơn
nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm kiến thức về việc bảo đảm
quyền của NKT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Qua nghiên cứ các đặc điểm, nội dung của quyền người
khuyết tật nhằm để làm sáng tỏ các vấn đề về bảo vệ quyền của người khuyết tật
trong pháp luật pháp luật Việt Nam từ đó xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề
3


xuất các giải pháp pháp lý nhằm tôn trọng, bảo vệ quyền của người khuyết tật, góp
phần nâng cao vị thế của NKT , tạo cơ hội cho NKT bình đẳng và hòa nhập cộng

đồng xã hội.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu đã đề ra, luận văn có nhiệm vụ:

- Hệ thống hóa và tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về
quyền của NKT.

- Nghiên cứu các đặc điểm nội dung về quyền của NKT.
- Nghiên cứu pháp luật và cơ chế bảo vệ quyền của NKT.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quyền cảu người khuyết tật.
- Đề xuất phương hướng và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
nhằm bảo đảm quyền của NKT ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Pháp luật Việt
Nam trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền của người khuyết tật.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật Việt Nam về Quyền của người khuyết tật trên
cơ sở đặc thù riêng có về thể chất của NKT.
Phạm vi không gian: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của
người khuyết tật dựa trên các số liệu trong thời gian từ năm 2010-2016, là thời gian
mà Quốc hội Việt Nam ban hành Luật người khuyết tật và Công ước quốc tế về
quyền của người khuyết tật được ban hành năm 2006 có hiệu lực.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa
Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề NKT; quan điểm của cộng đồng
quốc tế về quyền của NKT; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về bảo đảm thực hiện quyền của NKT.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích – tổng hợp, xã hội
học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận văn cũng khai
thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho
4



các luận điểm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận
về quyền của NKT và pháp luật về quyền của NKT, giúp người đọc nhận thức đầy
đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền của NKT.
Luận văn cũng nêu lên thực trạng và những bất cập trong pháp luật về việc bảo
đảm thực hiện quyền của NKT ở Việt Nam, từ đó nêu ra một số giải pháp cho việc
bảo đảm quyền của NKT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên phương diện
thực tiễn luận văn có giá trị tham khảo trong tư vấn chính sách, pháp luật về quyền
của người khuyết tật
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết cấu gồm
3 chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền của người khuyết tật.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền của người khuyết tật.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền
của người khuyết tật.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền của người khuyết tật
1.1.1.


Khái niệm quyền của người khuyết tật

1.1.1.1. hái niệm Người khuyết tật
Người khuyết tật là một bộ phận dân cư trong xã hội loài người. NKT có ở tất
cả các nước trên thế giới. Theo thống kê gần đây của Tổ chức Y tế thế giới (WHO),
tổng số NKT vào khoảng 650 triệu, chiếm 10% dân số thế giới [35, tr.288]. Ở Việt
Nam, theo thống kê của Bộ Lao động và thương binh xã hội, hiện có khoảng 6,7
triệu NKT chiếm khoảng 7% dân số. Các nguyên nhân gây khuyết tật ở Việt Nam
rất đa dạng: do bẩm sinh (35,8%), do bệnh tật (32,34%), do hậu quả chiến tranh
(25,56%), do tai nạn lao động (3,49%) và do các nguyên nhân khác (2,81%) [38].
Dự báo trong nhiều năm tới NKT được coi là một trong những nhóm thiểu số lớn
nhất thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất (bên cạnh các
nhóm người dễ bị tổn thương khác như: phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người dân
tộc thiểu số…), vì tình trạng khuyết tật khiến họ phải chịu những thiệt thòi trên các
phương diện của đời sống xã hội.
Có hai quan điểm khác nhau về NKT đó là: Quan điểm khuyết tật cá nhân và
quan điểm khuyết tật xã hội.
Quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế.
Quan điểm này cho rằng NKT là do hạn chế cá nhân, là ở chính con người đó, chú
trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố môi trường xã hội và môi trường vật thể
xung quanh NKT [34 tr.78]. Quan điểm này cho rằng NKT có thể hưởng lợi từ
phương pháp khoa học như thuốc điều trị và các công nghệ cải tiến chức năng. Mô
hình y tế chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã
hội. Như vậy mô hình y tế nhìn nhận NKT là vấn đề đưa ra và đưa ra giải pháp để
làm người đó “bình thường”. Với quan điểm này xã hội đã coi NKT là những người

6


có vấn đề về thể chất và cần phải chữa trị. Do đó đã đẩy những NKT vào thế bị

động của người bệnh.
Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: Đây được coi là nền tảng của
những chuyển biến của vấn đề NKT. Ở đây, NKT được nhìn nhận là hệ quả bị xã
hội phân biệt. Bởi vì xã hội được tổ chức không tốt nên NKT bị phân biệt đối xử.
Ngày 17/6/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật NKT, có hiệu lực từ
01/01/2011, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết tật” thay cho khái niệm
“Người tàn tật”, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới về vấn đề
NKT. Theo đó thì: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ
phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao
động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [48].
Ở đây ta có thể hiểu NKT bao gồm cả những người bị khuyết tật bẩm sinh,
người bị khiếm khuyết do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh.... Như vậy,
Luật người khuyết tật Việt Nam đã đưa ra khái niệm NKT dựa vào mô hình xã hội,
tuy nhiên còn chung chung so với khái niệm NKT của Công ước về quyền của NKT
Như vậy, ta có thể thấy định nghĩa về NKT dù tiếp cận dưới bất cứ góc độ nào, nhất
thiết phải phản ánh thực tế là NKT có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi
trường hoặc con người khi tham gia vào mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Họ
phải được đảm bảo rằng họ có quyền và trách nhiệm tham gia vào mọi hoạt động
của đời sống như bất cứ công dân nào với tư cách là các quyền của con người.Với
cách tiếp cận đó, có thể hiểu định nghĩa người khuyết tật theo quy định của Công
ước quốc tế về quyền của NKT như sau:
“NKT bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay
giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản
có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của những người khuyết tật vào xã hội
trên cơ sở bình đẳng với những người khác” [24].
1.1.1.2 Khái niệm quyền của người khuyết tật
NKT trước hết là con người, nói tới NKT là ta nói tới một nhóm người và
NKT là nhóm người dễ bị tổn thương nhất trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương

7



(bên cạnh các nhóm như: phụ nữ, trẻ em, người thiểu số...). Bởi vậy, để đi đến khái
niệm về quyền của NKT, trước tiên ta phải tìm hiểu một loạt các khái niệm như:
Quyền con nguời? Quyền của nhóm? Quyền của nhóm người dễ bị tổn thương?
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người tuy nhiên định nghĩa của
Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu,
theo đó: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ
các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại
đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. Bên cạnh đó,
nhân quyền còn được định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn
có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như
một con người. Trong thực tế ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người”,
có một thuật ngữ khác cũng được sử dụng, đó là “nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ
này đều bắt nguồn từ thuật ngữ chung bằng tiếng Anh được sử dụng trong môi
trường quốc tế, đó là human rights. Từ human rights trong tiếng Anh có thể được
dịch là quyền con người (thuần Việt) hoặc nhân quyền (Hán - Việt). Theo Đại Từ
điển Tiếng Việt, “nhân quyền” chính là “quyền con người”. Như vậy, xét về mặt
ngôn ngữ học, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa, do đó, hoàn
toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực
tiễn về nhân quyền [36, tr.22,23].
Nếu như quyền cá nhân được hiểu là các quyền thuộc về mỗi cá nhân, bất kể
họ có hay không là thành viên của bất kỳ một nhóm xã hội nào, và việc hưởng thụ
các quyền này là tùy thuộc ý chí của mỗi cá nhân thì ngược lại, theo nghĩa rộng
của nó, quyền của nhóm được hiểu là những quyền đặc thù, chung của một tập thể
hay một nhóm xã hội nhất định, mà để được hưởng thụ các quyền này cần phải là
thành viên của nhóm, và đôi khi cẩn phải thực hiện cùng với các thành viên khác
của nhóm [34, tr.14].
Khái niệm các nhóm người dễ bị tổn thương được sử dụng rất phổ biến trong
các văn kiện pháp lý quốc tế và trong các hoạt động nghiên cứu, thực tiễn về quyền

con người trên thế giới. Khái niệm này chỉ những nhóm, cộng đồng có vị thế về

8


chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ
quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ
đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Một số nhóm người được coi
là dễ bị tổn thương trong luật quốc tế về quyền con người bao gồm: phụ nữ, NKT,
người sống chung với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không
quốc tịch, người lao động di trú, người thiểu số, người bản địa, nạn nhân chiến
tranh, những người bị tước tự do, người cao tuổi... [34, tr.23,24].
Khái niệm quyền của NKT gồm nội hàm của khái niệm quyền con người,
quyền của nhóm, NKT cũng có các quyền cơ bản về dân sự, chính trị, kinh tế, xã
hội và văn hóa. Nếu quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc
gia và các thỏa thuân pháp lý quốc tế thì khái niệm quyền của NKT có thể được
hiểu như sau: Quyền của NKT bao gồm các quyền tự do cơ bản của con người, là
phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con người – với tư cách là thành
viên của cộng đồng nhân loại và được chăm sóc, bảo vệ đặc biệt với tư cách là
nhóm người đặc thù dễ bị tổn thương bởi sự khuyết tật, được thừa nhận và bảo hộ
bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia [1, tr.48,49].
Một thời kỳ dài, những NKT bị coi là đối tượng của lòng thương hại; việc bảo
vệ, hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên cách tiếp cận của tình thương và lòng nhân đạo, chứ
không bắt nguồn từ nhận thức rằng họ cũng là những chủ thể của quyền và các nhà
nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân khác là những chủ thể có nghĩa vụ phải tôn trọng
và bảo đảm thực hiện các quyền của NKT [34, tr.98].
1.1.2. Đặc điểm quyền của người khuyết tật
Quyền của NKT cũng chính là quyền con người bởi trước hết những NKT
cũng là con người, có chăng những người này có những đặc điểm riêng nhất định.

Chính vì vậy, dẫu có các đặc điểm giống như quyền con người như: Tính phổ biến,
tính không thể chuyển nhượng, Tính không thể phân chia, Tính liên hệ và phụ thuộc
lẫn nhau thì các đặc điểm quyền này của NKT mang những nét rất riêng và rất đặc
thù. Có thể nhận định các đặc điểm quyền của NKT như sau:

9


Tính phổ biến: đặc điểm này có nghĩa giống như quyền con người quyền của
NKT là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho
tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất
kỳ lý do gì [25, tr.22]. Đặc điểm này thể hiện quyền của NKT mang nguồn gốc tự
nhiên, không do một cá nhân tổ chức nào ban cho, một người từ khi sinh ra là đã có
quyền này. Và cũng không có phận sự phân biệt chủng tộc, tôn giáo, mọi người điều
bình đẳng như nhau [25, tr.22]. Nhưng vì khiếm khuyết nên những quyền này của
NKT không thể thực hiện được nếu không có sự can thiệp, hỗ trợ nâng cao năng ltừ
phía gia đình và xã hội
Tính không thể chuyển nhượng: đặc điểm này có nghĩa là các quyền con
người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào,
kể cả cơ quan nhà nước, trừ một số trường hợp đặt biệt, chẳng hạn như khi một con
người phạm tội ác thì có thể bị tước quyền tự do.
Tính không thể chuyển nhượng của quyền con người mang nguồn gốc tự
nhiên. Quyền con người là những quyền không thể ban phát, chuyển nhượng. Nó
không phụ thuộc vào phong tục, tập quán hay ý chí của cá nhân, tổ chức nào, không
thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất kỳ chủ thể nào, kể cả nhà
nước. Con người với tư cách là một cá nhân trong xã hội, họ có khả năng tư duy và
hành động độc lập, nhờ đó mà có khả năng tự quyết định việc thực hiện quyền của
mình, thực hiện những điều tốt nhất cho mình mà không xâm phạm đến quyền của
người khác. Nhưng đối với NKT lại khác, tính không thể chuyển nhượng này đôi
khi bị mất đi khi NKT về trí tuệ, về tâm thần... bởi những NKT dạng này thường

không làm chủ được hành vi của bản thân có thể gây nguy hại cho những người
thân, những người xung quanh và xã hội.
Tính không thể phân chia: đặc điểm này có nghĩa là các quyền con người điều
có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá
trị cao hơn quyền nào, vì tất cả quyền con người đều có ý nghĩa quan trọng đối với
việc bảo đảm nhân phẩm và giá trị con người [25, tr.22]. Với quyền của NKT thì
tính không thể phân chia khó có thể bảo đảm được. NKT thường sinh ra và vì

10


khuyết tật nên gia đình có điều kiến sống khó khăn. Từ việc không có một điều kiện
sinh hoạt tối thiểu, được học hành, vui chơi, hòa nhập cộng đồng... đã làm cho NKT
tụt lại phía sau so với những người xung quanh. Các khía cạnh đời sống của NKT
đều thấp nên đại đa số NKT phải lựa chọn ưu tiên quyền quan trọng với chính họ để
thực hiện trước nhất, trong nhiều trường hợp NKT còn không có đủ khả năng để lựa
chọn thực hiện bất cứ quyền nào. Chính vì vậy mà Nhà nước với vai trò là chủ thể
có chịu trách nhiệm cần đưa ra sự hỗ trợ cần thiết, kịp thời và đồng bộ để NKT có
thể thực hiện được các quyền cơ bản nhất.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: thể hiện ở chỗ việc đảm bảo các quyền
con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn
nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc đảm bảo
các quyền khác và ngược lại, tiến bộ trong việc đảm bảo một quyền sẽ trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc đảm bảo các quyền khác[25, tr.22]. Với
NKT thì đây có thể là điều hiển nhiên, bởi vì khiếm khuyết nên NKT thường không
tham gia học tập, nếu có học tập thì chỉ trong các trường chuyên biệt như: Trường
dành cho người khiếm thị, khiếm thính... hạn chế học tập thì khả năng học nghề cũng
hạn chế; học tại trường chuyên biệt nên sự tự ti, mặc cảm về khuyết tật của bản thân
rất lớn, hòa nhập cộng đồng sẽ bị hạn chế. Một loạt các quyền khác như: quyền bình
đẳng, quyền tự do, quyền tôn trọng cuộc sống riêng tư... đều không bảo đảm.

Từ thực tế trên cho thấy, trong hầu hết các trường hợp, rất khó thậm chí là
không thể thực sự thành công trong việc bảo đảm riêng một quyền con người nào
đó mà bỏ qua các quyền khác. Chính vì vậy, bảo đảm các quyền đối với NKT càng
khó khăn gấp nhiều lần. Điều này đòi hỏi nhà nước phải đưa ra và vận dụng tối đa
tất cả các bảo đảm (trình bày ở phần 1.3 chương 1) dành cho NKT để có thể bảo
đảm được quyền của NKT trong thực tế.
1.2. Nội dung quyền của người khuyết tật
Trong hệ thống văn bản pháp lý về NKT, các văn kiện ghi nhận quyền của
NKT dù là quốc tế như Công ước năm 2007 của Liên Hiệp Quốc dành riêng cho
NKT hay Luật Người khuyết tật của Việt Nam năm 2010 đều ghi nhận sự thay đổi

11


về phương pháp tiếp cận, các quyền của NKT. Bên cạnh những quyền có tính chất
đặc thù chỉ dành riêng cho NKT, thì còn ghi nhận quyền phổ quát áp dụng chung
cho tất cả mọi cá nhân. Một số nhóm quyền cơ bản của NKT gồm:
1.2.1. Nhóm quyền được sống và được đối xử bình đẳng
(i). Quyền được sống.
Đây là quyền cơ bản của mỗi con người, và NKT không nằm ngoài quy luật
của quyền này. Quyền được sống có thể coi như quyền hiển nhiên nhất của tất cả
mọi người trên thế giới nhưng đối với NKT việc khẳng định quyền này là vấn đề
đặc biệt có ý nghĩa.
Như vậy, qua quy định này ta thấy được rằng bất kì con người nào cũng cần
được hưởng quyền sống này, và bản thân chính mỗi con người cũng như chính quốc
gia đó phải đảm bảo các điều kiện tốt nhất để con người dù khuyết tật hay không
được thụ hưởng quyền này một cách đầy đủ nhất. Đối với NKT điều đó lại càng có
ý nghĩa hơn, khi Nhà nước phải có nghĩa vụ bảo vệ các quyền và điều kiện để họ
được sống như những công dân bình thường khác mà không được vì những khuyết
tật của họ mà cướp đi quyền sống của họ được. Tôn trọng quyền sống của NKT là

một trong những bước tiến quan trọng giúp cho NKT được khẳng định vị trí và vai
trò của mình trong xã hội.
(ii). Quyền được thừa nhận bình đẳng
Quyền bình đẳng của NKT được phản ánh ở nhiều khía cạnh, bao gồm: Sự
bình đẳng về địa vị xã hội mà sự thể hiện trước hết là bình đẳng trước pháp luật và
được pháp luật bảo vệ bình đẳng với người khác; Sự bình đẳng về cơ hội; , NKT
được bình đẳng với những người khác trong việc thực hiện quyền được tôn trọng
cuộc sống riêng tư, tôn trọng tổ ấm và gia đình
Bản thân NKT sở dĩ họ không thể tham gia vào đời sống xã hội bởi những
khuyết tật của họ, nhưng đây không phải là vấn đề đầu tiên cản trở họ mà việc họ
không thể tham gia vào đời sống xã hội là do những rào cản từ bên ngoài đời sống
không cho phép họ tham gia được vào. Những định kiến xã hội, môi trường xung
quanh đã làm cho NKT càng thu mình hơn trong các hoạt động. Định kiến không

12


coi trọng NKT, cho rằng họ chỉ là những thành phần ăn bám xã hội đã làm cho bản
thân NKT họ không phát huy được năng lực của chính bản thân mình. Chính vì
vây, để tạo ra được cơ hội tiếp cận của NKT cũng ngang bằng với những người
xung quanh chúng ta phải thay đổi nhận thức của xã hội về NKT cũng như Nhà
nước cần có những chính sách tạo điều kiện về cơ sở vật chất giúp NKT tự mình
làm được những công việc của họ.
1.2.2. Nhóm quyền được đảm bảo tự do cơ bản
(i). Quyền Tự do và an toàn cá nhân
NKT cần được hưởng đầy đủ quyền tự do và an toàn cá nhân; bao gồm những
khía cạnh cụ thể như

được tôn trọng, bảo vệ sự toàn vẹn về thể chất, tinh thần,


không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân
phẩm, không bị bóc lột, lạm dụng và bạo lực. Tinh thần chung là các quốc gia
thành viên phải dành cho NKT sự bảo vệ đặc biệt hơn chống lại những hành vi xâm
hại đến an toàn cá nhân của họ tôn trọng, bảo vệ sự toàn vẹn về thể chất, tinh thần,
không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân
phẩm, không bị bóc lột, lạm dụng và bạo lực.
(ii). Quyền sống độc lập và hòa nhập cộng đồng
NKT có quyền được sống độc lập trong cộng đồng, có những sự lựa chọn bình
đẳng với những người khác. Quốc gia cần tiến hành những biện pháp hữu hiệu và
thích hợp để tạo điều kiện cho NKT được hưởng thụ đầy đủ quyền này và bảo đảm
sự hòa nhập, tham gia đầy đủ của họ vào cộng đồng. NKT có cơ hội lựa chọn nơi
sinh sống và họ sống ở đâu, với ai, không bị bắt buộc phải sống ở nơi nuôi dưỡng
cụ thể nào. NKT được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ tại nhà, tại khu vực sinh sống và
trong cộng đồng, bao gồm sự hỗ trợ cá nhân cần thiết nhằm trợ giúp cho cuộc sống
và hòa nhập cộng đồng. Phải có các dịch vụ và hạ tầng cơ sở công cộng để NKT sử
dụng trên cơ sở bình đẳng với những người khác và phù hợp với nhu cầu của NKT.
(iii). Quyền tự do đi lại, tự do cư trú và tự do quốc tịch
Đảm bảo quyền tự do đi lại của NKT là vấn đề lớn. Trong nhiều trường hợp
NKT bị phân biệt đối xử và không thể thực hiện được quyền tự do đi lại, ví như

13


NKT đi xe lăn bị yêu cầu trả thêm phí dịch vụ nếu muốn lên máy bay, người khiếm
thính bị từ chối không được sử dụng dịch vụ bay vì lí do không đảm bảo an toàn
cho chuyến bay do người khiếm thính không thể nghe được các hướng dẫn an toàn
khi đi tàu bay.... NKT được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ tại nhà, tại khu vực sinh
sống và trong cộng đồng, bao gồm sự hỗ trợ cá nhân cần thiết nhằm trợ giúp cho
cuộc sống và hòa nhập cộng đồng. Phải có các dịch vụ và hạ tầng cơ sở công cộng
để NKT sử dụng trên cơ sở bình đẳng với những người khác và phù hợp với nhu

cầu của NKT.
(iv). Quyền tự do biểu đạt, chính kiến và tiếp cận thông tin
Quyền tự do ngôn luận của NKT bao gồm tự do thu thập, tìm kiếm và phổ
biến thông tin, ý kiến, trên cơ sở bình đẳng với những người khác, bằng tất cả các
hình thức giao tiếp mà họ lựa chọn. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của NKT mà
luật pháp quốc tế yêu cầu các quốc gia thành viên phải bảo đảm quyền này bằng
việc cung cấp thông tin đại chúng cho NKT bằng các hình thức có thể tiếp cận được
và các công nghệ phù hợp với những loại khuyết tật khác nhau như một cách kịp
thời, quốc gia phải chấp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng ngôn ngữ
kí hiệu, chữ nổi Braille, phóng to chữ hay cách giao tiếp thay thế khác, bằng tất cả
các phương tiện và dạng thức giao tiếp phù hợp do NKT lựa chọn. Các quốc gia
cũng cần phải thúc đẩy các tổ chức cá nhân, các nhà cung cấp thông tin cung cấp
các dịch vụ công cộng, bao gồm thông tin Internet, cung cấp thông tin và các dịch
vụ bằng các hình thức mà NKT có thể tiếp cận và sử dụng được.
1.2.3. Nhóm quyền được bảo vệ.
(i). Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng các hình phạt tàn
nhẫn.
Theo đó, NKT có quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng
những hình phạt tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc bị nhục hình, làm giảm phẩm giá hay
bị ngược đãi, đặc biệt là không một ai bị coi là đối tượng của thí nghiệm y tế hoặc
thí nghiệm khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó.
Các quốc gia có trách nhiệm tiến hành tất cả các biện pháp có hiệu quả về luật

14


pháp, hành chính, pháp lý hoặc những biện pháp khác để bảo vệ NKT, trên cơ sở
bình đẳng với những người khác, để không bị hành hạ hoặc đối xử tàn ác, vô nhân
đạo, làm giảm phẩm giá hay ngược đãi.
(ii). Quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng.

Có thể nói đây là một trong những quyền quan trọng dành NKT. Các quốc gia
tiến hành mọi biện pháp thích hợp về lập pháp, hành pháp, xã hội, giáo dục và các
biện pháp khác để bảo vệ NKT cả ở trong gia đình, tránh khỏi tất cả các hình thức
bóc lột, bạo hành và lạm dụng, bao gồm các mặt về giới.
Các quốc gia thành viên cũng tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để ngăn
chặn tất cả các hình thức bóc lột, bạo hành và lạm dụng bằng cách bảo đảm tất cả
các hình thức hỗ trợ và giúp đỡ thích hợp về nhạy cảm giới và độ tuổi dành cho
NKT, gia đình họ và những người chăm sóc bao gồm thông qua việc cung cấp
thông tin và giáo dục về cách tránh, nhận biết và báo cáo về các trường hợp bóc lột,
bạo hành và lạm dụng.
1.2.4. Nhóm quyền được tham gia
Nhóm quyền được tham gia bao gồm:
(i). Quyền được tham gia đời sống chính trị và cộng đồng
Để một đất nước phát triển mạnh và hội nhập với các nước trên thế giới thì
trong mỗi con người chúng ta cần phải phấn đấu không ngoại trừ một ai. Bởi vậy,
NKT sẽ không vì yếu tố khuyết tật mà bị hạn chế không được tham gia vào các hoá.
Nhà nước bảo đảm cho NKT có cá quyền về chính trị và cơ hội được hưởng thụ các
quyền đó một cách bình đẳng với người khác. Để NKT tham gia đầy đủ và có hiệu
quả vào đời sống chính trị cộng đồng bình đẳng với những người khác, một cách
trực tiếp hoặc thông qua tự do lựa chọn đại diện, trong đó NKT có quyền và cơ hội
bầu cử và ứng cử không kể những điều khác, bằng cách bảo đảm thủ tục, trang thiết
bị và tài liệu bầu cử phù hợp, dễ tiếp cận, dể hiểu và dễ sử dụng.
(ii). Quyền tham gia các hoạt động văn hoá, nghỉ ngơi, giải trí và thể thao
NKT có quyền được hưởng thụ và phát triển đời sống tinh thần, một người
có thể sống tốt hơn thì cần phải có các hoạt động thể thao để giải trí bên cạnh đó sau

15


khi giải trí thì đầu óc của con người sẽ hoạt bát hơn, thông minh hơn và lúc đó làm

việc sẽ hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, do sự khiếm khuyết chức năng, ví dụ chức năng nghe, nhìn, vận
động… để người khuyết tật có thể hưởng thụ các giá trị văn hoá và tham gia vào các
hoạt động văn hoá, giải trí, thể thao, cần phải tạo ra điều kiện phù hợp trong đó mặt
hạn chế của khuyết tật được khắc phục phần nào và NKT có thể tiếp cận được.
Các quốc gia sẽ thực hiện những bước đi phù hợp theo luật quốc tế để bảo
đảm quyền sở hữu trí tuệ không tạo thành rào cản phân biệt đối xử phi lý khiến
NKT không tiếp cận được các tài liệu văn hóa. Trên cơ sở bình đẳng với người
khác, NKT có quyền được hoàn toàn công nhận và hỗ trợ về đặc trưng văn hóa và
ngôn ngữ của họ, bao gồm cả ngôn ngữ ký hiệu và văn hóa của người khiếm thính,
giáo dục và các dịch vụ xã hội theo những cách mà các dịch vụ và chương trình này
bắt đầu từ giai đoạn sớm nhất có thể và dựa trên những đánh giá nghiêm ngặt về các
nhu cầu và sức khỏe của mỗi cá nhân. Thúc đẩy sự phát triển công tác tập huấn ban
đầu và liên tục dành cho những chuyên viên cán bộ làm việc trong nghành hỗ trợ
chức năng và phục hồi chức năng. Thúc đẩy sự sẵn có, hiểu biết và việc sử dụng các
thiết bị, kỹ thuật hỗ trợ được thiết kế dành cho NKT bởi chúng có liên quan đến hỗ
trợ chức năng và phục hồi chức năng [24].
Bảo đảm NKT được tiếp cận những dịch vụ của các cơ sở tham gia tổ chức
hoạt động giải trí, du lịch, nghỉ ngơi và thể thao.
1.2.5. Nhóm quyền được hỗ trợ đặc biệt, có cơ hội và được phát triển
bằng chính công việc do bản thân tự do lựa chọn
(i). Quyền hưởng các dịch vụ y tế
NKT có quyền hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ đạt tiêu chuẩn cao nhất
mà không bị phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật. Bởi vì khi có sức khỏe thì con
người ta mới làm việc có hiệu quả, giảm bớt gánh nặng cho người thân trong gia
đình khi một người mắc bệnh thì phải có người lo nên công việc sẽ bị trì truệ.
Các quốc gia cần phải cung cấp cho NKT các dịch vụ và chương trình y tế
cùng mức, có chất lượng, đạt tiêu chuẩn, miễn phí hoặc với mức phí có thể chấp

16



nhận được, tương tự như cung cấp cho những người không khuyết tật khác, cung
cấp các dịch vụ y tế cần thiết mà NKT cần theo dạng tật của họ, bao gồm phát hiện
sớm và can thiệp sớm, nếu phù hợp, và các dịch vụ được thiết kế nhằm giảm thiểu
và ngăn chặn khuyết tật, bao gồm ở trẻ em và người cao tuổi, cung cấp các dịch vụ
y tế này ở những nơi càng gần với cộng đồng mà NKT sinh sống càng tốt, kể cả ở
vùng nông thôn.
(ii). Quyền được hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng
Người khuyết tật cần được hỗ trợ và phục hồi chức năng nhằm tăng cường khả
năng hoà nhập của họ vào đời sống xã hội.
Điều 26 Công ước quy định, các quốc gia thành viên cần thực thi các biện
pháp phù hợp và có hiệu quả, bao gồm sự hỗ trợ đồng cảnh giúp NKT đạt được và
duy trì tối đa sự độc lập, khả năng đầy đủ về thể chất, trí tuệ, xã hội và nghề nghiệp,
sự hòa nhập và tham gia đầy đủ vào mọi lĩnh vực của đời sống.
Các quốc gia cần tổ chức tăng cường và mở rộng các dịch vụ chương trình
toàn diện về hỗ trợ các chức năng, phục hồi chức năng nhất là trong lĩnh vực y tế,
việc làm.
(iii). Quyền có mức sống thích đáng và bảo trợ xã hội đầy đủ
NKT có quyền có được mức sống đầy đủ cho bản thân và gia đình họ, bao
gồm có đủ thức ăn, quần áo, nhà ở và có quyền không ngừng cải thiện điều kiện
sống. Khi gặp khó khăn về đời sống vật chất, NKT được nhận bảo trợ xã hội và
được hưởng quyền này mà không bị phân biệt đối xử.
Các quốc gia thành viên công nhận quyền của NKT được nhận bảo trợ xã hội
và được hưởng quyền này mà không bị phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật. Thực
thi những bước phù hợp để bảo vệ và thúc đẩy việc công nhận quyền này bao gồm
các biện pháp nhằm bảo đảm NKT được tiếp cận bình đẳng đến nguồn nước sạch và
tiếp cận các dịch vụ, thiết bị phù hợp có thể chi trả được và với sự hỗ trợ cho các
nhu cầu có liên quan đến khuyết tật. Bảo đảm cho NKT, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em
gái khuyết tật và người cao tuổi khuyết tật được tiếp cận các chương trình bảo trợ

xã hội và chương trình giảm nghèo. Bảo đảm cho NKT và gia đình họ đang sống

17


trong tình cảnh nghèo đói được tiếp cận sự hỗ trợ của Nhà nước cho ngững chi phí
liên quan đến khuyết tật bao gồm được tạo đầy đủ tư vấn, hỗ trợ tài chính và chăm
sóc nghĩ dưỡng nhằm bảo đảm NKT được tiếp cận các chương trình công cộng về
nhà ở. Bảo đảm cho NKT tiếp cận bình đẳng những lợi ích và chương trình hưu trí.
(iv). Quyền được tiếp cận giáo dục
Với người khuyết tật quyền này cần được nhấn mạnh bởi lẽ với tình trạng
khuyết tật, khả năng tiếp cận giáo dục của NKT còn rất hạn chế. Đã có rất nhiều trẻ
em khuyết tật không được đến trường, để đảm bảo quyền học tập của NKT, các
quốc gia trước hết cần công nhận quyền học tập của họ.
Các quốc gia hỗ trợ để NKT có đời sống học tập và phát triển các kỹ năng xã
hội nhằm tạo thuận lợi để NKT có điều kiện thuận lợi để họ tham gia đầy đủ và bình
đẳng trong giáo dục cũng như mọi thành viên khác trong cộng đồng. Để đạt mục
tiêu đó, các quốc gia thành viên sẽ thực hiện các biện pháp phù hợp bao gồm:
Tạo thuận lợi cho việc học chữ nổi Braille, chữ viết in thay thế, các cách thức
phương tiện và các hình thức giao tiếp phóng to chữ hay thay thế khác, các kỹ năng
định hướng và di chuyển, tạo thuận lợi cho hỗ trợ đồng cảnh và tư vấn của các
chuyên gia. Tạo thuận lợi cho việc học ngôn ngữ ký hiệu và thúc đẩy việc thống
nhất ngôn ngữ trong cộng đồng người khiếm thính. Các quốc gia cần bảo đảm việc
giáo dục con người, đặc biệt là giáo dục trẻ em khiếm thị, khiếm thính hoặc vừa
khiếm thính vừa khiếm thị được thưc hiện theo ngôn ngữ, cách thức và phương tiện
giao tiếp phù hợp nhất với từng cá nhân và trong những môi trường nhằm phát huy
tối đa sự phát triển về học thức và xã hội.
(v). Quyền có cơ hội công việc và việc làm
Việc từ chối các cơ hội việc làm công bằng cho NKT chính là một trong
những nguyên nhân gốc rễ dẫn đến sự nghèo đói và tình trạng bị phân biệt đối xử

cho nhiều trong số những NKT.
Nhà nước công nhận quyền được làm việc của NKT, trên cơ sở bình đẳng với
người khác bao gồm cả quyền có cơ hội kiếm sống bằng một công việc được tự do
lựa chọn hoặc chấp nhận trong thị trường lao động và môi trường làm việc mở, hòa

18


nhập và để tiếp cận đối với NKT.
Các quốc gia thành viên bảo vệ và thúc đẩy việc công nhận quyền làm việc,
bao gồm của cả những người bị khuyết tật khi làm việc bằng cách thực thi những
bước phù hợp, bao gồm thông qua luật pháp để nghiêm cấm phân biệt đối xử vì lý
do khuyết tật trong các vấn đề liên quan đến tất cả các hình thức về việc làm, bao
gồm các điều kiện tuyền dụng, thuê và nhận vào làm, thăng tiến trong sự nghiệp và
các điều kiện lao động an toàn và bảo đảm sức khỏe.
1.3. Các yếu tố đảm bảo quyền của người khuyết tật
1.3.1. Điều kiện chính trị
Truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam luôn lấy chữ nhân làm gốc. Tư
tưởng nhân ái “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” là
truyền thống tốt đẹp, là phẩm chất ngời sáng của người Việt Nam. Vì vậy, trong tiến
trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, NKT luôn được Đảng, Nhà nước và xã
hội chăm sóc và giúp đỡ. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (6/1991) đã chỉ rõ: “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi
thành viên trong xã hội. Chăm lo đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất
sức lao động và trẻ mồ côi”[27]
Không chỉ được nhắc đến trong các nghị quyết của Đảng, sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước đến NKT còn được ghi nhận trong văn kiện pháp lý tối cao là
Hiến pháp qua các thời kỳ. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2001 đều
khẳng định NKT là công dân, thành viên của xã hội, có quyền lợi và nghĩa vụ của
một công dân, được chung hưởng thành quả xã hội. Vì khuyết tật, NKT có quyền

được xã hội trợ giúp để thực hiện quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào đời
sống xã hội, đồng thời vì khuyết tật họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân.
Hiện nay, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước... có chính sách trợ giúp người
cao tuổi, NKT, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn khác” [30] và “tạo điều
kiện để NKT và người nghèo được học văn hóa và học nghề” [30]. Đồng thời khẳng
định mọi thành viên, bao gồm cả NKT đều được nhà nước bảo đảm quyền công dân
như nhau và đều được hưởng các thành quả chung của sự phát triển xã hội. Những

19


thay đổi này không đơn thuần là sự thay đổi về mặt câu chữ, mà đã thể hiện sự thay
đổi phần nào trong nhận thức của Nhà nước và xã hội về vai trò của NKT trong đời
sống xã hội. Điều này cũng có ý nghĩa định hướng quan trọng trong việc hoàn thiện
chính sách hỗ trợ toàn diện của Nhà nước đối với NKT, nhằm bảo đảm sự hòa nhập
tối đa của NKT vào cộng đồng, để họ phát huy khả năng, thể hiện giá trị của bản
thân trong đời sống xã hội.
Chính sách của Nhà nước Việt Nam về NKT được thể hiện rõ trong việc quy
định 10 nhóm giải pháp chính sách của Nhà nước đối với NKT tại Điều 5 Luật
người khuyết tật trong đó nhấn mạnh việc bảo đảm nguồn lực, các điều kiện thực
thi, xã hội hóa, tuyên truyền đào tạo cán bộ... thể hiện được sự cam kết của Nhà
nước trong việc bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về NKT.
Chính sách giáo dục: Nhà nước tạo điều kiện để NKT được học tập phù hợp
với nhu cầu và khả năng của NKT; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm
một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân
không thể đáp ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp
khác; NKT được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong
trường hợp cần thiết; NKT nhe, nói được học bằng ngôn ngữ, ký hiệu; NKT nhìn
được học bằng chữ nổi braille theo tiêu chuẩn quốc gia [48].
Chính sách y tế cho NKT: Luật NKT dành toàn bộ chương 3 quy định về vấn

đề chăm sóc sức khỏe cho NKT. Từ việc NKT được trạm y tế xã lập hồ sơ theo dõi,
quản lý sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú đến Nhà nước bảo đảm NKT được khám,
chữa bệnh và sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp được chăm sóc sức khỏe; được
hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật... Nhà nước bảo đảm
việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất vật chất kỹ thuật đối với cơ sở chỉnh hình, phục
hồi chức năng công lập; hỗ trợ kinh phí theo dự án cho cơ quan tổ chức nghiên cứu
khoa học về NKT, đào tạo chuyên gia, kỹ thuật viên về chỉnh hình phục hồi chức
năng.
Chính sách dạy nghề cho NKT: Nhà nước bảo đảm để NKT được tư vấn học
nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những

20


người khác; Cơ sở dạy nghề có trách nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận
nghề đào tạo khi NKT học hết chương trình đào tao và đủ điều kiện theo quy định
của thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước về dạy nghề; Cơ sở dạy nghề tổ chức dạy
nghề cho NKT phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho NKT và được hưởng chính
sách ưu đãi theo quy định của pháp luật; NKT học nghề, giáo viên dạy nghề cho
NKT được hưởng chế độ chính sách theo quy định cuả pháp luật.
Chính sách tạo việc làm cho NKT: Nhà nước tạo điều kiện để NKT phục hồi
chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù
hợp với sức khỏe và đặc điểm của NKT; cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
không được được từ chối tuyển tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn
tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của NKT; cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là NKT tùy theo điều kiện
cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện môi trường làm việc phù hợp cho
NKT; cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cá nhân sử dụng lao động là NKT phải thực
hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là NKT; tổ chức
giwosi thiệu việc làm và có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn giới thiệu việc làm

cho NKT; NKT tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình hướng tạo việc làm chi NKT được
vay vốn với lãi xuất ưu đãi để sản xuất kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất,
chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm
1.3.2. Điều kiện pháp lý
Ở Việt Nam, trong một thời gian không dài, nhà nước ta đã không ngừng hoàn
thiện pháp luật hướng đến mục tiêu xây dựng cơ sở pháp lí vững chắc nhất cho việc
thực hiện quyền của NKT.
Luật NKT năm 2010 quy định các nội dung nhằm khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi để NKT thực hiện bình đẳng về các quyền và phát huy khả năng ổn định
đời sống chính trị, hòa nhập cộng đồng, quy định chính sách trợ giúp, chăm sóc sức
khỏe, phục hồi chức năng. Bên cạnh đó còn có 20 luật liên quan đến NKT như: Bộ
luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật dạy nghề, Luật giáo dục, Luật xây dựng,... Và
trên 200 văn bản hướng dẫn thi hành luật đã góp phần cải thiện đời sống NKT và

21


×