Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN CAO HỌC Mối quan hệ quy luật tự nhiên và quy luật xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.52 KB, 23 trang )

M U
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội đã đợc con ngời quan tâm từ rất
sớm, cho đến nay quan niệm về vấn đề này đã trở nên hoàn thiện hơn bao giờ
hết. Mối quan hệ giữa tự nhiên và con ngời đợc thể hiện thông qua hoạt động
của con ngời. Song con ngời hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa
tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trớc hết là nhận thức các
quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn.
Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy luật thì con
ngời đã tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã
hội. Ngợc lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có
sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ cân
bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con ngời sẽ phải trả giá
và chịu diệt vong.
Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật
của xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn.

NI DUNG
I.

C S TRIT HC X HI CA MI QUAN H BIN CHNG GIA

1.1.

CON NGI, X HI V T NHIấN- TI NGUYấN V MễI TRNG
Tớnh thng nht vt cht ca th gii l c s ca s thng nht bin
chng gia t nhiờn, con ngi v xó hi


1.1.1- Tính thống nhất vật chất của thế giới
Nếu quan sát ta thấy, các sự vật và hiện tượng trong thế giới cực kỳ đa
dạng; mặt khác, chúng cũng rất gắn bó hết sức mật thiết với nhau, phụ thuộc


vào nhau và hoàn toàn thống nhất với nhau.
Các nhà triết học duy tâm tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ở "ý
niệm tuyệt đối" hoặc ở ý thức con người; ngược lại thì các nhà duy vật trước
Mác có khuynh hướng chung là tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ngay
trong bản thân nó. Nhưng do ảnh hưởng của quan điểm siêu hình - máy móc
nên họ cho rằng mọi hiện tượng của thế giới đều được cấu tạo từ những vật
thể ban đầu giống nhau, thống nhất với nhau, cùng bị chi phối bởi một số quy
luật nhất định. Quan điểm ấy không phản ánh được tính nhiều vẻ, tính vô tận
của thế giới hiện thực.
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của
khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, bản chất của
thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện
ở những điểm cơ bản sau đây:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật
chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con
người.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống
nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất,
là những kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và
cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới
vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không
được sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những
quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc,
nguyên nhân và kết quả của nhau.


Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi khoa học và bởi
chính cuộc sống hiện thực của con người.
Những phát minh của khoa học tự nhiên như thuyết tế bào, định luật

bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa các loài đã có ý nghĩa rất
lớn, phá bỏ ranh giới giả tạo do tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm tạo ra giữa quả
đất với các thiên thể, giữa thực vật với động vật, giữa các giống loài khác
nhau, giữa giới vô sinh và giới hữu sinh.
Khoa học hiện đại tiếp tục chứng minh nguyên lý về sự thống nhất vật
chất của thế giới bằng những thành tựu mới trong vật lý học, trong hóa học,
trong khoa học vũ trụ, trong khoa học sự sống, v.v.. Những thành tựu của các
ngành khoa học ấy đã làm sâu sắc thêm nhận thức của con người về thành
phần, về kết cấu của thế giới vật chất, về những đặc điểm hoạt động và phát
triển của nó trên các trình độ tổ chức khác nhau của vật chất.
Khoa học hiện đại đã đi sâu nghiên cứu cấu tạo của vật chất và đã phân
chia ra các dạng vật chất khác nhau:
Trong giới tự nhiên vô sinh có hai dạng vật chất cơ bản là chất
và trường. Chất là cái gián đoạn, được tạo ra từ các hạt, có khối lượng, có cấu
trúc thứ bậc từ nguyên tử cho đến các thiên thể cực kỳ lớn. Còn trường là môi
trường vật chất liên tục, không có khối lượng tĩnh. Trường làm cho các hạt
của nguyên tử liên kết với nhau, tác động với nhau và nhờ đó mà tồn tại được.
Ranh giới giữa chất và trường là tương đối, có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Sự phát hiện ra dạng chất và trường của vật chất và sự chuyển hóa của chúng
càng chứng tỏ không có không gian không có vật chất, không có vật chất dưới
dạng này thì lại có vật chất dưới dạng khác, không thể có thế giới không phải
vật chất nằm bên cạnh thế giới vật chất. Và cũng không chỉ hình dung thế giới
vật chất gồm quả đất, hệ mặt trời, hay một số thiên hà mà phải là toàn bộ các
quá trình tổ chức vật chất từ các hệ thống thiên hà đến các vật thể vi mô.
Trong giới tự nhiên hữu sinh có các trình độ tổ chức vật chất là
sinh quyển, các axít nucleíc (AND và ARN) và chất đản bạch. Sự phát triển


của sinh học hiện đại đã tìm ra được nhiều mắt khâu trung gian chuyển hóa
giữa các trình độ tổ chức vật chất, cho phép nối liền vô cơ, hữu cơ và sự sống.

Vật chất sống bắt nguồn từ vật chất không sống. Thực vật, động vật và cơ thể
con người có sự giống nhau về thành phần vô cơ, cấu trúc và phân hóa tế bào,
cơ chế di truyền sự sống...
Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật
biện chứng có cơ sở khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng đều có cùng bản
chất vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất.
Xã hội loài người là cấp độ cao nhất của cấu tạo vật chất, là cấp độ đặc
biệt của tổ chức vật chất. Xã hội là một bộ phận của thế giới vật chất, có nền
tảng tự nhiên có kết cấu và quy luật vận động khách quan không phụ thuộc
vào ý thức con người. Vật chất dưới dạng xã hội là kết quả hoạt động của con
người. Quan niệm duy vật về lịch sử của triết học Mác - Lênin đã đóng góp
quan trọng trong việc chứng minh vị trí hàng đầu, ưu thế của các quan hệ kinh
tế trong hệ thống các quan hệ xã hội đã tạo cơ sở khoa học để nhận thức đúng
đắn các hiện tượng xã hội, để nghiên cứu những quy luật khách quan của xã
hội.
Như vậy, bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật
chất. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô
số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ.
1.1.2- Sự hình thành các yếu tố tự nhiên, con người và xã hội
Sự xuất hiện các yếu tố và sự hình thành hệ thống tự nhiên, con người
và xã hội luôn gắn liền với qua trình tiến hóa của sinh quyển và sự phát triển
của xã hội loài người.
Thế giới vật chất muôn màu muôn vẻ, vô cùng phức tạp và được tạo
thành từ vô vàn yếu tố, trong đó có ba yếu tố cơ bản đó là: giới tự nhiên, con
người và xã hội loài người.
- Yếu tố tự nhiên


Theo nghĩa hẹp, tự nhiên còn được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: là
đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên, là môi trường địa lý, môi trường

sinh thái,… Bằng các con đường của vật lý học, sinh hóa học, thiên văn học,
địa lý – địa chất học, vũ trụ học, các ngành khoa học này đều đã chứng minh
được sự hình thành và phát triển của giới tự nhiên, từ đó đã đi sâu vào tìm
hiểu bản chất và tìm thấy sự thống nhất vật chất của nó ở tầm vi mô cũng như
vĩ mô.
Theo nghĩa rộng, tự nhiên được hiểu là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại
khách quan, như thế con người vả cả xã hội loài người đều là một bộ phận,
một thành viên không thể tách rời và đặc thù của tự nhiên.
Như vậy, có thể khẳng định rằng: Tự nhiên là môi trường sống của con
người và xa hội loài người là điều kiện, là tiền đề tồn tại và phát triển của xã
hội và con người, là cơ sở vật chất của sự thống nhất biện chứng giữa con
người, xã hội và tự nhiên. Chỉ có trong tự nhiên mới có thể cung cấp đầy đủ
nhất những điều kiện cần thiết cho sự sống của con người (ánh sáng, nước,
không khí, thức ăn,…) và những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của con
người.
Nhận xét trên đúng như Mác khẳng định: “Về nguồn gốc, tự nhiên là
tiền đề cho sự ra đời của con người, là điều kiện tồn tại và phát triển của con
người”. “Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”,.. “Con người sống
dựa vào tự nhiên”… “sinh hoạt vật chất và tinh thần liên hệ khăng khít với tự
nhiên vì con người là một bộ phận của tự nhiên”.
Có thể khẳng định rằng, giới tự nhiên mà chúng ta nghiên cứu trong hệ
thống “tự nhiên – con người – xã hội” là tất cả những gì có liên quan đến sự
sống của con người, đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, đó
chính là sinh quyển.
Sinh quyển là một hệ thống vật chất sống có cấu trúc vô cùng phức tạp
được tạo nên từ ba bộ phận cơ bản ( mọi cơ thể sống, những chất cần thiết để
tạo nên và duy trì sự sống và các chất thải bỏ); là sự thống nhất hữu cơ giữa
sinh vật và các thành phần vô cơ và hữu cơ tham gia vào quá trình sống.



Sinh quyển đã trải qua một quá trình phát triển, tiến hóa hữu cơ lâu dài
và phức tạp. Theo M.M.Kamsilop (1977), sự tiến hóa của sinh quyển trải qua
bốn giai đoạn chủ yếu:
+ Giai đoạn 1: Sinh quyển hoang sơ với sự xuất hiện những cơ thể đơn
bào đã hình thành nên chu trình sinh học đầu tiên – dạng sơ khai nhất.
+ Giai đoạn 2: Sự phát triển của sinh quyển cùng với chu trình sinh học
hoàn thiện dần và sinh quyển đã có thuộc tính sinh học cao hơn đó là sự xuất
hiện cơ thể đa bào
+ Giai đoạn 3: Là giai đoạn phát triển mới về chất của sinh quyển và
chu trình sinh học của nó đã xuất hiện con người – xã hội loài người.
+ Giai đoạn 4: Đỉnh coa của phát triển là sinh quyển chuyển thành trí
tuệ quyển (đưa khoa học, kỹ thuật, công nghệ thành lực lượng sản xuất trực
tiếp).
Trong đó, giai đoạn 1 và giai đoạn 2 được gọi là sự tiến hóa sinh học
hay tiến hóa tự nhiên của sinh quyển. Giai đoạn 3: sinh quyển đã khẳng định
con người và xã hội loài người – thành viên mới của sinh quyển. Và giai đoạn
4: là giai đoạn sinh quyển chuyển thành trí tuệ quyển. Giai đoạn này, sự tiến
hóa của sinh quyển chịu sự tác động của các yếu tố tự nhiên và hoạt động có ý
thức của con người. Và cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất lần thứ 5 đã
dẫn đến sự biến đổi sâu sắc mối quan hệ giữa tự nhiên, con người và xã hội.
Như vậy, sinh quyển đã trải qua một quá trình phát triển, tiến hóa hữu
cơ lâu dài và phức tạp để hình thành nên các bộ phận của nó và hoàn thiện
chu trình trao đổi chất của chính mình. Mỗi bước phát triển của sự sống đã tạo
tiền đề cần thiết cho sự phát triển phần tiếp theo của nó. Sự xuất hiện mỗi loài
động thực vật trên hành tinh chúng ta đánh một nấc tiến hóa của sinh quyển.,
trong đó con người là nấc thang cao nhất. Con người đã bước vào vũ đài của
sự sống đúng vào lúc sinh quyển đã có những thuộc tính của một hệ thống
tổng hợp sinh học ở mức nhất, có khả năng đạt năng suất sinh học lớn nhất.
- Yếu tố con người
Con người xuất hiện trong quá trình tiến hóa của sinh quyển, là nấc

thang cao nhất trong quá trình tiến hóa của sinh quyển; điều đó cho phép


khẳng định con người về thực chất là một bộ phận của tự nhiên, là một dạng
tiến hóa của vật chất sống. Con người không chỉ là một bộ phận của tự nhiên
mà hơn thế nữa con người còn là sản phẩm coa nhất trong quá trình tiến hóa
của thế giới vật chất. Bởi vì, bộ óc người là sản phẩm cao nhất của vật chất
sống. Và đúng như Leenin đã khẳng đinh: “Bộ óc người là sản phẩm cao nhất
của vật chất”.
Như vậy, về nguồn gốc con người được sinh ra tự tự nhiên, về cấu trúc
của thế giới con người là một bộ phận của tự nhiên, hơn thế nữa con người là
một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Bởi vì với tư cách là một thực thể sinh học,
con người tồn tại trong tự nhiên như một động vật cao cấp. Hơn thế nữa trong
quá trình tiến hóa, cùng với lao động và ngôn ngữ, con người tự hoàn thiện
mình, dần dần tách mình ra khỏi thế giới động vật, và cùng với môi trường tự
nhiên vốn có con người còn tạo cho mình một môi trường sống mới- môi
trường xã hội.
Và đúng như Mác đã khẳng định: Tự nhiên là tiền đề cho sự ra đời, là
điều kiện tồn tại và phát triển của con người “giới tự nhiên là thân thể vô cơ
của con người”…”con người sống dựa vào tự nhiên”,… “sinh hoạt vật chất và
tinh thần liên hệ khăng khít với tự nhiên vì con người là một bộ phận của tự
nhiên”.
Vậy nên, yếu tố con người là sản phẩm cao nhất trong quá trình tiến
hóa của thế giới vật chất, nó đóng vai trò là chủ thể tích cực và trực tiếp thực
hiện sự thống nhất biện chứng giữa “tự nhiên – con người – xã hội”.
- Yếu tố xã hội
- Triết học Mác – Leenin đã khẳng định: xã hội là một hình thái vận động cao
nhất của vật chất, hình thái này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động
lẫn nhau giữa những con người làm nền tảng. Xã hội là tổng hòa các mối liên
hệ và các quan hệ cảu các các nhân với nhau, đúng như Mác viết: “xã hội –

cho dù nó có hình thức gì đi nữa – là cái gì nữa – là cái gì? Là sản phẩm cao
nhất của tự nhiên, bằng hoạt động có ý thức của mình, con người đã làm nên
lịch sử và tạo ra xã hội.


- Do đó, có thể khẳng định chắc chắn rằng: xã hộ không thể là cái gì khác, mà
chính là một bộ phận đặc biệt, được tách ra một cách hợp quy luật của tự
nhiên – đó là những quy luật về cấu trúc và chức năng của thế giới sống; là
hình thức tổ chức cao nhất trong quá trình tiến hóa liên tục, lâu dài và phức
tạp của tự nhiên. Cho nên, xã hội có tính chất quyết định đối với sự biến đổi
của tự nhiên (ở đó con người là sản phẩm cao nhất) và bằng hoạt động có ý
thức của mình, con người đã làm nên lịch sử và tạo ra xã hội.
Tóm lại, cá yếu tố “tự nhiên – con người – xã hội” là ba dạng cấu trúc
vật chất khác nhau đã xuất hiện theo một trật tự, có quá trình tiến hóa hữu cơ,
liên hoàn, chặt chẽ. Ba dạng cấu trúc vật chất đó đã hợp thành một hệ thống
vật chất thống nhất: hệ thống “tự nhiên – con người – xã hội”.
1.1.3- Sự thống nhất biện chứng giữa tự nhiên - con người – xã hội
Tính thống nhất vật chất của thế giới là có của sự thống nhất biện
chứng giữa tự nhiên, con người và xã hội được thể hiện:
Tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở triết học gắn tự nhiên,
con người và xã hội thành một hệ thống rộng lớn “tự nhiên – con người – xã
hội”.
Các yếu tố trong hệ thống đó, tuy có cấu trúc vật chất khác nhau nhưng
giữa chúng có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và
luôn vận động biến đổi không ngừng theo quy luật và tuân theo quy luật. Tính
quy luật của hệ thống đó là tất yếu khách quan, đã gắn các yếu tố của thế giới
thành một chỉnh thể thống nhất, vĩnh viễn vận động và phát triển không
ngừng trong không gian và theo thời gian.
Cáu trúc liên hoàn, chặt chẽ, ổn định và bề vững của sinh quyển là cơ
sở đảm bảo sự thống nhất của các yếu tố trong hệ thống. Cơ chế đảm bảo sự

thống nhất về cấu trúc phù hợp với các chức năng của hệ thống tự nhiên – con
người – xã hội chính là sự hoạt động của chu trình sinh học.


Chu trình sinh học gồm 5 thành phần cơ bản: 1- Các chất vô cơ, 2- Sinh
vật sản xuất, 3- Sinh vật tiêu thụ, 4 – sinh vật phân hủy, 5- Con người và xã
hội loài người.
Yếu tố tự nhiên là cơ sở vật chất của sự thống nhất biện chứng giữa con
người, xã hội và tự nhiên.
Yếu tố con người là chủ thể tích cực, là yếu tố trực tiếp thực hiện sự
thống nhất biện chứng giữa xã hội và tự nhiên.
Yếu tố xã hội là hình thức tổ chức cao nhất trong quá trình tiến hóa liên
tục lâu dài và phức tạp của tự nhiên, nên nó có tính quyết định đối với sự biến
đổi của tự nhiên.
Tóm lại, tính thống nhất vật chất của thế giới – là cơ sở của mối liên hệ
phổ biến do Ăng-ghen đưa ra và khẳng định rằng:
- Thế giới vật chất đa dạng phức tạp gồm ba yếu tố cơ bản: tự nhiên, con người,
xã hội loài người, chúng là ba dạng cáu trúc vật chất khác nhau, thông qua sự
vận động của thế giới, chúng gắn liền và thống nhất với nhau. Sự hợp thành
một hệ thống vật chất thống nhất đó chính là cơ sở của của mối liên hệ giữa
các sự vật hiện tượng.
- Cơ ché đảm bảo sự thống nhất của các mối quan hệ giữa các yếu tố trong hệ
thống tự nhiên – con người – xã hội chính là sự vận động của chu trình tuần
hoàn vật chất trong tự nhiên gồm 5 thành phần cơ bản: các chất vô cơ và hữu
cơ; sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ, sinh vật phân hủy, con người và xã hội
loài người. Nhờ có chu trình tuần hoàn vật chất mà các hệ sinh thái trong sinh
quyển được cân bằng
- Các dạng vật chất tự nhiên – con người – xã hội này tuy có cấu trúc khác
nhau nhưng đã xuất hiện và tiến hóa hữu cơ, tác động qua lại và gắn bới với
nhau, luôn luôn vận động biến đổi không ngừng và tuân theo quy luật một

cách nghiêm ngặt. Đó chính là những quy luật về cấu trúc và chứng năng của
thế giới sự sống.
1.1.4- Ý nghĩa phương pháp luận


Nghiên cứu tính thống vật của thế giới – cơ sở của sự thống nhất biện
chứng giữa con người, xã hội và tự nhiên cho phép rút ra một số ý nghĩa
phương pháp luận để giải quyết các vấn đề môi trường như sau:
Một là, tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của sự thống nhất
biện chứng giữa con người, xã hội và tự nhiên, trong đó con người là nhân tố
duy nhất, là chủ thể tích cực, trực tiếp thực hiện sự thống nhất biện chứng của
hệ thống tự nhiên – con người – xã hội phải có quan điểm hệ thống, toàn diện
và phát triển trong việc giải quyết vấn đề môi trường sinh thái hiện nay vì hệ
thống tự nhiên – con người – xã hội là một bộ phận không thể tách rời trong
toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan.
Hai là, con người phải biết xây dựng những phương sách thích hợp cần
thiết để giải quyết những mâu thuẫn này sinh trong quá trình thực hiện sự
thống nhất giữa con người – tự nhiên – xã hội, đầu tiên là mâu thuẫn này sinh
trong lĩnh vực sản xuất vật chất. ĐÓ là giải quyết các mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với sự gia tăng dân số, khai thác sử dụng tài nguyên và ô
nhiễm môi trường,
Ba là, trong mọi hoạt động con người phải hướng đến vấn đề là tìm ra
giải pháp tích cực để thực hiện sự thống nhất bền vững hệ thống tự nhiên –
con người – xã hôi. Về kinh tế phải tăng trưởng nhanh và bề vững, về xã hội –
nhân văn phải đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng xã hội, đảm bảo tốt chỉ
tiêu phát triển con người (HDI); về môi trường, phải bảo vệ, cải thiện và nâng
cao chất lượng môi trường sống.
Bốn là, con người cần phải nhận thức đúng đắn về môi trường sống của
chính mình, cần phải biết sống hài hòa và thân thiện hơn với tự nhiên cả trong
suy nghĩ, tư duy và hoạt động thực tiễn; để có hành động thiết thực bảo vệ

môi trường sống của chính mình. Bảo vệ môi trường, sống hài hòa và thân
thiện với tự nhiên là biểu hiện của một phong cách sống mới, phong cách
sống hiện đại, đó là một triết lý sống luôn luôn đúng trong mọi thời đại.


1.2.

Sự vận động, biến đổi và phụ thuộc của mối quan hệ giữa con người, xã
hội và tự nhiên vào trình độ phát triển của xã hội trong tiến trình lịch sử

tự nhiên
1.2.1. Sự thống nhất và quy định lẫn nhau giữa lịch sử xã hội và tự nhiên
Một là, lịch sử xã hội và lịch sử tự nhiên là thống nhất, bởi vì cả tự
nhiên và xã hội đều cso một quá trình lịch sử lâu dài và phức tạp. Sự vận động
của lịch sử xã hội là sự tiếp tục và phát triển song hành cùng với lịch sử tự
nhiên. Nghĩa là, giữa lịch sử xã hội và tự nhiên là thống nhất và hơn thế nữa.
Sự xuất hiện con người và xã hội loài người là kết quả tiến hóa của giới
tự nhiên. Song từ khi xuất hiện con người và xã hội loài người, lịch sử phát
triển của tự nheien không chỉ phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau giữa các
yếu tố tự nhiên thuần túy, mà còn chịu sự shi phối ngày càng mạnh mẽ và sâu
sắc của các yếu tố xã hội. Ngược lại sự phát triển của lịch sử xã hội không thể
tách rời các yếu tố tự nhiên bởi vì tự nhiên là môi trường sống của con người
và xã hội loài người, là điều kiện, là tiền đề tồn tại và phát triển của xã hội và
con người.
Hai là, trong mối quan hệ giữa tự nhiên, con người và xã hội giữa lịch
sử xã hội và lịch sử tự nhiên luôn có sự quy định lẫn nhau.
Sự quy định lẫn nhau được biểu hiện ở chỗ, tự nhiên là môi trường
sống của con người, và hơn thế nữa mối quan hệ của con người và tự nhiên lại
phụ thuộc rất chặt chẽ vào trình độ phát triển của xã hội.
Như vậy, các yếu tố tự nhiên và con người (xã hội) vừa thống nhất, vừa

quy định lẫn nhau; mối quan hệ giữa con người và tự nhiên luôn vận động và
thay đổ theo sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội.
Ba là, trong mối quan hệ đó, con người có vai trò đặc biệt quan trọng là
nhân tố xã hội – nhân văn đầu tiên và là trung tâm của mọi hoạt động xã hội.
Vai trò đặc biệt quan trọng của con người đã được Mác và Ăng-ghen khẳng
định: “Con người không chỉ là nên lịch sử mà bản thân con người cũng chính


là tiền đề đầu tiên của lịch sử”. Và hơn thế nữa con người đã làm nên lịch sử
xã hội của mình ngay chính trong môi trường tự nhiên.
Như vậy, tự nhiên và xã hội vừa thống nhất, vừa quy định lẫn nhau.
Trong mối quan hệ đó con người là nhân tố xã hội – nhân văn đầu tiên và là
trung tâm của mọi người hoạt động xã hội.
1.2.2. Mối quan hệ giữa con người (xã hội) và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát
triển của xã hội trong tiến trình lịch sử - tự nhiên
Triết học Mác đã khẳng định: mỗi một hình thái kinh tế - xã hội trong
lịch sử đều có một phương thức sản xuất cơ bản đặc trưng. Mỗi một phương
thức sản xuất nhất định trong lịch sử là sự thốn nhất biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tuân theo quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Theo cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội đối với lịch sử xã hội của
Mác, hì trình độ phát triển của xã hội gắn liền với sự phát triển của lực lượng
sản xuất, mà trước hết là của lực lượng sản xuất và phù hợp với nó là quan hệ
sản xuất, là thước đo của sự phát triển xã hội.
Mối quan hệ giữa con người xã hội và tự nhiên luôn vận động, biến đổi
và phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội trong tiến trình lịch sử - tự
nhiên. Đó là thuộc tính tất yếu, vốn có, khách quan của mối quan hệ giữa con
người, xã hội và tự nhiên. Bởi vì, sự thống nhất vật chất của thế giới nằm
trong sự vận động chuyển hóa và không ngừng phát triển, vận động là một
thuộc tính vốn có của vật chất, là cách thức tồn tại của vật chất, bất kỳ ở đầu

và bất kỳ lúc nào cũng không có và không thể có vật chất mà không vận động.
1.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu sự vận động, biến đổi và phụ thuộc của mối quan hệ biện
chứng giữa tự nhiên con người và xã hội vào trình độ phát triển của nên sản
xuất xã hội rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận để giải quyết các vấn đề
về môi trường như sau:


Một là khi giải quyết những mối quan hệ biện chứng giữa con người
với tự nhiên con người phải đứng trên quan điểm lịch sử - cụ thể
Hai là con người – nhân tố có ý thức duy nhất, chủ thể tích cực trong
việc điều khiển một cách tự giác các mối quan hệ giữa con người xã hội và tự
nhiên cần phải nhận thức cho được những quy luật tồn tại và phát triển của
giới tự nhiên và phải biết vận dụng một cách đúng đắn, chính xác và tự giác
những quy luật đó vào hoạt động thực tiễn của xã hội: đó là giải quyết hài hòa
mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mà quan trọng nhất là lĩnh vực sản
xuất.
1.3. Nhận xét chung
1.3.1. Vai trò của các yếu tố tự nhiên – con người – xã hội
Thế giới vật chất muôn màu vuôn vẻ vô cùng đa dạng và phong phú,
được tạo thành từ vô vàn yếu tố, trong đó có ba yếu tố cơ bản đó là giới tự
nhiên, con người và xã hội. Nghĩa là về bản chất: các yếu tố con người, tự
nhiên và xã hội là những dạng thức khác nhau của thế giới vật chất, nhưng
chúng lại thống nhất với nhau trong một hệ thống vật chất đó là giới tự nhiên
– con người – xã hội.
- Về yếu tố tự nhiên
Tự nhiên là môi trường sống của loài người, là điều kiện, tiền đề tồn tại
và phát triển của xã hội và con người, là cơ sở vật chất của sự thống nhất biện
chứng giữa con người, xã hội và tự nhiên. Chỉ có tự nhiên mới có thể cung
cấp đầy đủ nhất những điều kiện cần thiết cho sự sống của con người (ánh

sáng, nước, không khí, thức ăn…) và những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại
của con người.
- Yếu tố con người
Xét về mặt cấu trúc, con người là sản phẩm đặc biệt cao nhất trong quá
trình tiến hóa của thế giới vật chất. Xét về mặt chức năng, con người là chủ
thể tích cực là hạt nhân trong mói quan hệ giữa con người với tự nhiên.
- Yếu tố xã hội
Xã hội vừa là sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, được tách ra hợp quy luật
trong quá trình tiến hóa lâu dài và phức tạp của thế giới vật chất, vừa là sản


phẩm của sự tác động qua lại giữa con người với con người trong quá trình
lịch sử - tự nhiên. Do vậy, có thể khẳng định: “Xã hội là một bộ phận đặc thù
của tự nhiên cả về mặt cấu trúc và chức năng”.
1.3.2. Sự thống nhất biện chứng giữa tự nhiên, con người và xã hội
Như trên đã khẳng định mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và
giữa con người với con người luôn vận động và biến đổi, chúng vừa phụ
thuộc, vừa quy định lẫn nhau trong suốt quá trình phát triển của xã hội loài
người. Trong đó, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên giữ vai trò quyết
định, còn mối quan hệ giữa con người với con người giữ vai trò là yếu tố phụ
thuộc và đồng thời cũng có tính độc lập tương đối.
Xã hội loài người hiện nay muốn thỏa mãn được mọi nhu cầu về vật
chất cũng như tinh thần của mình, nhưng không làm tổn hại đến thế hệ mai
sau, thì không có giải pháp nào thông minh hơn là phải điều khiển một cách
hài hòa mối quan hệ biện chứng tự nhiên, con người và xã hội. Nghĩa là muốn
phát triển xã hội bền vững phải giải quyết cho được mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên và giữa con người với con người cụ thể là phải giải quyết
cho được mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của nền sản xuất xã hội
với chiến lược phát triển bền vững. Bởi vì mọi vấn đề bức xúc, phức tạp về
môi trường ngày nay suy cho cùng đều bắt nguồn từ sự phát triển của nền sản

xuất xã hội.
1.3.3. Cơ chế đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa tự nhiên, con người và xã hội
Con người và xã hội loài người với tư cách là những cơ thể sống để tồn
tài và phát triển phải tiến hành phương thức trao đổi chất với môi trường tự
nhiên, đố chính là chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên, được tuân theo
các nguyên tắc magn tính quy luật đó là: tự tổ chức, tự điều chỉnh, ự cân bằng,
tự đổi mới và tự bảo vệ theo một trật tự liên hoàn chặt chẽ. Mặt khác, con
người và xã hội với tư cách là chủ thể tích cực trong sự điều khiển mối quan
hệ biện chứng giữa con người, xã hội và tự nhiên, muốn tồn tại và phát triển
bền vững phải tiến hành phương thức trao đổi chất đặc thù giữa xã hội loài


ngi vi t nhiờn ú l nn sn xut xó hi. Nh cú c ch thng nht ny ó
m bo s cõn bng trong h thng t nhiờn con ngi xó hi.
Nh vy, iu kin tn ti v phỏt trin ca con ngi v xó hi lũi
ngi. V amwtj t nhiờn chớnh l chu trỡnh tun hon vt cht trong t nhiờn,
v mt xó hi chớnh l phng thc troa i cht c thự gia xó hi loi
ngi vi t nhiờn ú chớnh l nn sn xut xó hi.
II.

THC TRNG MễI TRNG SINH THI HIN NAY TRONG MI

QUAN H GIA T NHIấN, CON NGI HIN NAY
II.1. Khái quát về môi trờng và các nguồn tài nguyên của Việt Nam:
Việt Nam: Những số liệu thống kê chính
Thủ đô : Hà Nội
Ngôn ngữ chính thức : tiếng Việt
Đơn vị tiền tệ : đồng
Diện tích : 329.566 km2
Dân số ớc tính (năm 1998) : 78 triệu ngời

Tốc độ tăng trởng dân số : 2,3%
Mật độ dân c
: 210 ngời/km2
Thời gian tăng gấp đôi số dân
: 31 năm
Diện tích bảo tồn trên tổng số diện tích : 7 %
Tổng số diện tích đợc bảo tồn : 22.976 km2
Số khu vực đợc bảo tồn : 101
(Nguồn: UNFPA, Cục kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn)
Các nguồn tài nguyên Việt Nam:
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam:
Quỹ đất của việt Nam có tổng diện tích hơn 33 triệu ha, tổng diện tích
đất bình quân đầu ngời là 0,6 ha (đứng thứ 159 trên thế giới).
Tổng số có hơn 16 triệu ha đất feralit, 3 triệu ha đất phù sa, đất mùn
vàng đỏ hơn 3 triệu ha, đất xám bạc màu hơn 3 triệu ha... Tổng tiềm năng dự
trữ quỹ đất nông nghiệp của Việt Nam là 10 - 11 triệu ha, trong đó gần 7 triệu
ha đợc sử dụng vào nông nghiệp, 3 trên 4 trong số đó là trồng cây hàng năm.
Mặn hóa, chua phèn hóa, bạc màu hóa, cát lấn , đất trũng úng nớc, đất
dễ bị thoái hóa, đất khó phục hồi là những vấn đề cần phải lu ý.
2.1.2. Tài nguyên nớc Việt Nam:


Việt Nam có khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km trở lên).
Tổng dòng chảy của hệ thống sông Cửu long là 520 km3 /năm, của
sông Hồng và sông Thái bình 120 km3/năm.
Nớc ngầm có thể khai thác khoảng 2,7 triệu km3/ngày.
Đến năm 2000 lợng nớc lấy đi cho tiêu dùng ở Việt nam tổng số
khoảng 90 đến 100 km3 (xấp xỉ 30% lợng nớc sản sinh ra trong lãnh thổ.
2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam:

Nớc ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế giới là Thái Bình
Dơng và Địa Trung Hải.
Việt nam có hơn 3500 mỏ gồm 80 loại khoáng sản. Mới chỉ có 270 mỏ
đợc khai thác gồm 32 loại khoáng sản.
Khoáng sản chủ yếu: Than trữ lợng 3 đến 3,5 tỷ tấn; dầu mỏ trữ lợng
Vịnh Bắc bộ là 500 triệu tấn, Nam Côn sơn 400 triệu tấn, Cửu long 300 triệu
tấn, Vịnh Thái lan 300 triệu tấn; quặng sắt trữ lợng 700 triệu tấn; khí đốt thiên
nhiên có trữ lợng lớn.
Tài nguyên khoáng vật của Việt nam đợc đánh giá là to lớn, đủ cơ sở
cho công nghiệp hóa.
2.1.4. Môi trờng và tài nguyên biển Việt Nam:
Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 có nhiều tiềm năng về
kinh tế và có độ đa dạng sinh học cao.
Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lợng cao, còn có nhiều hải sản quý
nh: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải sâm, bào ng, rùa biển, đồi mồi, ngọc trai.
Ven bờ có sò, ngao , điệp, hàu, phi, don với sản lợng hàng chục vạn tấn một
năm.
Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 ổ bão của hành tinh. Hơn 100
năm gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm.
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:
Việt Nam là nớc có nguồn tài nguyên rừng lớn và có giá trị. Nhiều ngời
dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam có từ 7 đến 8 triệu dân sống ở rừng,
18 triệu dân có cuộc sống gắn với rừng.
Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lợng, dợc liệu, gien động vật hoang
dã. Rừng ngập măn là cái nôi của tôm cá biển, bảo tồn sinh học, chống sói
mòn đất, điều hòa khí hậu, tăng nớc ngầm, chống lũ lụt, xâm thực. Thảm thực
vật
phong phú của rừng Việt Nam đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam có một hệ
động vật và nguồn tài nguyên động vật vô cùng phong phú, đa dạng và đày sự



hấp dẫn. Chính nguồn tài nguyên động vật này đã từng là nguồn cung cấp thực
phẩm, là
nguồn dợc liệu độc đáo, là nguyên liệu chế biến ra các mặt hàng mỹ
nghệ trang điểm cho cuộc sống.
Tuy nhiên tài nguyên rừng Việt Nam lại cha đợc khai thác hợp lý.
Trung bình hàng năm Việt Nam mất 200 ngàn ha rừng. Độ che phủ rừng từ
37% năm 1943, năm 2000 còn khoảng 20%(66.420 km2).
Về đa dạng sinh học, Việt nam có độ đa dạng sinh học cao:
Về thực vật: Có khoảng 12.000 loài cây có mạch, 10% là đặc hữu. 800
loài rêu, 600 loài nấm lớn.2300 loài dùng làm lơng thực, thực phẩm, thức ăn
cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu,1500 loài cây làm dợc liệu. ở dới nớc ngọt có hơn
1000 loài tảo. Nhiều loài có giá trị dinh dỡng cao. ở biển cũng có hơn 1000
loài tảo.
Giới động vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng về thành phần loài
Bảng so sánh thành phần loài động vật ở Việt Nam so với thế giới (chỉ
tính một số nhóm động vật ở bậc loài)
STT
Nhóm động
Số loài ở
Số loài trên
vật
Việt Nam
thế giới
1
Thú
275
4.000
2
Chim

828
9.672
3
Bò sát
260
6.300
4
Lỡng c
82
4.184
5

2.600
19.000
6
Côn trùng
7.000
751.000
Hệ động vật rừng Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà
có những nét đặc trng cho hệ động vật Đông Nam á, không những thế Việt
Nam có mức độ cao về tính đặc hữu (endemic) so với các nớc trong vùng phụ
Đông Dơng. Thiên nhiên Việt Nam với sự đa dạng sinh học có tầm cỡ quốc tế
đợc chú ý và đánh giá cao.
Tuy nhiên do các hoạt động khai thác không hợp lý các nguồn tài
nguyên sinh vật, phá hủy môi trờng sống, đa dạng sinh học Việt Nam đang bị
đe dọa nghiêm trọng.
Nhiều loài động vật đã biến mất hoàn toàn (nh tê giác hai sừng), số loài
bị đe dọa ngày càng nhiều. Một số loài có nguy cơ bị tuyệt diệt là: tê giác một
sừng, bò xám, bò rừng, hạc cổ trắng, đồi mồi, cóc tía...
Tê giác Java (tê giác một sừng: Rinoceros sondaicus) là loài có nguy cơ

tuyệt chủng cao hàng đầu ở Việt Nam và trên thế giới. ở Việt Nam chỉ có
khoảng 7 cá thể loài này tại Vờn quốc gia Cát Tiên.


2.1.6. Vấn đề môi trờng ở Việt Nam:
Do chiến tranh tàn phá, sự gia tăng dân số nhanh, sự phát triển của các
ngành kinh tế, tài nguyên môi trờngViệt Nam đã bị phá hủy nhiều. Thực sự
Việt Nam đang gặp nhiều vấn đề về môi trờng.
Ngày nay Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiên đại
hóa đất nớc, nền kinh tế mới chuyển đổi sang kinh tế thị trờng. Sự phát triển
công nghiệp với những công nghệ ít thân thiện với môi trờng đồng thời với
một hệ thống chính sách và thực hiện ít hiệu quả trong việc bảo vệ môi trờng
đang làm cho môi trờng Việt Nam trở nên ô nhiễm hơn. Cơ chế thị trờng cùng
với một bộ phận nhân dân thiếu hiểu biết sẵn sàng khai thác đến cạn kiệt mọi
nguồn tài nguyê vì lợi nhuận. Đói nghèo cũng đẩy nhiều ngời vào cảnh phải
tàn phá thiên nhiên vì miếng cơm manh áo hàng ngày. Ngay cả du lịch sinh
thái, khi đợc tổ chc không hợp lí cũng phá hủy cảnh quan môi trờng. Rác thải
sinh hoạt, công nghiệp, khói bụi ngày càng nhiều hơn và thực sự rất khó giải
quyết.
Bảy vấn đề môi trờng gay cấn của Việt Nam:
Nạn phá rừng:
Năm 1943 ta có 37% đất phủ xanh
Năm 1975 " 29,1% "
Năm 1983 " 23,6% "
Đối với vùng nhiệt đới dới 30% là khủng hoảng môi trờng. Chế độ thủy
văn thay đổi khí hậu thay đổi, cảnh quan thay đổi, suy thoái độ đa dạng sinh
học.
Suy giảm tài nguyên đất: Giảm diện tích bình quân đầu ngời là do dân
số tăng.
Năm 1940 Việt Nam có 0,2 ha/ ngời

1960 Việt Nam có 0,18 ha/ ngời
1970 Việt Nam có 0,15 ha/ ngời
1980 Việt Nam có 0,13 ha/ ngời
1990 Việt Nam có 0,11 ha/ ngời
Năm 2000 Việt Nam có 0,06 ha/ ngời
2010 Việt Nam có 0,04 ha/ ngời
Đất bị xói mòn, rửa trôi, laterit hóa, chua phèn hóa, mặn hóa.
Sử dụng tài nguyên nớc không hợp lệ. Không giữ đợc nớc vì không có
hồ chứa nớc, kĩ thuật điều tiết nớc thấp. Thiếu nớc nghiêm trọng vào mùa khô.


Ô nhiễm nớc nặng nề ở Đồng bằng sông Cửu Long. Ô nhiễm mặn do khai
thác nớc ngầm
Tài nguyên khoáng sản bị tổn thất, khai thác không hợp lí. Than lộ thiên
mất 15-20%. Hầm lò mất 30-40%. Sử dụng đá granit để rải đờng. Gây ô
nhiễm môi trờng do khai thác khoáng sản. Khai thác vàng, đá quý bừa bãi.
Suy thoái đa dạng sinh học: Nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng.Sách đỏ
đã liệt kê 500 loài động gặp nguy hiểm, 60 loài tuyệt chủng. Các hệ thống vờn
quốc gia xây dựng và bảo vệ tốt nhng rất khó khăn về thể lệ, nguồn lực để bảo
vệ. Có 3200 km bờ biển nhng không đủ vốn để sắm tàu nên khai thác bừa bãi
vùng ven bờ, nuôi thủy sản không khoa học.
Ô nhiễm môi trờng từ nớc, không khí, rác, chất thải, tiếng ồn. Các khu
công nghiệp ô nhiễm hóa chất.
Hậu quả của chiến tranh: Hiện nay chất độc trong chiến tranh còn ảnh
hởng, nhiều ngời còn di chứng không khắc phục đợc.
Nhìn chung chất lợng môi trờng Việt Nam ngày một xấu đi.
2.2. Nhìn ra thế giới - Những bài học:
2.2.1. Vấn đề môi trờng trên thế giới:
Rất nhiều nớc trên thế giới cũng gặp những vấn đề về môi trờng nh
Việt Nam. Trung Quốc cùng ở trong giai đoạn phát triển nh Việt Nam song có

đi trớc Việt Nam một thời gian, cho đến nay những vấn đề môi trờng ở Trung
Quốc là rất nan giải: ô nhiễm nớc, rừng không còn, khói bụi...
Nhiều nơi khác đã gặp thảm họa ngay từ bây giờ:
Biển Aral là một điển hình về thảm họa sinh thái do con ngời gây ra.
Biển Aral ở Trung á - một nơi ô nhiễm nhất trên Trái Đất. Một thời nổi tiếng la
Biển Xanh, đã từng là hồ nớc ngọt lớn thứ t thế giới, nhng chỉ trong vòng 30
năm, nó đã bị thu hẹp tới hơn một nửa diện tích và nớc của nó trở nên mặn nh
nớc biển. Khi nguồn nớc cạn kiệt và bốc hơi, để lại trong lòng hồ3,6 triệu ha
đất bị ô nhiễm và những trận bão dữ dội lại quét lợng đất ô nhiễm này đổ sang
các vùng đất xung quanh. Thực phẩm giờ đây khan hiếm, tỉ lệ tử vong trẻ sơ
sinh đang tăng lên và tuổi thọ của ngời dân vùng này, theo một số chuyên gia,
đang giảm xuống 20 năm.
Thảm họa sinh thái này là do qua nhiều thập kỉ biển Aral không đợc
chú ý đến và bị quản lí sai lầm, nh khai thác nớc quá mức do hệ thống tới tiêu,
để các chất thải chảy từ sông ra biển một cách bừa bãi, sử dụng một lợng nớc
lớn cho thủy điện. Ngày nay, Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế Giới, Liên hiệp
châu Âu và một số nớc khác đang huy động nỗ lực quốc tế để phục hồi cân


bằng sinh thái của vùng biển Aral, bổ sung nguồn tài nguyên và cấp bách giải
quyết các vấn đề nh sức khỏe cộng đồng, nớc, thuốc trừ sâu và những vấn đề
khẩn cấp khác trong cuộc chạy đua với thời gian.
Haiti là một ví dụ khác, nớc này đã bị mất toàn bộ rừng nhiệt đới do
chặt phá bừa bãi dùng làm chất đốt. Cứ mỗi khi mùa ma đến nớc này lại phải
chịu lũ lụt khủng khiếp, lở đất xói mòn rửa trôi đất canh tác xảy ra ở khắp mọi
nơi.
Số liệu về sự mất sinh cảnh ở một số nớc có độ đa dạng sinh học cao:
Nớc
Diện tích
Diện tích

%bị
còn lại
ban đầu
mất
km2
km2
INDONESIA
746.860
1.446.430
49%
NAM PHI
531.700
1.236.500
57%
ETHIOPIA
330.300
1.101.000
70%
MYANMAR
225.980
774.820
71%
MANDAGASCA
148.800
595.200
75%
R
CAMEROON
192.450
469.400

59%
MALAYSIA
210.190
356.250
41%
VIệT NAM
66.420
332.100
80%
Bờ BIểN NGà
66.780
318.000
79%
PHILIPPIN
64.720
308.200
79%
Nguồn: WWF.
Mất sinh cảnh làm giảm độ đa dạng sinh học, phá vỡ cân bằng sinh
thái. Một nửa số loài đang tồn tại ngày hôm nay có thể sẽ bị tuyệt chủng vào
cuối thế kỉ tới. Nếu không hành động, sau đó sẽ là chúng ta.
2.2.2. Thế giới hành động - Lối thoát.
Tình trạng hủy hoại môi trờng không chỉ ảnh hờng đến từng quốc gia
riêng lẻ, mà nó tác động đến toàn thế giới. Giờ đây những vấn đề môi trờng đã
mang tính toàn cầu. Muốn giải quyết nó là không dễ và cần có sự phối hợp
của nhiều quốc gia.
Thay đổi khí hậu là một vấn đề toàn cầu. Các nhà khoa học cảnh báo
Trái Đất đang nóng lên, và nếu tình trạng này không đợc giải quyết thì sẽ
mang đến một thảm hoạ mà con ngời không thể tởng tợng. Tuy nhiên có thể
phác thảo thảm họa này nh sau: Trái Đất nóng lên băng 2 cực tan ra các

dòng hải lu thay đổi các vùng đất thấp ngập trong nớc, khí hậu biến đổi
mùa màng thất bát, bệnh dịch, mất sinh cảnh, mất đa dạng sinh học khủng
hoảng lơng thực khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu: đó là thảm họa.
Songcó nhiều ngời vẫn không công nhận Trái Đất đang nóng lên, bởi nếu nhìn
từng năm thì có năm nóng hơn nhng cũng có năm lạnh hơn. Phải nhìn vào xu


thế của hàng chụ c nămmới thấy đợc nhiệt độ đang tăng lên. Việc giải quyết
vấn đề naỳ cũng cần có thời gian, bởi khí hậu có sức ỳ lớn. Ngay cả khi lợng
khí thải gây hiệu ứng nhà kính bây giờ đợc chấm dứt một cách thần kỳ thì ảnh
hởng của việc xả khí thải từ trớc vẫn còn làm tăng nhiệt độ và mực nớc biển
trong những thế kỉ tới. Bên cạnh đó còn có nhiều thảm họa toàn cầu khác cũng
đang đợi chúng ta.
Mà với tốc độ tăng trởng khiêm tốn là 3% một năm, nền kinh tế toàn
cầu trong 50 năm tới sẽ có quy mô gấp bốn lần hiện nay. Liệu nền kinh tế to
lớn đó có tạo ra ít căng thẳng về xã hội và môi trờng hơn một nền kinh tế nhỏ
bé hơn nhiều hiện nay không?Hay liệu chúng ta có giải quyết đợc vấn đề hay
không?
Câu trả lời là có và lối thoát là phát triển bền vững:
Phát triển bền vững (sustainable development) là một khái niêm mới ra
đời từ Hội nghị về môi trờng tại Rio de Zanero năm 1992 có ý nghĩa: một sự
phát triển đợc coi là bền vững khi nó không làm ảnh hởng đến khả năng cung
cấp các nhu cầu thiết yếu cho các thế hệ mai sau.
Những nội dung của phát triển bền vững chủ yếu là quy hoạch sử dụng
hợp lý lâu bền các nguồn ttài nguyên thiên nhiên, chú ý bảo vệ môi trờng và
gìn giữ đa dạng sinh học, cân bằng một cách hài hòa lợi ích của ngời dân và
các mục tiêu bảo vệ môi trờng, chú ý đến giáo dục, y tế và cuộc sống của nhân
dân.
Một trong 8 Mục tiêu phát triển Thiên niên kỉ (MDGs) của LHQ là phát
triển bền vững

Mục tiêu 7: Đảm bảo sự bền vững môi trờng
Lồng ghép phát triển bền vững vào các chính sách quốc gia và đảo ngợc
sự tổn thất tài nguyên môi trờng.
Giảm một nửa số ngời không có khả năng tiếp cận nớc sạch
Cải thiện đáng kể cuộc sống của ít nhất 100 triệu c dân xóm liều
Con đờng đi tới một tơng lai bền vững:
Hầu hết vốn vật chất cần thiết cho nền kinh tế trong 50 năm nữa vẫn
còn cha đợc xây dựng. Đây là cơ hội để đa tiêu chí bền vững vào các dự án
đầu t hiện nay. Khi đó, có khả năng thay đổi đợc con đờng phát triển, với điều
kiện có thể xây dựng đợc những thể chế cho phép áp dụng và thực hiện những
chính sách tốt hơn.
2.3. Việt Nam hành động:


Trong xu thế hành động của thế giới, Việt Nam cũng có những hành
động của mình:
Từ năm 1981 nhà nớc đã cho tập hợp các trờng đại học, các viện, thành
lập Chơng trình Quốc gia về Bảo vệ môi trờng.
Công tác môi trờng ở nớc ta có 3 giai đoạn:
+ Từ 1975-1980 : Hồi phục.
+ Từ 1981-1990 : Xử lí môi trờng trong phát triển sau chiến tranh.
+ Từ 1990 đến nay là phát triển môi trờng bền vững.
- ở Canada, ta đã trình bày chiến lợc quốc gia của mình về bảo vệ môi
trờng:
+ Bảo vệ các hệ sinh thái, hệ nông nghiệp, thủy sản, rừng.
+Bảo vệ độ đa dạng sinh học.
+Khuyến cáo sử dụng năng lợng tiết chế, tiết kiệm.
+Bảo đảm chất lợng cuộc sống cho cộng đồng.
+Bảo vệ môi trờng có liên quan tới toàn cầu.
- Năm 1985 Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng ra chỉ thị Bảo vệ môi trờng.

-1991- 2000 ta chấp nhận phát triển bền vững ở hội nghị RIO.
-Chơng trình quốc gia về phát triển bền vững có nội dung hoạt động
theo 5 hớng là :
+ Có luật lệ chính sách về môi trờng.
+ Xây dựng các cơ quan môi trờng. Đầu 1992, Bộ Khoa học Công nghệ
va Môi trờng ra đời.
+ Khuyến cáo phải quan trắc và thông tin bảo vệ môi trờng. Thực hiện
Monitoring.
+ Xây dựng chiến lợc phát triển bền vững cho ngành và địa phơng.
+ Đánh giá tác động môi trờng, tai biến môi trờng.
7 chơng trình hành động:
+ Quản lí xây dựng.
+ Quản lí tổng hợp lu vực các sông.
+ Quản lí tổng hợp vùng ven biển, cửa sông.
+ Bảo vệ vùng đất ngâp nớc.
+ Bảo vệ đa dạng sinh học, các vờn quốc gia.
+ Kiểm soát ô nhiễm và xử lí phế thải.
Hai chơng trình hỗ trợ là:
+ Giáo dục đào tạo.
+ Quản lí hợp tác quốc tế.


Hiện nay chúng ta đã có bộ Bộ Tài nguyên và Môi trờng riêng để quản
lý các vấn đề tài nguyên môi trờng.
Những hoạt động này đã mang lại một số kết qua ban đầu song cần
phải tiếp tục duy trì lâu dài nhằm đạt đợc chiến lợc phát triển bền vững của nớc nhà. Thực sự vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
KT LUN
Môi trờng thực sự là một vấn đề lớn và cấp bách song việc giải quyết nó
lại cần một thời gian dài. Việc giải quyết này sẽ quyết định trực tiếp đến tơng
lai của loài ngời chúng ta.

Điều quan trọng ở đây là chúng ta phải nhận thức đợc một cách đúng
đắn mối quan hệ giữa tự nhiên, môi trờng và xã hội. Đây là cơ sở đầu tiên cho
việc giải quyết những vấn đề môi trờng hiện nay.
Sau khi đã nhận thức tốt chúng ta cần biến những nhận thức đó thành
hành động thực tế. Việc bảo vệ môi trờng và phát triển bền vững là vấn đề
toàn cầu điều đó có nghĩa nó là việc của mỗi chúng ta.
Để giải quyết các vấn đề môi trờng chúng ta cần có một t duy dài hạn
nhng hành động ngay từ bây giờ. Đây là một việc khó khăn nhng chúng ta cần
phải làm và làm cho thành công, bởi nều không chúng ta sẽ chết.
Mỗi ngừơi chỉ với những hành động nhỏ bé và thiết thực chúng ta có
thể góp phần thay đổi tơng lai. Mỗi sáng hãy đi xe đạp tới trờng, hãy tắt các
thiết bị điện không cần thiết, hãy trồng một chậu hoa, chỉ cần thế thôi. Chẳng
cần phải thật thông thái cao siêu chúng ta cũng hiểu đợc rằng không nên tàn
phá thiên nhiên chỉ vì những món lợi trớc mắt, bởi chúng ta muốn con cháu
chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn trong một thế giới tốt đẹp hơn.



×