Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Tội không chấp hành án theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

Téi kh«ng chÊp hµnh ¸n
theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

Téi kh«ng chÊp hµnh ¸n
theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG CHẤP
HÀNH ÁN ....................................................................................... 10
1.1.

KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI KHÔNG CHẤP
HÀNH ÁN ....................................................................................... 10

1.1.1.


Khái niệm Tội không chấp hành án .................................................. 10

1.1.2.

Một số đặc điểm của Tội không chấp hành án .................................. 15

1.2.

SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUI ĐỊNH TỘI
KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ... 21

1.2.1.

Sự cần thiết của việc qui định Tội không chấp hành án trong
Luật hình sự Việt nam ..................................................................... 21

1.2.2.

Ý nghĩa của việc qui định Tội không chấp hành án trong luật hình sự .. 22

1.3.

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY ... 23

1.3.1.

Tội không chấp hành án trƣớc khi có Bộ Luật hình sự 1985 .......... 23


1.3.2.

Tội không chấp hành án theo quy định của Bộ luật hình sự 1985 ....... 24

1.3.3.

Tội không chấp hành án theo Bộ luật hình sự năm 1999 ................ 25

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN ................................................. 28
2.1.

TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ 1999, PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TỘI KHÁC .... 28


2.1.1.

Khách thể ......................................................................................... 28

2.1.2.

Mặt khách quan................................................................................ 32

2.1.3.

Chủ thể ............................................................................................. 41

2.1.4.


Mặt chủ quan ................................................................................... 44

2.1.5.

Phân biệt Tội không chấp hành án với một số tội phạm khác có
liên quan ........................................................................................... 46

2.2.

HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP ............................ 53

2.2.1.

Hình phạt.......................................................................................... 53

2.2.2.

Các biện pháp tƣ pháp ..................................................................... 56

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN ..........58
3.1.

THỰC TRẠNG XỬ LÝ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN ............ 58

3.2.

CƠ SỞ CỦA CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ
LÝ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN .............................................. 68


3.2.1.

Hiến pháp 2013 - Cơ sở Hiến định cho việc quy định Tội không
chấp hành án..................................................................................... 68

3.2.2.

Xuất phát từ tình hình tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói
chung và Tội không chấp hành án hiện nay ở Việt Nam ................ 71

3.3.

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .......................................................... 71

3.3.1.

Những định hƣớng chung ................................................................ 72

3.3.2.

Đề xuất sửa đổi, bổ sung điều luật quy định về Tội không chấp
hành án đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự ................................. 74

3.4.

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN .................................................... 78

3.4.1.


Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật ......... 78

3.4.2.

Đẩy mạnh công tác hƣớng dẫn và áp dụng pháp luật...................... 78

3.4.3.

Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lƣợng của đội ngũ cán
bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp .......................................................... 79


3.4.4.

Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc
giải quyết các vụ án ......................................................................... 81

3.4.5.

Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động
tƣ pháp, các cơ quan tƣ pháp và cán bộ thuộc cơ quan tƣ pháp ...... 81

3.4.6.

Xây dựng án lệ ................................................................................. 83

3.4.7.

Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tƣ pháp ........ 84


KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

QHNQ:

Quan hệ nhân quả

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu


Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Thống kê khung hình phạt tù có thời hạn Điều 304
BLHS 1999

55

Bảng 3.1: Số liệu tình hình xét xử tội phạm trên toàn quốc từ năm
2011-2015

63

Bảng 3.2: Số liệu các vụ án xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã bị khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử trong 05 năm 2011 -2015

64

Bảng 3.3:

Số liệu các vụ án Tội không chấp hành án đã bị khởi tố,
xét xử 05 năm 2011 -2015

65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc, các cơ quan tƣ pháp giữ vị trí

quan trọng đặc biệt, là công cụ đắc lực để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Hoạt động của các cơ quan tƣ pháp là điều kiện cần thiết để
đảm bảo duy trì công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo sự hoạt động của các
cơ quan nhà nƣớc khác. Với tính chất quan trọng nhƣ vậy, hoạt động của các
cơ quan tƣ pháp cần thiết phải đƣợc bảo vệ bằng luật hình sự trong những
trƣờng hợp nhất định. Hoạt động của các cơ quan tƣ pháp có ý nghĩa quan
trọng trong hoạt động chung của bộ máy nhà nƣớc, nó không chỉ góp phần
bảo đảm cho hoạt động của xã hội (Nhƣ việc đấu tranh chống các loại tội
phạm nhằm bảo đảm an ninh – trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà
nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức và công dân), mà còn góp
phần vào công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, giáo dục công dân ý
thức tuân thủ pháp luật. Đây là lý do đòi hỏi phải có những biện pháp cần
thiết cũng nhƣ các quy phạm pháp luật phù hợp bảo đảm cho hoạt động đúng
đắn của các cơ quan tƣ pháp, chống lại mọi hành vi xâm hại việc thực hiện
chức năng của các cơ quan này.
Điều 106 của Hiến pháp 2013 đã nêu rõ: "Bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành"
[37, Điều 106]. Bản án, quyết định của Tòa án đƣợc thi hành chính là lúc công
lý đƣợc thực hiện trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục
đích cảm hoá tƣ tƣởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm
mục đích làm cho ngƣời thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội và góp
phần răn đe, ngăn ngừa chung, các phần dân sự trong bản án hình sự, hôn

1


nhân gia đình, dân sự, kinh tế... đƣợc thực hiện góp phần nâng cao nhận thức
của mọi công dân, tổ chức xã hội về sự công bằng của xã hội cũng nhƣ ý thức
trách nhiệm của mọi ngƣời trong việc tuân thủ pháp luật. Việc chấp hành bản

án là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, chấp hành bản
án, quyết định của tòa án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử. Nếu việc chấp hành bản án không đƣợc thực thi thì toàn bộ
hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trƣớc đó cũng trở nên vô nghĩa.
Nếu nhƣ một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không đƣợc
chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm thì trật tự kỷ cƣơng xã hội bị vi
phạm, quyền lực Nhà nƣớc bị xem thƣờng. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu
lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong
hoạt động quản lý Nhà nƣớc.
Tội không chấp hành án đƣợc quy định trong chƣơng các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp (Điều 304) của Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi không
chấp hành án là hành vi xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ
pháp. Chính vì vậy, Tội không chấp hành án đã gây những tổn hại không nhỏ
đến việc thực hiện chức năng và uy tín của các cơ quan tƣ pháp.
Hiện nay, tình hình tội phạm nói chung và Tội không chấp hành bản án
nói riêng đang ngày càng diễn biến phức tạp. Đặc biệt là Tội không chấp hành
bản án đang có chiều hƣớng gia tăng, điều này đã gây bức xúc trong dƣ luận.
Thực tiễn cho thấy nhiều tổ chức, cá nhân vì chạy theo lợi nhuận đã thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng về việc không chấp hành án. Những
hành vi này cần bị xử lý hình sự để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung, đáp
ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh đối với tội phạm nói chung và Tội
không chấp hành án nói riêng.
Mặc dù đã đƣợc quy định thành một điều luật riêng (Điều 304) tại Bộ
luật Hình sự năm 1999, điều này đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến

2


hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này, nhƣng
trên thực tiễn thi hành đã chỉ ra, bên cạnh mặt tích cực còn bộc lộ những hạn

chế nhƣ: a. Qua theo dõi các địa phƣơng thì thấy rằng, rất ít các vụ việc không
chấp hành án đƣợc xử lý hình sự theo quy định tại Điều 304 Bộ luật Hình sự.
Trên thực tế hành vi không chấp hành án vẫn xảy ra mà chƣa bị xử lý về hình
sự dẫn đến bỏ lọt tội phạm. b. Nhiều bản án về tội phạm này chƣa đúng với
tính chất mức độ phạm tội ảnh hƣởng đến tính nghiêm minh của pháp luật, tạo
ra sự mất bình đẳng trong xã hội làm mất lòng tin của nhân dân vào hệ thống
pháp luật hình sự; c. Hình phạt áp dụng đối với ngƣời phạm tội chƣa phản ánh
đúng với tính chất phạm tội của họ, chƣa đảm bảo chính sách xử lý nghiêm
minh đối với các trƣờng hợp phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn, gây khó
khăn cho các cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng thống nhất
quá trình xử lý vụ việc; d. Các hành vi cấu thành Tội không chấp hành án còn
quy định chƣa đầy đủ, ví dụ nhƣ: hành vi tẩu tán tài sản.
Những hạn chế nêu trên đã gây ra các hậu quả xã hội nhƣ: làm giảm
hiệu lực thi hành của các quyết định và bản án đã có hiệu lực của tòa án, đồng
thời làm vô hiệu hóa các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó
gây ra những bức xúc trong dƣ luận, giảm sút lòng tin trong nhân dân đối với
pháp luật hình sự, tạo tiền lệ chây ỳ, coi thƣờng việc chấp hành các bản án đã
có hiệu lực thi hành. Những hành vi này cần bị xử lý hình sự để răn đe, giáo
dục, phòng ngừa chung, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh đối với tội
phạm nói chung và Tội không chấp hành án nói riêng.
Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân nhƣ: thực tế chƣa có tiền lệ, nên
loại tội phạm này còn xa lạ với cơ quan tố tụng, nhiều nơi còn tâm lý e ngại
hoặc bỏ mặc, trong đó có qui định của pháp luật về tội phạm chƣa phù hợp, cụ
thể: Tội không chấp hành án lần đầu tiên đã đƣợc quy định thành một tội danh
độc lập trong BLHS 1999, nhƣng chỉ quy định chế tài mà chƣa có hƣớng dẫn

3


cụ thể về các yếu tố cấu thành tội danh không chấp hành án và thế nào là ''đã

bị áp dụng biện pháp cƣỡng chế cần thiết'' (hiện tại toàn bộ chƣơng các tội
xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong đó có tội danh không chấp hành án của Bộ
luật hình sự đều chƣa có hƣớng dẫn) nên khó cho các cơ quan tố tụng trong
việc khởi tố, truy tố, điều tra và xét xử.
Sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con ngƣời, quyền cơ bản của
công dân trong Hiến pháp 2013 đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các
quy định của Bộ luật hình sự hiện hành. Quyền con ngƣời cần đƣợc bảo đảm
thông qua hệ thống các cơ quan tƣ pháp nhƣ quyền làm chủ, quyền bảo vệ tài
sản, quyền đƣợc bảo đảm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm...đƣợc thông qua
hệ thống các cơ quan tƣ pháp
Việc chấp hành bản án là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết
một vụ án, chấp hành bản án, quyết định của tòa án có mối quan hệ hữu cơ
với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu việc chấp hành bản án
không đƣợc thực thi thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
trƣớc đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu nhƣ một bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật không đƣợc chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm
thì trật tự kỷ cƣơng xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nƣớc bị xem thƣờng.
Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là
một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nƣớc.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng
cao hiệu quả áp dụng xử lý Tội không chấp hành án là cần thiết nên tác giả
chọn đề tài “Tội không chấp hành án theo Luật hình sự Việt Nam” làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Do Tội không chấp hành án có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ
các hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, đồng thời là điều kiện cần thiết để

4



đảm bảo duy trì công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo hoạt động của các
cơ quan nhà nƣớc, nên ở trong và ngoài nƣớc đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phƣơng diện
khác nhau về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, trong đó có Tội không
chấp hành án.
Trong những năm qua, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp nói chung và Tội không chấp hành án đã thu hút đƣợc sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu đã đƣợc công bố nhƣ:
- Trần Minh Hƣởng, Đặng Thu hiền: “Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp”, Nhà xuất bản văn hóa Dân tộc, năm 2002;
- Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên: “Các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1997;
- Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ: “Tìm hiểu các tội hoạt động tư pháp
trong Bộ Luật Hình sự năm 1999”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001;
- Nguyễn Tất Viễn, Luận án Phí tiến sĩ Luật học: “Đảm bảo quyền con
người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, năm 1996;
- Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học: “Đảm bảo quyền con
người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, năm 2005;
- Đề tài nghiên cứu khoa học: “Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp và trách nhiệm của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu
tranh chống các tội phạm này”, Chủ nhiệm Đề tài Bùi Đức Long, cơ quan
chủ trì: Trƣờng Cao đẳng Kiểm sát, 1998.
Ngoài ra Tội không chấp hành án còn đƣợc nhiều các nhà nghiên cứu
khoa học, các đồng chí trực tiếp làm công tác tƣ pháp có nhiều trao đổi trên
các báo Pháp Luật, báo chuyên ngành, tại các hội nghị tổng kết và trong các
Giáo trình Luật hình sự của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình của
Khoa Luật trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội.

5



Các tác giả chủ yếu đề cập đến trách nhiệm hình sự, tìm hiểu và bình
luận về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong Luật Hình sự Việt Nam,
đảm bảo quyền con ngƣời trong hoạt động tƣ pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp với tƣ
cách là đối tƣợng hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân, chƣa có công trình
khoa học nào nghiên cứu sâu về riêng Tội không chấp án theo quy định của
luật hình sự Việt Nam.
Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Tội không chấp hành án theo luật hình sự Việt
Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những yếu tố cơ bản của Tội không chấp hành
án, qua đó thấy đƣợc những tồn tại, hạn chế và rút ra phƣơng pháp đúng đắn
thiết yếu trong đấu tranh phòng chống tội phạm không chấp hành án. Đồng
thời cho ta thấy đƣợc tình hình diễn biến của loại tội phạm này và có biện
pháp đúng đắn để ngăn chặn và đi đến đẩy lùi tội phạm. Qua đó thấy đƣợc
việc đấu tranh phòng chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội, cần có
sự phối hợp của các cơ quan, ban ngành nhằm tạo nên sức mạnh để đẩy lùi tội
phạm này góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tạo sự
tin tƣởng của nhân dân đối với hệ thống các cơ quan tƣ pháp.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn này nghiên cứu các quy định của pháp luật về Tội
không chấp hành án dƣới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong
thực tiễn, từ đó luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
về Tội không chấp hành án trong luật hình sự Việt Nam, cũng nhƣ đề xuất
những giải pháp nâng cao hiệu quả của tội này trong thực tiễn áp dụng.

6



3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong nƣớc
về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và Tội không chấp hành án
nói riêng, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về Tội không
chấp hành án nhƣ: Khái niệm, đặc điểm pháp lý của Tội không chấp hành án;
phân biệt Tội không chấp hành án với Tội không thi hành án;
- Khái quát sự phát triển của chế định Tội không chấp hành án trong
lịch sử pháp luật hình sự của nƣớc ta từ năm 1945 đến nay để rút ra những
nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về Tội không chấp hành án trong Bộ
luật hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định Tội không chấp
hành án, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc
áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Từ đó đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy định
về Tội không chấp hành án trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, cũng
nhƣ những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của tội này trong thực tiễn.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề sau:
Trên cơ sở nghiên cứu quy định về Tội không chấp hành án trong lịch
sử phát triển của pháp luật hình sự Việt nam kết hợp với việc nghiên cứu đánh
giá tình hình áp dụng Tội không chấp hành án trong thực tiễn xét xử của Tòa
án các cấp và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị
những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng Tội
không chấp hành án trong thực tiễn.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng Tội không chấp
hành án trong 05 năm (2011- 2015).

7


4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn đã sử dụng các phƣơng
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích
và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng
pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri
thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên
cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về Tội không chấp hành án, mà trong đó
giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới Tội
không chấp hành án trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản
của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong nƣớc về Tội không chấp
hành án để xây dựng nên khái niệm Tội không chấp hành án, bảo đảm tính
chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội không chấp
hành bản án trong mối tƣơng quan so sánh với một số chế định khác;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
và phát triển của Tội không chấp hành án trong luật hình sự Việt Nam từ năm
1945 cho đến nay;

8


- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình áp dụng quy định về Tội
không chấp hành án của Tòa án các cấp; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn
áp dụng Tội không chấp hành án, cũng nhƣ những nguyên nhân cơ bản của
các tồn tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả áp dụng Tội không chấp hành án trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng, có kết cấu nhƣ sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về Tội không chấp hành án.
Chương 2. Đặc điểm pháp lý về Tội không chấp hành án theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999.
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả xử
lý Tội không chấp hành án.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI KHÔNG CHẤP
HÀNH ÁN
1.1.1. Khái niệm Tội không chấp hành án
Tội không chấp hành án là một tội đƣợc quy định trong Bộ Luật hình
sự Việt Nam năm 1999. “Tội phạm là một chế định cơ bản, quan trọng nhất

trong luật hình sự, là sơ sở cho việc xác định một hành vi có phải là tội phạm
hay không. Đã có nhiều định nghĩa khoa học về tội phạm ở những cách tiếp
cận và quan điểm khác nhau” [23]. Khái niệm tội phạm đƣợc hình thành
trong quá trình phát triển, hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam. Trong Bộ
luật hình sự năm 1985, khái niệm này đã phản ánh một cách khá đầy đủ các
quy định về tội phạm và xác định cụ thể hành vi nào là tội phạm. Tuy nhiên
do sự phát triển của xã hội khái niệm tội phạm cũng đƣợc sửa đổi cho phù
hợp với hoàn cảnh thực tế, trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc,
chế định hình sự pháp luật của nƣớc ta, Bộ luật hình sự 1999 đã sửa đổi khái
niệm về tội phạm có tính khoa học thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà
nƣớc ta về tội phạm.
Tội không chấp hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chƣa có quy định nào định nghĩa hoặc
hƣớng dẫn chính thức về khái niệm “Hoạt động tƣ pháp”, mà tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng hoạt động tƣ pháp bao gồm hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng nhƣ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án;
của những ngƣời tiến hành tố tụng nhƣ Thủ trƣởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Viện trƣởng, Phó thủ trƣởng Cơ quan Cơ quan điều tra, Điều tra viên,

10


Viện trƣởng, Phó viện trƣởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên; Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm và Thƣ ký Tòa án.
Quan điểm thứ hai cho rằng hoạt động tƣ pháp còn bao gồm các chủ
thể đƣợc giao tiến hành một số hoạt động tố tụng nhƣ: Hải quan, Kiểm lâm,
Bộ đội Biên phòng, Kiểm sát biển; Cơ quan thi hành án (dân sự và hình sự).
Quan điểm thứ ba cho rằng, khái niệm hoạt động tƣ pháp phải hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm ba dạng hoạt động: hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực tố

tụng (tƣ pháp – tố tụng), hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực hành chính (tƣ
pháp – hành chính) và hoạt động bổ trợ tƣ pháp.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, khái niệm “hoạt động tƣ pháp”
chỉ nên hiểu theo nghĩa là “hoạt động tố tụng”, tức là hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án do các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và Thi
hành án; của những ngƣời tiến hành tố tụng nhƣ: Thủ trƣởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện Kiểm sát, Kiểm sát
viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thƣ ký Tòa án,
Chấp hành viên thực hiện.
Điều 292 BLHS 1999 qui định: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra,
kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [30, Điều 292].
Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp là hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của lĩnh vực tƣ pháp, nhƣng tính chất,
phạm vi của tƣ pháp có cách tiếp cận khác nhau, do đó quan niệm về tƣ pháp
ở các nƣớc cũng khác nhau. Ở nƣớc ta, khái niệm tƣ pháp đƣợc hiểu theo
nghĩa rộng là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức bảo vệ pháp luật, duy trì,
bảo đảm công lý, công bằng xã hội, trong đó hoạt động xét xử của cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng, là khâu trung

11


tâm.Vì vậy, khi nói tới Tòa án là nói tới biểu tƣợng điển hình của việc tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật, là nơi biểu hiện rõ nhất bản chất của pháp luật.
Hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua những thủ tục tố tụng nhất định, đối
với những vụ việc vi phạm pháp luật, tranh chấp của các chủ thể trong đời
sống xã hội, nhằm bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã
hội. Vì vậy, toàn bộ các hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tƣ

pháp (Giám định, Luật sƣ, Công chứng, Hộ tịch, Tƣ vấn pháp luật...) đều
nhằm phục vụ cho quá trình làm sáng tỏ chân lý, tìm ra sự thật của các vụ
việc đã diễn ra trên thực tế, để trên cơ sở đó, Tòa án đƣa ra phán quyết theo
qui định của pháp luật. Kết thúc giai đoạn xét xử, Tòa án quyết định những
vấn đề thuộc về nội dung vụ án, xác định trách nhiệm pháp lý và chế tài thích
hợp cho từng đối tƣợng cụ thể, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nƣớc, cơ quan, tổ chức và của công dân. Các bản án và quyết định xét xử của
Tòa án không những nhân danh Nhà nƣớc mà còn thể hiện quyền lực tối cao
của pháp quyền có hiệu lực thi hành, Điều 106 của Hiến pháp 2013 đã nêu rõ:
"Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [37, Điều 106]. Vì vậy, các bản án và
quyết định của Tòa án phải đƣợc nghiêm chỉnh chấp hành thì lúc đó kết quả
của các cơ quan tiến hành tố tụng mới đƣợc thực thi trên thực tế.
Hoạt động tƣ pháp là hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án và Cơ quan thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và giải
quyết các quan hệ pháp luật khác đƣợc phát sinh theo quy định của pháp luật,
nhằm bảo vệ các quyền của Nhà nƣớc, của các tổ chức, của công dân. Hoạt
động tƣ pháp là hoạt động quyền lực Nhà nƣớc do các cơ quan tƣ pháp thực
hiện. Các hoạt động này do ngƣời đại diện của các cơ quan tƣ pháp nhân danh
Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện theo chức danh đƣợc bổ nhiệm.
12


Nhƣ vậy, theo qui định của BLHS 1999, hoạt động tƣ pháp là hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, do đó xâm phạm đến sự đúng đắn
của các hoạt động này đƣợc coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức
phải xử lý bằng chế tài hình sự.
Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp chủ yếu là cán bộ

thuộc các cơ quan tƣ pháp. Hiện nay, chƣa có văn bản quy phạm pháp luật
nào hƣớng dẫn cụ thể thế nào là cơ quan tƣ pháp. Tuy nhiên, từ định nghĩa về
hoạt động tƣ pháp đã định nghĩa ở trên có thể hiểu cơ quan tƣ pháp là các cơ
quan Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện quyền tƣ pháp trong quyền lực nhà nƣớc
bao gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan
thi hành án. Trong cơ quan tƣ pháp có nhiều cán bộ, công chức thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ nhất định nhƣ các cán bộ thực hiện các hoạt động tƣ
pháp, các cán bộ thực hiện chức năng quản lý, các công chức giúp việc khác.
Cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp đƣợc bổ nhiệm theo điều kiện và cách thức
điều luật quy định.
Ngoài ra, chủ thể các tội phạm hoạt động tƣ pháp còn là những
ngƣời khác, trong một số trƣờng hợp nhất định mà hành vi phạm tội của
họ liên quan đến hoạt động tƣ pháp, nhƣ: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc
trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (Điều 311), Tội che giấu tội
phạm (Điều 313) [30].
Dựa vào đặc điểm của chủ thể tội phạm thì ta chia các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp thành bốn nhóm, trong đó Tội không chấp hành án thuộc
nhóm các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là đối tƣợng của các
bản án hoặc quyết định của cơ quan tƣ pháp đƣợc quy định tại các Điều 304
và 311 BLHS 1999
Đối với hình thức lỗi của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc
thực hiện chủ yếu bằng hình thức lỗi cố ý và bảo gồm cả hình thức hành động
phạm tội cũng nhƣ không hành động phạm tội.
13


Các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp có thể biểu hiện dƣới dạng hành động nhƣ bức cung, dùng nhục hình, ra
bản án trái pháp luật, trốn khỏi nơi giam; hoặc dƣới dạng không hành động
nhƣ: không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời có tội, thiếu trách nhiệm để

ngƣời bị giam, giữ trốn, không chấp hành án.
Tội không chấp hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp, nên nó cũng xâm hại đến khách thể loại của nhóm tội phạm này là sự
đúng đắn trong hoạt động tƣ pháp, bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án. Tội không chấp hành án hành án có mối liên hệ logic với các
tội phạm khác trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, tạo thành
một tổng thể hoàn chỉnh trừng trị những hành vi xâm phạm đến tính đúng đắn
trong quá tình giải quyết vụ án.
Từ những phân tích trên cho thấy, có thể đƣa ra khái niệm không chấp
hành án nhƣ sau: không chấp hành án là hành vi của những người có khả
năng, điều kiện để chấp hành án nhưng cố ý không chấp hành bản án, quyết
định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối với họ.
Qua khái niệm không chấp hành án cho thấy đó chính là hành vi không
chấp hành bản án, quyết định của tòa án mà bản án và quyết định của tòa án là
kết quả hoạt động tƣ pháp trong việc giải quyết các vụ án. Nhƣng đó chƣa
phải là kết quả cuối cùng của hoạt động tƣ pháp. Bản án cũng nhƣ các quyết
định của tòa án chỉ có ý nghĩa thực sự khi đƣợc chấp hành. Hành vi cố ý
không chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
không chỉ trực tiếp xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan thi hành án
mà còn vô hiệu hóa kết quả của các hoạt động tƣ pháp đã đƣợc thực hiện.
Từ khái niệm trên cho thấy hành vi không chấp hành án chính là không
chấp hành bản án. Về mặt lý luận cho đến nay chƣa có tác giả nào đề cập một
cách toàn diện về nội hàm của khái niệm bản án, quyết định của Tòa án, vì có

14


thể mọi ngƣời quan niệm pháp luật quy định về vấn đề này khá rõ ràng. Tuy
nhiên, trong thực tiễn pháp lý, khái niệm bản án, quyết định của Tòa án đôi
khi có những quan điểm khác nhau từ phía những ngƣời tiến hành và tham gia

tố tụng, có trƣờng hợp làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của bị cáo, các bên
đƣơng sự...Ví dụ nhƣ: khi Hội đồng xét xử đã tuyên án, việc thẩm phán chủ
tọa ra văn bản bổ sung những thiếu sót về số liệu, hoặc ra quyết định đính
chính một số nội dung, chi tiết nhƣ thực tiễn đã xảy ra, có đƣợc coi những tại
liệu đó là “ một phần” của bản án, quyết định của Tòa án hay không ? Bản
thân văn bản “ Trích sao bản án quyết định” có đóng dấu và chữ ký của Thẩm
phán chủ tọa, hoặc bản sao y do văn phòng của Toà án chứng thực có phải là
chính bản án, quyết định hay không ?..Mặt khác, ảnh hƣởng của bản án, quyết
định đối với số phận, tính mạng, tài sản của công dân, pháp nhân là rất lớn
nên theo quan điểm của tác giả, qua nghiên cứu các quy định pháp lý hiện
hành trong tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính thì khái
niệm chung về bản án, quyết định của Tòa án đƣợc hiểu là văn bản pháp lý
được Tòa án có thẩm quyền tuyên xử hoặc quyết định theo một trình tự tố
tụng do luật định về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi hoặc
quan hệ pháp luật phát sinh từ một vụ án cụ thể.
Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm Tội không chấp hành
án nhƣ sau: “Tội không chấp hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS cố ý không chấp hành bản
án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng
biện pháp cưỡng chế cần thiết”.
1.1.2. Một số đặc điểm của Tội không chấp hành án
Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 đã định nghĩa khái niệm tội phạm:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật
hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý

15


hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an

ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa [30, Điều 8].
Từ định nghĩa này có thể định nghĩa khái quát tội phạm nhƣ sau: Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải
chịu hình phạt.
Điều 304 quy định tội Không chấp hành án thuộc Chƣơng XXII các tội
xâm phạm hoạt động tƣ pháp BLHS 1999 nhƣ sau: “Người nào cố ý không
chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc
dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” [30, Điều 304].
Cũng giống nhƣ các tội phạm khác, Tội không chấp hành án là hành vi
nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý. Tuy nhiên, so với các loại
tội phạm khác, Tội không chấp hành án có những đặc điểm riêng nhƣ sau:
Thứ nhất, Tính nguy hiểm cho xã hội
Không chấp hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải đƣợc
hình sự hóa. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói lên
bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này đƣợc coi là dấu hiệu nội
dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy
định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy
hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các
quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã hội
do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp thống trị

16


thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đổi ở những xã

hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội nhƣng ở những thời kỳ khác
nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều đó đòi hỏi
nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của quan hệ xã hội để đánh giá
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trƣờng giai cấp. Tuy nhiên, tính chất
quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố duy nhất phản
ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chỉ khi đƣợc kết
hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy hiểm đã đến mức
coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay không. Tính nguy
hiểm cho xã hội đƣợc phản ánh ở hai đại lƣợng: tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt hại,
đƣợc xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ
xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ
của thiệt hại là đặc tính về "lƣợng" của thiệt hại, tùy theo từng loại thiệt hại
mà mức độ đó đƣợc biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của
thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm
"đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội
phạm hóa và phi tội phạm hóa.
Tội Không chấp hành án đƣợc qui định tại Điều 304 Bộ luật hình sự
1999 thì hành vi này tính nguy hiểm cho xã hội của nó đƣợc thể hiện ở chỗ:
Hành vi không chấp hành án đã xâm hại đến kết quả hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng nhƣ: Điều tra, truy tố, xét xử. Một trong những bộ
phận của hoạt động tƣ pháp trong quá trình giải quyết vụ án. Tƣ pháp là một
trong ba nhánh quyền lực của một nhà nƣớc, việc duy trì, củng cố, phát triển
quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của bất

17



×