Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Quan điểm của đảng về Công tác Dân vận trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.96 KB, 12 trang )

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Nguyễn Đình Cơ
Khoa Dân vận, trường Chính trị tỉnh Bình Định
Thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong suốt quá trình lãnh đạo 86 năm qua (1930 – 2016) gắn liền với sự trưởng thành của
Đảng, công tác dân vận đã trở thành một truyền thống cực kỳ quý báu, tốt đẹp của Đảng
ta. Công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng, có ý nghĩa chiến lược
trong mọi thời kỳ cách mạng, là điều kiện quan trọng bảo đảm giữ vững sự lãnh đạo của
Ðảng ta. Đảng đã vận động, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân tạo nên sức mạnh to
lớn, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một
người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành
những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”.
Đảng ta đưa ra quan niệm về CTDV: CTDV của Đảng là toàn bộ những hoạt động
của Đảng nhằm tuyên truyền, vận động, thu hút, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức
các phong trào nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và để chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện
quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
các khóa đã ban hành nhiều chủ trương về công tác dân vận.
Trong đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (số 25NQ/TW, ngày 3-6-2013) về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận trong tình hình mới. Đảng ta, đã chỉ ra rằng, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, cần quán triệt các quan điểm sau:

1



Quan điểm 1, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ.
Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Đó là một sự thật hiển nhiên,
được chứng minh bởi khoa học, có căn cứ lý luận và thực tiễn vững chắc từ các quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trong suốt quá trình cách mạng Việt
Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử.
Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham
nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất
nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.
Trong nhân dân, đảng viên của Đảng lúc nào cũng là thiểu số, do vậy tất cả công tác
của Đảng đều phải dựa vào nhân dân, tin tưởng ở nhân dân, thu hút trí tuệ của nhân dân,
tôn trọng sức sáng tạo của nhân dân, đồng thời chịu sự giám sát của nhân dân.
Đảng không chỉ phải thấy rõ vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân, mà
vấn đề có ý nghĩa quan trọng hơn đó là còn phải biết chăm lo cái gốc của mình là quần
chúng nhân dân, phải bám rễ trong nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Bất cứ lúc nào, làm gì và ở đâu, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải nhớ chính nhân dân
là người làm nên những thắng lợi lịch sử; “Nâng thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”,
“quan nhất thời, dân vạn đại”.
Bất kỳ ở đâu, trong ý thức cũng như trong hành động của mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng
và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuân theo yêu cầu căn bản đó là phải xuất phát từ
lợi ích và nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân, “những gì có lợi cho dân thì
hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh”; phải phát huy tối đa quyền làm
chủ của nhân dân, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, nhất là lợi ích trực tiếp liên

2



quan đến đời sống của nhân dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân...
nhằm tạo động lực thúc đẩy phong trào trong nhân dân.
Quán triệt sâu sắc quan điểm: sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, Đảng ta tiếp tục phát huy khả năng to lớn của các giai cấp, các tầng lớp nhân
dân tạo nên sức mạnh cộng đồng dân tộc, để xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh vì hạnh phúc của nhân dân.
-Quan điểm 2, động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ,
đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi
với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải
đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho
dân thì hết sức tránh.
Trong tiến trình tiếp tục đổi mới và phát triển ở nước ta, cần phải nghiên cứu và giải
quyết thỏa đáng những vấn đề kinh tế - xã hội liên quan trực tiếp tới quần chúng như: quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với đô thị hóa, là phân bổ, tái
cơ cấu lực lượng lao động, giải quyết việc làm và không ngừng nâng cao thu nhập, chất
lượng cuộc sống cho người lao động, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo...
Quán triệt quan điểm này, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao quan điểm vì dân
trong từng chủ trương và chính sách phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng thực hiện kiềm
chế lạm phát hoặc chống suy giảm kinh tế luôn đi đôi với ổn định kinh tế vĩ mô và bảo
đảm an sinh xã hội. Điều đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, củng cố quan hệ mật
thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Trong xã hội do nhân dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội
gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Công tác
vận động và tổ chức nhân dân chỉ có thể thành công khi Đảng, Nhà nước cùng các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị bảo vệ và đáp ứng trên thực tế những lợi ích thiết thân của
người dân, từ đó kết hợp hài hòa các lợi ích, gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ công dân.


3


Trong xã hội có nhiều giai tầng khác nhau và ngay trong mỗi giai tầng cũng có nhiều
nhóm xã hội khác nhau. Do đó, để tập hợp quần chúng, ngoài các tổ chức chính trị - xã
hội, trong từng giai đoạn cách mạng cần có những hình thức tập hợp quần chúng phù hợp,
đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống của từng nhóm, từng giai tầng,
hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái, giúp nhau trong cuộc sống,
trong sản xuất, kinh doanh để cùng phát triển...
Các tổ chức quần chúng được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự
trang trải về tài chính được tổ chức trong phạm vi địa phương hoặc có quy mô toàn quốc,
không nhất loạt giống nhau, đều được quản lý bằng pháp luật Nhà nước.
- Quan điểm 3, phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với
công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân
tin tưởng, noi theo.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là cách thức, phương pháp, bước đi để thực hiện
nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống. Phương thức lãnh đạo của Đảng luôn
phải bổ sung, hoàn thiện phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, với đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng trong từng giai đoạn cụ thể. Đây cũng là một yêu cầu khách
quan, một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng đảng nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng. Trong đó có nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công
tác dân vận.
- Quan điểm 4, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt
trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt.
Quan điểm này xác định chủ thể tiến hành công tác dân vận. Bác Hồ đã chỉ rõ: “Tất

cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân,
đều phải phụ trách dân vận. Đảng ta chỉ rõ: “Công tác quần chúng không chỉ là trách
4


nhiệm của các đoàn thể, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị, có sự phối hợp với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên
nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình”.
Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng là một nhiệm vụ quan trọng trong công
tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhằm tuyên truyền, giáo dục, thuyết
phục, tổ chức thực hiện và động viên quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học
dân và có trách nhiệm với dân” và theo phương châm “tất cả hướng đến quần chúng nhân
dân, phục vụ quần chúng nhân dân”.
Công tác vận động quần chúng không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của
các đoàn thể nhân dân, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị, cần phải thường xuyên phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với nhau dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình.
Đây không chỉ là một trong những phương thức cơ bản để đổi mới, phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, mà còn là phương thức trong cuộc đấu tranh quyết
liệt của các lực lượng cách mạng chống lại các thế lực thù địch trên các lĩnh vực để vận
động và tổ chức nhân dân tự giác đi theo con đường cách mạng, đập tan những âm mưu và
thủ đoạn nhằm chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- Quan điểm 5, Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ" thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ thống chính
trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang thực
hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa

học, hiệu quả.
Nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng, Đảng ta bao giờ cũng coi
trọng việc tổ chức, tập hợp nhân dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong giai đoạn mới
Đảng ta chủ trương đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, vì mấy lý do sau:
5


- Trong giai đoạn mới, cơ cấu giai cấp, dân cư, nghề nghiệp… có sự phát triển mới
cùng với sự phát triển kinh tế thị trường. Do đó nhu cầu lợi ich của xã hội, nhu cầu về tổ
chức cũng rất đa dạng.
- Để nhân lên sức mạnh của nhân dân, để xây dựng cuộc sống mới cần phải có nhiều
hình thức và hoạt động thích ứng.
- Trình độ của các tầng lớp nhân dân không đồng nhất, do đó phải có cấp độ khác
nhau về hình thức tập hợp.
Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân được thể hiện trên các mặt sau đây:
- Đa dạng hóa về mặt tổ chức: Các tổ chức chính trị - xã hội truyền thống gồm: Tổ
chức liên đoàn lao động (Công đoàn), Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh
niên, Hội phụ nữ. Các tổ chức mang tính xã hội, nghề nghiệp: Hội luật gia, Hội nhà báo,
Hội chữ thập đỏ, Hội nuôi ong, Hội làm vườn…; Hội nhân đạo từ thiện như Hội người
mù, Hội nạn nhân chất độc màu da cam, Hội bảo vệ người tàn tật và trẻ em mồ côi…; các
tổ chức theo nhu cầu cầu, sở thích như: thể dục, thể thao… đây là các tổ chức tự nguyện
của quần chúng nhằm giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực lao động, nghề nghiệp…đáp ứng
các nhu cầu, sở thích, nhân đạo.
- Đa dạng hóa về mặt hệ thống tổ chức:
+ Không nhất thiết đoàn thể nào cũng phải có tổ chức ở 4 cấp, mà tùy theo tình hình,
nhiệm vụ có thể chỉ tổ chức 1 hoặc 2 cấp. Có tổ chức chỉ có ở địa phương này mà không
có ở địa phương khác trong một thời gian nhất định hòan thành một công việc rồi tự giải
thể, cũng có tổ chức chỉ phát triển ở cơ sở như Hội cha mẹ học sinh…
+ Không nhất thiết phải tổ chức thành Hội, đoàn mà tập hợp nhân dân bằng nhiều
hình thức khác như: câu lạc bộ, các loại quỹ, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tương

trợ…
+ Các tổ chức chính trị xã hội cũng phải đa dạng hóa về nhiều hình thức tổ chức và
tập hợp nhằm phát huy vai trò nòng cốt, sáng tạo của các đoàn thể theo nhu cầu, nguyện
vọng của từng đối tượng quần chúng ở cơ sở…

6


+ Xu hướng chung là sẽ có nhiều tổ chức mới ra đời. Vấn đề đặt ra là ở đâu có sự tập
hợp quần chúng ở đó phải có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Ở đâu có sự
tập hợp của quần chúng ở đó có sự lãnh đạo của Đảng, tuyệt đối không được buông lỏng.
Liên hệ thực tiễn:
Quán triệt tinh thần đó, những năm qua, CTDV luôn được cấp ủy, chính quyền, ban,
ngành, đoàn thể, địa phương quan tâm đúng mức, với nhiều cách làm hay, sáng tạo và
mang lại hiệu quả thiết thực. Nội dung CTDV có trọng tâm, trọng điểm, hình thức đa
dạng, phong phú, xác định được mô hình phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, bám sát
nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và tình hình địa bàn; tích cực làm tốt công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. CTDV ở biên giới, vùng sâu, vùng xa đã giúp đồng bào các dân tộc thay đổi nếp
sống, cách nghĩ; sống định canh, định cư, xây dựng thôn, bản văn hóa, tích cực tham gia
phòng, chống tội phạm; không sinh hoạt đạo trái pháp luật, tàng trữ vũ khí, buôn bán ma
túy, tái trồng cây thuốc phiện. Thông qua CTDV, đồng bào các dân tộc đã nhận rõ âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”,
“nhân quyền” để chống phá cách mạng nước ta. Đồng thời, tích cực tham gia xây dựng cơ
sở chính trị địa phương vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu lực quản
lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền, hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể các cấp.
Đội ngũ cán bộ dân vận đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương phối hợp thực
hiện tốt công tác quốc phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, nâng cao
chất lượng chính trị của lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, v.v. Nhờ làm tốt

CTDV, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ được tăng cường; kinh tế - xã hội tiếp
tục phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện và ngày càng khởi sắc; chính trị, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được củng cố và giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội
nhập kinh tế thế giới được đẩy mạnh, vị thế nước ta ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế.
Tuy nhiên, hiện nay, CTDV của không ít cấp ủy, chính quyền các cấp vẫn còn những
hạn chế, cần khắc phục. Đó là, việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ
7


thị của Đảng về CTDV có lúc chưa kịp thời; chưa dự báo, nắm bắt được những diễn biến,
tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có biện pháp xử lý phù hợp. Việc thể
chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về CTDV còn chậm; công tác kiểm tra, sơ kết,
tổng kết thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTDV chưa được quan tâm đúng
mức. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc
chưa được giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc
của nhân dân. Phương pháp vận động, tập hợp quần chúng chưa phù hợp với từng đối
tượng, đặc biệt là đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, người theo đạo. Việc
chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm CTDV chưa đáp ứng yêu cầu. Sự phân
hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xâm phạm quyền
làm chủ của nhân dân là thách thức không nhỏ đối với CTDV và mối quan hệ máu thịt
giữa nhân dân với Đảng.
Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, hội nhập quốc tế, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, có nhiều vấn đề mới đặt ra cần phải giải quyết cả trước mắt và lâu dài, cả
thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn. Các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ chiến lược
“Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta, với âm mưu thâm độc là chia rẽ Đảng
với nhân dân, Đảng với Quân đội và Công an. Trước tình hình đó, đòi hỏi phải tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV phù hợp với yêu cầu của thực tiễn; tập trung

vào những giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục triển khai các nhóm giải pháp về xây dựng Đảng và quán triệt các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTDV. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân là nguồn gốc tạo nên sức mạnh để giành thắng lợi trong mỗi giai đoạn của cách mạng;
đồng thời, cũng là mục tiêu hướng tới của CTDV. Vì vậy, trong tình hình hiện nay, thực
hiện nghiêm túc các nội dung, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình,
tăng cường đoàn kết, thống nhất, gắn bó với nhân dân, cơ sở, ngăn chặn và đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc học
8


tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sẽ thiết thực góp phần nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước. Cùng với đó, các cấp ủy cần tiếp tục tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt sâu
sắc các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và Nhà nước về CTDV, như: Nghị quyết 25
của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của đảng
đối với CTDV trong tình hình mới, Quyết định 290 của Bộ Chính trị về Quy chế CTDV
của hệ thống chính trị, Chỉ thị 18 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường CTDV, Quyết
định 217, 218 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và về tham gia góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền đến toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn
viên, hội viên và người lao động. Trên cơ sở đó, từng địa phương, ngành, lĩnh vực có nghị
quyết, kế hoạch, chương trình CTDV phù hợp với đặc điểm, tính chất nhiệm vụ; đề ra mục
tiêu, yêu cầu đạt được, sao cho vừa đáp ứng sự phát triển của tình hình, vừa tạo sự đồng bộ
trong triển khai thực hiện.
Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao ý thức, trách nhiệm của cấp
ủy, người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp đối với CTDV. Trong đó, lấy chi bộ
làm trọng tâm để chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng phải
bám sát nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, sâu sát đến từng địa bàn, cơ sở; thấy

được những thuận lợi, khó khăn cùng tâm tư, nguyện vọng và những bức xúc của người
dân để có giải pháp lãnh đạo phù hợp, tính khả thi cao. Đồng thời, phải phát huy tinh thần
trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo CTDV; coi đó là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, yêu cầu
về phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ cơ sở. Các
cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội đưa nội
dung CTDV vào chương trình, kế hoạch công tác hằng tháng, quý, năm; chỉ đạo các đoàn
thể tổ chức phong trào thi đua yêu nước và tuyên dương tập thể, cá nhân có thành tích về
CTDV. Các cấp, ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện
vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc
làm, đền bù, thu hồi đất đai, tệ nạn xã hội,… theo nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng,

9


chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân.
Ba là, tăng cường đổi mới CTDV của các cơ quan nhà nước. Tiếp tục thể chế hóa
quan điểm, chủ trương mới của Đảng về CTDV thành văn bản pháp luật để các cấp chính
quyền, cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân thực hiện. Các cấp chính quyền phải
thường xuyên lắng nghe những đề xuất, kiến nghị từ các đoàn thể về xây dựng nội dung và
phương thức hoạt động của CTDV trong tình hình mới; đẩy mạnh thực hiện Quy chế phối
hợp trong tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương của của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; tích cực tham
gia quản lý việc thực hiện nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước, chăm lo và bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân, v.v. Đổi mới nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri, lắng nghe
các ý kiến của nhân dân trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; gắn
CTDV với thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở để khơi dậy và động viên tinh thần, trí tuệ,
vật chất, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân hiểu và giám sát
hoạt động của chính quyền, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động quản lý
nhà nước. Xây dựng và thực hiện phong cách: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và

có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Các cơ quan nhà nước,
nhất là những ngành, đơn vị có quan hệ trực tiếp với nhân dân cần công khai các quy định
cụ thể về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức để nhân
dân biết và giám sát, kiểm tra việc thực hiện; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đổi
mới lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức. Đồng thời, tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân và giải quyết
kịp thời đơn, thư khiếu tố của dân; làm tốt công tác thanh tra nhân dân và hòa giải ở cơ sở;
chủ động nắm tình hình, giải quyết có hiệu quả những công việc liên quan đến đời sống
của nhân dân.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính
đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân,
hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở. Nội dung tuyên truyền phải phù hợp với trình độ dân
10


trí và đặc điểm của từng giai tầng xã hội, trong từng giai đoạn cách mạng. Đẩy mạnh
phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với “đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” và các phong trào do Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội phát động. Thông qua hoạt động thực tiễn, các cấp cần làm tốt công tác tuyên truyền,
cổ vũ và nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trên
mọi lĩnh vực; phát huy tinh thần yêu nước, thực hành dân chủ, tạo ra phong trào hành động
cách mạng sâu rộng của toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, phát triển đất
nước. Thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt các quan điểm, giải pháp về CTDV của
Đảng để mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực CTDV. Đồng thời,
tích cực phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận động nhân dân cho những người có uy tín trong
cộng đồng dân cư, tạo điều kiện để họ tham gia việc tuyên truyền đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự lan tỏa, sức sống của CTDV trong
tình hình mới.
Năm là, triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả Quy chế phối hợp về CTDV giữa

Ban Dân vận Trung ương và Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, nhằm nâng cao hiệu quả
CTDV trong các lực lượng này, góp phần củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; nâng cao vị
thế, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chủ động đấu tranh với các luận điệu
xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là ở vùng biên
giới cùng với lực lượng Công an, Quân đội cần chú trọng công tác vận động, phát động
quần chúng nhân dân, nêu cao ý thức cảnh giác, tích cực xây dựng “thế trận quốc phòng
toàn dân”, “thế trận an ninh nhân dân”, “Toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm”,
“Thanh niên vì cuộc sống bình yên, vì chủ quyền Tổ quốc”, “Khu dân cư, cơ quan, doanh
nghiệp, trường học an toàn không có tội phạm và tệ nạn xã hội”. Đặc biệt, cần phải thực
hiện tốt CTDV ở các địa bàn trọng điểm, như: Tây Bắc, Tây Nam bộ, Tây Nguyên; huy
động sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, ngăn

11


chặn các loại tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế
- xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh trên địa bàn.
Sáu là, quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ dân vận, mặt
trận, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp vững mạnh. Theo đó, phải chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là cán bộ dân vận tham mưu chiến lược; có cơ chế, chính sách thu hút
người có năng lực, uy tín, kinh nghiệm thực hiện CTDV ở các cấp; chú trọng luân chuyển,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm CTDV, nhất là cán bộ trẻ tuổi, có
năng lực; khắc phục tình trạng bố trí cán bộ phẩm chất, năng lực yếu kém và không có uy
tín làm CTDV. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng công
tác vận động nhân dân.
Bảy là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện CTDV. Các tổ chức

đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thường xuyên phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt chẽ
quá trình triển khai thực hiện và thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về
CTDV. Đồng thời, quan tâm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giải đáp kịp thời
những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là về xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; từ đó, tham mưu với cấp ủy ban hành các
chủ trương, chính sách phù hợp, nâng cao hiệu quả CTDV trong tình hình mới.
Thực hiện đồng bộ những giải pháp trên đây là một bảo đảm quan trọng để đổi mới,
nâng cao hiệu quả CTDV, đáp ứng yêu cầu tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân, tạo sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN trong tình hình mới.

12



×