Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành công thương qua thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 113 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TH HONG MINH

Tổ CHứC Và HOạT ĐộNG
THANH TRA CHUYÊN NGàNH CÔNG THƯƠNG QUA THựC TIễN THàNH PHố Đà NẵNG

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TH HONG MINH

Tổ CHứC Và HOạT ĐộNG
THANH TRA CHUYÊN NGàNH CÔNG THƯƠNG QUA THựC TIễN THàNH PHố Đà NẵNG
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp - Lut Hnh chớnh
Mó s: 60 38 01 02

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NG MINH TUN

H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ đều có trích dẫn nguồn cụ thể và các
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Hoàng Minh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ, cụm từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA CHUYÊN
NGÀNH VÀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH CÔNG THƢƠNG ......... 8
1.1.
Về thanh tra chuyên ngành ........................................................................8
1.1.1. Khái niệm thanh tra chuyên ngành ................................................................8
1.1.2. Đặc điểm của thanh tra chuyên ngành .........................................................12
1.1.3. Phân biệt giữa thanh tra chuyên ngành với kiểm tra chuyên ngành
trong quản lý nhà nước ................................................................................15

1.2.
Về thanh tra chuyên ngành Công Thƣơng..............................................18
1.2.1. Khái niệm thanh tra chuyên ngành Công Thương ......................................18
1.2.2. Đặc điểm về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành Công Thương.........18
1.2.3. Vai trò của thanh tra chuyên ngành Công Thương .....................................25
1.3.
Quá trình hình thành và phát triển của thanh tra chuyên ngành
Công Thƣơng tại Việt Nam.......................................................................27
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH CÔNG THƢƠNG QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........................................32
2.1.
Về tổ chức ...................................................................................................32
2.1.1. Về các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành Công Thương..........32
2.1.2. Về cơ cấu tổ chức các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành Công Thương ....................................................................................35
2.1.3. Về mối quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn, phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức
trong việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành Công Thương..........43
2.1.4. Về tiêu chuẩn của thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành ................................................................................49


2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
2.2.6.
2.2.7.


Thực trạng hoạt động ................................................................................56
Về mục đích hoạt động thanh tra .................................................................57
Về nguyên tắc hoạt động thanh tra ..............................................................58
Về hình thức hoạt động thanh tra ................................................................59
Về nội dung, phạm vi lĩnh vực thanh tra .....................................................60
Về việc gửi kế hoạch thanh tra hàng năm cho đối tượng thanh tra .............61
Về quy trình, thủ tục tiến hành thanh tra .....................................................62
Về việc kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra,
quyết định xử lý sau thanh tra .....................................................................66
2.2.8. Về vấn đề thanh tra lại .................................................................................68
2.2.9. Về sự phân định giữa hoạt động thanh tra chuyên ngành và hoạt động
kiểm tra chuyên ngành .................................................................................69
2.2.10. Về thực tiễn ban hành và triển khai thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật thanh tra .......................................................................................71
2.2.11. Về việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong một số lĩnh vực thuộc ngành Công Thương ..........72
2.2.12. Về một số yếu tố khác tác động đến kết quả hoạt động thanh tra
chuyên ngành Công Thương trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ...................74
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................77
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP KIỆN TOÀN TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH CÔNG
THƢƠNG TẠI ĐỊA PHƢƠNG ................................................................78
3.1.
Quan điểm ..................................................................................................78
3.2.
Giải pháp ....................................................................................................81
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật .......................................................81
3.2.2. Giải pháp tổ chức thực thi pháp luật, kiện toàn tổ chức và hoạt động
thanh tra chuyên ngành Công Thương tại địa phương ................................88

Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................95
KẾT LUẬN ..............................................................................................................96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................99
PHỤ LỤC ...............................................................................................................103


DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
Tên văn bản quy phạm pháp
luật đƣợc viết tắt

Nghị định số 127/2015/NĐ-CP

Tên văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ
Nghị định số 127/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 12
năm 2015 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
thanh tra ngành Công Thương

Thông tư số 09/2001/TT-BTM ngày 13 tháng 4
năm 2001 của Bộ Thương mại (cũ) hướng dẫn về
Thông tư số 09/2001/TT-BTM tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng quản
lý thị trường địa phương

Thông tư số 29/2013/TT-BCT

Thông tư số 01/2014/TT-TTCP

Thông tư số 05/2014/TT-TTCP

Thông tư số 29/2013/TT-BCT ngày 13 tháng 11
năm 2013 của Bộ Công Thương quy định về tổ chức

và hoạt động của cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành Công Thương
Thông tư số 01/2014/TT-TTCP ngày 23 tháng 4
năm 2014 của Thanh tra Chính phủ quy định việc
xây dựng, phê duyệt định hướng chương trình
thanh tra, kế hoạch thanh tra
Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16 tháng 10
năm 2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ
chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh
tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra

Luật Thanh tra 2004

Luật Thanh tra số 22/2004/QH11 ngày 15 tháng 6
năm 2004 của Quốc hội khóa XI

Luật Thanh tra 2010

Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 ngày 15 tháng 11
năm 2010 của Quốc hội khóa XII

Nghị định số 07/2012/NĐ-CP

Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 02
năm 2012 của Chính phủ quy định về cơ quan
được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành

Nghị định số 10/CP


Nghị định số 10/CP ngày 23 tháng 01 năm 1995
của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn
của Quản lý thị trường


Nghị định số 27/2008/NĐ-CP

Nghị định số 27/2008/NĐ-CP ngày 13 tháng 3
năm 2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 10/CP ngày 23 tháng 01
năm 1995 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ và
quyền hạn của Quản lý thị trường

Nghị định số 33/2015/NĐ-CP

Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27 tháng 3
năm 2015 của Chính phủ quy định việc thực hiện
kết luận thanh tra

Nghị định số 86/2011/NĐ-CP

Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm
2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thanh tra

Nghị định số 95/2012/NĐ-CP

Nghị định số 95/2012/NĐ-CP Nghị định số
95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương

Nghị định số 97/2011/NĐ-CP

Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 10
năm 2011 của Chính phủ quy định về thanh tra
viên và cộng tác viên thanh tra

Pháp lệnh Thanh tra 1990

Pháp lệnh Thanh tra ngày 29 tháng 3 năm 1990
củaHội đồng Nhà nước

Thông tư liên tịch số
22/2015/TTLT-BCT-BNV

Thông tư liên tịch số 22/2015/TTLT-BCT-BNV
ngày 30 tháng 6 năm 2015 của Bộ Công Thương
và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên
môn về công thương thuộc Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, cấp huyện

Thông tư liên tịch số
34/2015/TTLT-BCT-BNV

Thông tư liên tịch số 34/2015/TTLT-BCT-BNV
ngày 27 tháng 10 năm 2015 của Bộ Công Thương
và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Quản lý thị

trường địa phương

Thông tư số 05/2015/TT-TTCP

Thông tư số 05/2015/TT-TTCP ngày 10 tháng 9
năm 2015 của Thanh tra Chính phủ quy định về
giám sát hoạt động của Đoàn Thanh tra


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Thống kê số lượng tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh
doanh trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến tháng 3 năm 2015

41

Bảng 2.2: Thống kê kết quả kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính của Chi cục
Quản lý thị trường thành phố Đà Nẵng năm 2013, 2014, 2015

55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đối với hầu hết các quốc gia hiện đại ngày nay, công nghiệp và thương mại

được xem là hai lĩnh vực chủ yếu tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh
tế. Ở Việt Nam, kể từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường với sự quản lý của nhà nước và ngày càng hội nhập kinh tế sâu rộng,
hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh thương mại đã có những bước tiến
vượt bậc, qua đó đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thị trường trong nước đã và
đang phải đối mặt với những mặt trái của nền kinh tế thị trường, đó là tình trạng
sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng nhập lậu...với những biến tướng
ngày càng tinh vi; các hoạt động sản xuất công nghiệp không đảm bảo tiêu chuẩn
kỹ thuật, an toàn; các hành vi gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh
trên thị trường.v.v… gây thiệt hại lớn cho các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh,
doanh chân chính và người tiêu dùng; qua đó cũng đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung. Chính vì vậy, để xây dựng được
một nền sản xuất và thị trường thương mại phát triển an toàn, bền vững, một trong
các nhiệm vụ, yêu cầu cần đặt ra đối với các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là
các cơ quan quản lý nhà nước ngành Công Thương là phải tăng cường, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả các hoạt động nhằm ngăn chặn, phòng ngừa cũng như phát hiện,
xử lý kịp thời các hành vi vi phạm này.
Chính từ những yêu cầu trên mà hiện nay, vai trò của Thanh tra Bộ Công
Thương, Thanh tra Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành Công Thương
trong việc triển khai thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành ngày càng được
chú trọng, nâng cao. Điều này được thể hiện trước hết ở sự ra đời của hàng loạt các
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh một cách trực tiếp cũng như gián tiếp tổ
chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành của các cơ quan, đơn vị này, tạo cơ sở

1


pháp lý vững chắc, cụ thể, rõ ràng hơn cho việc tổ chức và hoạt động của cơ quan

thanh tra ngành Công Thương, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác này
trong thực tiễn. Công tác thanh tra chuyên ngành Công Thương trong những năm
gần đây cũng có nhiều chuyển biến tích cực trong việc ngăn chặn, phát hiện và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp
phần đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế.
Tuy nhiên, có thể thấy, bên cạnh những chuyển biến tích cực, tổ chức các cơ
quan có chức năng thanh tra chuyên ngành Công Thương hiện nay cũng còn tồn tại
nhiều bất cập, hạn chế. Chẳng hạn như số lượng công chức tại hầu hết Thanh tra Sở
Công Thương các tỉnh, thành rất ít, ngoài Thanh tra Sở Công Thương Hà Nội hiện
nay có 17 công chức và Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh có 14 công chức
thì hầu hết Thanh tra Sở Công Thương các tỉnh còn lại chỉ có từ 02 đến 05 công
chức [28]; chất lượng đội ngũ công chức thanh tra chưa đồng đều, chưa đáp ứng
được yêu cầu quản lý nhà nước, chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan
thanh tra các cấp, các ngành, các địa phương… Chính vì vậy, hiện nay nhiều vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực Công Thương vẫn chưa được phát hiện, xử lý kịp
thời, đã gây thiệt hại khá lớn đối với người tiêu dùng trước khi bị cơ quan chức
năng phát hiện; tình trạng tái phạm vẫn còn tiếp diễn; nhiều vi phạm bị phát hiện
nhưng chậm trễ trong việc kết luận, xử lý, đặc biệt trong các lĩnh vực bán hàng đa
cấp, thương mại điện tử, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất
lượng… Thực trạng này xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, không chỉ từ những bất
cập trong các quy định của pháp luật mà còn xuất phát từ một số hạn chế trong thực
tiễn tổ chức và triển khai các hoạt động của lực lượng thanh tra chuyên ngành.
Ngoài ra, từ nhiều năm nay, chế định thanh tra chuyên ngành trong pháp
luật về thanh tra luôn đứng trước yêu cầu nghiên cứu, hoàn thiện. Theo Kế hoạch
xây dựng pháp luật của Chính phủ và Quốc hội, Luật Thanh tra 2010 sẽ được
nghiên cứu sửa đổi từ năm 2017 và Quốc hội dự kiến thông qua năm 2018. Do đó,
hoạt động nghiên cứu nhằm xác lập luận cứ cho việc sửa đổi, bổ sung đạo luật này
tại thời điểm hiện nay có ý nghĩa quan trọng, cần thiết, nhất là đối với chế định

2



thanh tra chuyên ngành – với nội hàm rộng, đa dạng và phức tạp trong thực tiễn tổ
chức và hoạt động.
Thành phố Đà Nẵng là một trong 05 thành phố trực thuộc Trung ương, có điều
kiện kinh tế - xã hội tương đối phát triển so với một số tỉnh thành khác trong cả nước.
Hoạt động sản xuất công nghiệp, kinh doanh thương mại tại thành phố Đà Nẵng trong
những năm gần đây ngày càng phát triển với nhiều lĩnh vực, phương thức hoạt động
đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng cũng như
của du khách đến tham quan, mua sắm, song cũng tiềm ẩn không ít hành vi vi phạm.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành Công
Thương dưới góc độ lý luận và thực tiễn, qua góc nhìn từ một địa phương phát triển
để tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, qua đó góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả công tác này trong lĩnh vực Công Thương, đặc biệt là ở các địa phương
trong bối cảnh hiện nay thật sự cần thiết. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Tổ
chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành Công Thương - qua thực tiễn thành
phố Đà Nẵng” để triển khai nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về hoạt
động thanh tra nói chung dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như:
Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật thanh tra trong giai đoạn hiện nay” (2009)
của tác giả Nguyễn Thị Thương Huyền, Đề tài khoa học cấp Bộ “Các nguyên tắc
trong hoạt động thanh tra – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (2011) do ông
Nguyễn Thái Hồng – Phó Vụ trưởng Vụ 3, Thanh tra Chính phủ làm Chủ nhiệm, Đề
tài khoa học cấp cơ sở “Quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra trong việc thực
hiện kết luận thanh tra” (2014) do ông Nguyễn Đình Bính – Thanh tra viên, Vụ
Pháp chế, Thanh tra Chính phủ làm chủ nhiệm v.v… Ngoài ra, trong thời gian gần
đây, đã có một số đề tài nghiên cứu tập trung về hoạt động thanh tra chuyên ngành
như Luận văn thạc sỹ Luật học “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra
chuyên ngành ở Việt Nam hiện nay” (2011) của tác giả Nguyễn Thị Thục, Đề tài

khoa học cấp cơ sở “Hoạt động thanh tra chuyên ngành của cơ quan được giao

3


thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành” của Thạc sỹ Nguyễn Thị Hải Yến
(2013), Luận án Tiến sỹ luật học “Pháp luật về thanh tra chuyên ngành ở Việt Nam
hiện nay” (2015) của tác giả Bùi Thị Thanh Thúy; hay một số bài nghiên cứu trên
các báo, tạp chí khoa học pháp lý như bài viết “Yêu cầu hoàn thiện tổ chức thanh
tra theo ngành, lĩnh vực hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thương Huyền đăng trên
Tạp chí thanh tra số 6/2008, “Mô hình nào cho tổ chức và hoạt động của hệ thống
thanh tra Tổng Cục, Cục và Chi cục” của tác giả Nguyễn Hữu Quân đăng trên Tạp
chí Thanh tra số 5/2008…
Nhìn chung, đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt động thanh tra nói
chung, đặc biệt là về hoạt động thanh tra hành chính. Thế nhưng, việc nghiên cứu
về hoạt động thanh tra chuyên ngành theo Luật Thanh tra 2010 và các văn bản
hướng dẫn thi hành vẫn còn ở mức độ khiêm tốn. Các nghiên cứu trước đây sẽ là
nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả về các vấn đề lý luận cũng như thực
trạng liên quan đến hoạt động thanh tra và hoạt động thanh tra chuyên ngành trong
quá trình nghiên cứu về đề tài này.
Dù hiện nay đã có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động
thanh tra chuyên ngành nói chung song có thể thấy ở mỗi ngành, lĩnh vực đều có
những đặc điểm riêng, có những thuận lợi và khó khăn riêng trong việc triển khai
công tác thanh tra chuyên ngành nên việc tổ chức và hoạt động thanh tra theo từng
ngành, lĩnh vực cũng có những đặc thù nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu về hoạt
động thanh tra chuyên ngành theo từng ngành, lĩnh vực cụ thể thật sự cần thiết và
hiện nay cũng đã có một số luận văn thạc sỹ nghiên cứu tập trung về hoạt động
thanh tra ở một số ngành, lĩnh vực, chẳng hạn như: “Pháp luật về hoạt động thanh
tra chuyên ngành trong lĩnh vực văn hóa” (2011) của tác giả Bùi Ngọc Thanh
Trung, “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Giao thông vận tải” (2012) của tác

giả Lê Thị Thanh Nga, “Nâng cao năng lực công chức thanh tra ngành Nội vụ, từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” (2013) của tác giả Nguyễn Minh Hoàng… Song
hiện nay chưa có công trình nghiên cứu toàn diện nào về tổ chức và hoạt động của

4


thanh tra chuyên ngành Công Thương – cũng có những nét đặc thù so với các
ngành, lĩnh vực khác, đồng thời ngành, lĩnh vực này hiện nay cũng còn tồn tại nhiều
bất cập, hạn chế và có tác động rất lớn đến các mặt của đời sống kinh tế, xã hội.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về quy định pháp luật liên quan đến tổ chức và
hoạt động thanh tra chuyên ngành Công Thương qua thực tiễn một thành phố trực
thuộc Trung ương phát triển, cụ thể là thành phố Đà Nẵng trong bối cảnh hiện nay
thật sự cần thiết; và đề tài này không trùng lắp với nội dung và phạm vi của các
công trình nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thanh tra chuyên ngành
và thanh tra chuyên ngành Công Thương; đánh giá thực trạng pháp luật thông qua
thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành Công Thương trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về thanh tra chuyên ngành Công Thương, qua đó góp phần đổi mới tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác này tại thành phố Đà Nẵng nói riêng và
tại các địa phương trên phạm vi cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể là:
- Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm của
thanh tra chuyên ngành và thanh tra chuyên ngành Công Thương, xác định cụ thể vị
trí, vai trò của thanh tra chuyên ngành Công Thương đối với công tác quản lý nhà

nước của ngành, khái quát lịch sử hình thành và phát triển của thanh tra chuyên
ngành Công Thương tại Việt Nam, qua đó góp phần xây dựng cơ sở lý luận khoa
học cho quá trình hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra
chuyên ngành Công Thương tại thành phố Đà Nẵng nói riêng và tại các tỉnh, thành
trong cả nước nói chung.

5


- Phân tích thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên
ngành Công Thương thông qua thực tiễn thi hành tại thành phố Đà Nẵng, đánh giá
những ưu điểm và những hạn chế, vướng mắc của quy định pháp luật cũng như quá
trình tổ chức thực hiện pháp luật tại địa phương.
- Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về thanh tra chuyên ngành Công Thương, qua đó góp phần đổi mới tổ
chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác này tại thành phố Đà Nẵng cũng
như tại các địa phương khác trên phạm vi cả nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, các cơ quan thanh tra
của các ngành, lĩnh vực được tổ chức từ Trung ương đến địa phương, vừa có chức
năng thanh tra hành chính, vừa có chức năng thanh tra chuyên ngành và một số
chức năng, nhiệm vụ khác. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về tổ chức
và hoạt động của các cơ quan có chức năng thực hiện hoạt động thanh tra chuyên
ngành Công Thương tại địa phương và chỉ nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
chức năng thanh tra chuyên ngành, không nghiên cứu tổng thể chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan này.
Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật qua thực trạng tổ chức và hoạt
động thanh tra chuyên ngành Công Thương trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong
giai đoạn từ năm 2010 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà
nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Ngoài ra, đề tài cũng được thực hiện dựa trên các phương pháp cụ thể khác
như phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp phân tích, chứng minh, tổng hợp, so
sánh, gắn lý luận với thực tiễn để chọn lọc tri thức khoa học và những kinh nghiệm
thực tiễn để nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất của vấn đề.

6


6. Ý nghĩa và tính mới của đề tài
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu trước đây về mặt lý luận và thực tiễn tổ
chức, hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung, luận văn tiếp tục làm sáng tỏ và
xây dựng cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật, kiện toàn tổ
chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành Công Thương tại địa
phương, dựa trên sự nghiên cứu, phân tích thực trạng về pháp luật và thực tiễn tổ
chức thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành Công
Thương tại thành phố Đà Nẵng. Qua đó, luận văn đã đưa ra một số đề xuất về quan
điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, kiện toàn về mặt tổ chức và hoạt động
thanh tra chuyên ngành Công Thương tại các địa phương nói chung và tại thành phố
Đà Nẵng nói riêng.
Hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và
thực tiễn về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành Công Thương, do đó việc
nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành Công Thương qua thực tiễn thành phố Đà Nẵng” về cơ bản là mới.
Với nghiên cứu này, tác giả hy vọng sẽ có những đóng góp thiết thực về mặt
lý luận và thực tiễn vào hoạt động nghiên cứu hiện nay nhằm kiện toàn về tổ chức
và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan thanh tra chuyên ngành Công
Thương, đặc biệt là tại các địa phương.

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thanh tra chuyên ngành và thanh tra
chuyên ngành Công Thương.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên
ngành Công Thương – qua thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp kiện toàn tổ chức và hoạt động thanh tra
chuyên ngành Công Thương tại địa phương.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH
VÀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH CÔNG THƢƠNG
1.1. Về thanh tra chuyên ngành
1.1.1. Khái niệm thanh tra chuyên ngành
Trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự phân chia các ngành, lĩnh vực
trong đời sống xã hội thì hoạt động quản lý nhà nước cũng được thực hiện trên cơ
sở quản lý theo từng ngành, lĩnh vực. Trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung,
quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực nói riêng, bên cạnh việc ban hành và tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật, các quy phạm về chuyên môn – kỹ thuật thì công
tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chính sách, quy định trên thực tế cũng
đóng vai trò rất quan trọng. Đây chính là một trong các cơ sở để ngăn ngừa, phát
hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; xem
xét, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước cũng như sự phù
hợp của chính sách, pháp luật đối với thực tiễn. Do vậy, hoạt động thanh tra chuyên
ngành trong từng ngành, lĩnh vực ngày càng đóng vai trò quan trọng, là một chức
năng không thể thiếu đối với công tác quản lý nhà nước. Để làm rõ một số vấn đề
liên quan đến thanh tra chuyên ngành nói chung và thanh tra chuyên ngành Công

Thương nói riêng, cần xác định rõ nội hàm của khái niệm “thanh tra chuyên ngành”.
Thuật ngữ “thanh tra” theo tiếng Anh là inspect, xuất phát từ gốc Latinh
(inspectare) có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ “một sự xem xét từ bên ngoài vào
hoạt động bên trong của một số đối tượng nhất định”. Hiện nay, có khá nhiều định
nghĩa khác nhau về thuật ngữ “thanh tra”. Theo Từ điển pháp luật Anh - Việt, động từ
"inspect" có nghĩa là "thanh tra" và được giải thích là hoạt động kiểm tra, kiểm soát,
kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra; còn theo nghĩa của danh từ “inspectorate”
trong Từ điển Anh - Anh - Việt "thanh tra" lại có nghĩa là một cơ quan, tổ chức,
bộ phận thanh tra ví dụ như ban thanh tra, cơ quan thanh tra...[10, tr.3]. Theo từ
điển Luật học, thanh tra là hoạt động “xem xét để làm rõ việc thực hiện chính

8


sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân…” [40, tr.697], theo đó, thanh tra được hiểu là một hoạt động nhằm đánh giá
quá trình thực hiện pháp luật của các chủ thể.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm “thanh tra” bao gồm “thanh tra nhà nước” và
“thanh tra nhân dân”. Tuy nhiên, khái niệm “thanh tra nhân dân” tuy có chữ “thanh
tra” nhưng về bản chất nó thuộc loại hình “giám sát, kiểm tra xã hội” [42]. Như
vậy, trong quản lý nhà nước, khi nói đến “thanh tra” là nói đến “thanh tra nhà
nước”, hay nói cách khác, thuật ngữ “thanh tra” và “thanh tra nhà nước” là đồng
nhất. Ở Việt Nam, thuật ngữ “thanh tra” lần đầu tiên xuất hiện tại Sắc lệnh số 64/SL
ngày 23 tháng 11 năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Ban Thanh tra đặc
biệt. Sắc lệnh nêu rõ “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có ủy
nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Ủy ban nhân dân và
các cơ quan của Chính phủ”. Như vậy, thuật ngữ “thanh tra” theo Sắc lệnh số
64/SL được hiểu là một tổ chức của Chính phủ - Ban Thanh tra đặc biệt và chỉ mới
thực hiện chức năng giám sát các công việc của Ủy ban nhân dân và các cơ quan
của Chính phủ hay chức năng thanh tra hành chính theo cách hiểu hiện nay. Trong

Pháp lệnh Thanh tra 1990, thanh tra được xác định là “một chức năng thiết yếu của
cơ quan quản lý nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật
trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa” (Điều 1). Có
thể thấy, định nghĩa này chỉ mới khái quát được vị trí, vai trò của “thanh tra” chứ
chưa thể hiện rõ nội hàm khái niệm “thanh tra”, đặc điểm, mục đích của hoạt động
thanh tra. Đến Luật Thanh tra 2004 và Luật Thanh tra 2010, nội hàm khái niệm
“thanh tra”, cụ thể là “thanh tra nhà nước” đã được thể hiện rõ hơn, cụ thể:
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành [19, Điều 3, Khoản 1].
Định nghĩa này tiếp cận khái niệm “thanh tra nhà nước” dưới góc độ là một

9


“hoạt động”. Ngoài ra, khái niệm này phần nào đã thể hiện được bản chất của hoạt
động thanh tra trong công tác quản lý nhà nước song chưa bao quát được ý nghĩa,
mục đích chung nhất của hoạt động thanh tra. Mục đích của hoạt động thanh tra
được Luật Thanh tra 2010 quy định riêng tại Điều 2, đó là:
Nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật
để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục;
phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan,
tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố
tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân [19, Điều 2].
Như vậy, có thể thấy cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm khoa học
chung nhất, toàn diện nhất về “thanh tra” hay “thanh tra nhà nước”; mỗi khái niệm

chỉ phản ánh một phương diện, một góc độ nào đó của thuật ngữ.
Đối với thuật ngữ “ngành” theo từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý
– Bộ Tư pháp năm 2006 thì “ngành” là phạm trù chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức
sản xuất, kinh doanh có cùng một cơ cấu kinh tế - kỹ thuật hay các tổ chức, đơn vị
hoạt động với cùng một mục đích cuối cùng giống nhau là làm ra một loại sản phẩm
nhất định [37, tr.6]. Như vậy, trong tự nhiên và xã hội, các ngành được biểu hiện rất
đa dạng, phong phú, phản ánh tính chuyên môn hóa cao. Trong một ngành có thể
bao hàm nhiều chuyên ngành khác nhau, chẳng hạn như trong ngành công nghiệp
có các chuyên ngành như: công nghiệp thực phẩm, công nghiệp tiêu dùng, công
nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản… Sự phân công lao động và chuyên
môn hóa các hoạt động của con người đã làm xuất hiện các ngành trong đời sống xã
hội, tất yếu cũng dẫn đến việc thực hiện hoạt động quản lý nhà nước theo ngành,
lĩnh vực. Sự xuất hiện của hoạt động quản lý theo ngành và lĩnh vực chuyên môn
dẫn đến sự hình thành hoạt động thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính
nhà nước. Về nguyên tắc, hoạt động quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực diễn ra
đến đâu thì hoạt động thanh tra chuyên ngành phải bao trùm đến đó. Mục đích

10


chung nhất của hoạt động thanh tra chuyên ngành là giúp hoạt động quản lý nhà
nước theo ngành, lĩnh vực đạt hiệu quả.
Dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ “thanh tra chuyên ngành” lần đầu tiên xuất
hiện tại Pháp lệnh Thanh tra 1990, sau đó thuật ngữ này được sử dụng phổ biến và
được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhưng chưa có một khái
niệm thống nhất về thanh tra chuyên ngành. Khái niệm thanh tra chuyên ngành lần
đầu tiên được xác định trong Luật Thanh tra 2004:
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan
quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản

lý [18, Điều 4, Khoản 3].
Đến Luật Thanh tra 2010, khái niệm thanh tra chuyên ngành về cơ bản
không có thay đổi lớn:
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ
thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó [19, Điều 3, Khoản 3].
Như vậy, cũng như khái niệm “thanh tra nhà nước”, khái niệm “thanh tra
chuyên ngành” theo Luật Thanh tra 2010 được tiếp cận theo khía cạnh là hoạt động.
Song theo một phương diện khác, thuật ngữ “thanh tra chuyên ngành” có thể được
tiếp cận dưới góc độ là một danh từ nhằm chỉ hệ thống các cơ quan thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành hay “tổ chức thanh tra chuyên ngành”.
Như vậy, qua việc khái quát lý luận và pháp luật thực định, dưới góc độ
chung nhất, khái niệm thanh tra chuyên ngành có thể được hiểu là một chức năng
thiết yếu của quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm xem xét, đánh giá,
xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên
ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.

11


1.1.2. Đặc điểm của thanh tra chuyên ngành
Từ những khái niệm nêu trên có thể thấy thanh tra chuyên ngành là một hình
thức của hoạt động thanh tra, do vậy, thanh tra chuyên ngành cũng mang một số đặc
điểm chung của hoạt động thanh tra, cụ thể như:
Thứ nhất, thanh tra tồn tại như một yêu cầu tất yếu khách quan trong quản lý
nhà nước, gắn liền với quản lý nhà nước. Thực hiện chức năng quản lý, Nhà nước
ban hành nhiều quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi của con
người. Song bên cạnh việc ban hành và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật,

Nhà nước luôn cần có các thiết chế để đánh giá việc thực hiện, chấp hành các quy
định đó trên thực tế; phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm của đối tượng quản lý
cũng như những sơ hở, bất hợp lý của cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật. Một
trong các thiết chế không thể thiếu đó là thanh tra. Như vậy, có thể thấy, dù ở giai
đoạn nào, hoạt động thanh tra luôn gắn liền với quản lý nhà nước, như Lênin đã nói
“quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ không phải là
hai” [41, tr.7]. Xem nhẹ thanh tra trong trường hợp nào cũng đều là biểu hiện của
xem nhẹ quản lý, buông lỏng quản lý.
Với tư cách là một hình thức của hoạt động thanh tra, hoạt động thanh tra
chuyên ngành cũng gắn liền với công tác quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực,
phù hợp với quy mô, tính chất, đặc điểm quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực đó.
Nói cách khác, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của thanh tra chuyên ngành bị chi
phối bởi bản chất, nội dung, phạm vi quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực.
Thứ hai, thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng luôn mang
tính quyền lực nhà nước. Là một chức năng cơ bản của quản lý nhà nước, thanh tra
cũng là phương thức thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý nhà nước đối với đối
tượng quản lý. Khi nhấn mạnh tính quyền lực của các tổ chức thanh tra, V.I.Lênin
nói: “Thanh tra thiếu quyền lực là thanh tra suông” [41, tr.19].
Thứ ba, thanh tra mang tính độc lập tương đối. Đây là đặc tính vốn có, xuất
phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm này là cơ sở để phân biệt giữa thanh tra với
các loại hình cơ quan, đơn vị, bộ phận chức năng khác của cơ quan quản lý nhà

12


nước. Thanh tra không chỉ thuần túy là tổ chức tham mưu cho thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước mà dưới góc độ nào đó, thanh tra vẫn có tính độc lập nhất định.
Tính độc lập của thanh tra xuất phát từ chức năng đặc thù của thanh tra trong quá
trình thực hiện hoạt động quản lý nhà nước, đó là xem xét, đánh giá, xử lý việc chấp
hành chính sách, pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nếu trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ của mình, các cơ quan thanh tra không có tính độc lập và chịu ảnh
hưởng quá nhiều vào sự chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan quản lý sẽ làm giảm hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra. Song thanh tra không phải là một tổ chức độc
lập hoàn toàn mà tính độc lập của thanh tra chỉ là tương đối. Vì hoạt động thanh tra
không có mục đích tự thân mà mục đích của nó là hỗ trợ công tác quản lý nhà nước,
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, do đó nó chỉ mang tính độc lập
tương đối và phải gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước. Cơ quan thanh tra thông
qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà
nước phát hiện những sơ hở, vướng mắc trong chính sách, pháp luật để có sự khắc
phục kịp thời; đồng thời giúp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật trong phạm vi, lĩnh vực quản lý nhà nước.
Bên cạnh những đặc điểm chung của hoạt động thanh tra, thanh tra chuyên
ngành còn mang một số nét đặc thù – cơ sở để phân biệt giữa hoạt động thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra: Hoạt động thanh tra
chuyên ngành do các cơ quan thanh tra thuộc cơ quan quản lý nhà nước theo ngành,
lĩnh vực thực hiện, đó là Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở và các cơ quan được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (một số Tổng Cục, Cục thuộc Bộ, Chi cục
thuộc Sở). Trong khi đó, chủ thể của hoạt động thanh tra hành chính bao gồm hệ
thống cơ quan thanh tra nhà nước nói chung: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, cơ
quan ngang Bộ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Thanh tra Sở;
Thanh tra quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Thứ hai, về đối tượng thanh tra: Đối tượng của thanh tra chuyên ngành là các
cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong các ngành, lĩnh vực, chịu sự điều chỉnh

13


của pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý
của ngành, lĩnh vực đó. Giữa chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành với đối

tượng thanh tra không có quan hệ thứ bậc hành chính mà chỉ thuần túy là quan hệ
giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Vì vậy, đối tượng của thanh tra chuyên
ngành chủ yếu là các tổ chức, cá nhân bên ngoài xã hội. Trong khi đó, đối tượng của
thanh tra hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp
của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, có sự lệ thuộc về mặt tổ chức.
Thứ ba, về nội dung thanh tra: Nếu nội dung của hoạt động thanh tra hành
chính là thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn
được giao thuộc phạm vi quản lý trực tiếp của cơ quan nhà nước thì thanh tra
chuyên ngành là thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, những quy định
về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
Thứ tư, về thẩm quyền của chủ thể thanh tra: Có thể thấy, bản chất của hoạt
động thanh tra chuyên ngành là hướng ra bên ngoài xã hội nhằm bảo đảm các quy
định pháp luật về quản lý nhà nước của các ngành, lĩnh vực phải được tuân thủ.
Chính vì thế quyền hạn nổi bật nhất của các cơ quan và người thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành là xử phạt vi phạm hành chính. Đây cũng chính là điểm
khác biệt so với quyền hạn của các tổ chức thanh tra hành chính - chỉ có quyền yêu
cầu, kiến nghị.
Thứ năm, về mục đích thanh tra: Hoạt động thanh tra hành chính chủ yếu tập
trung vào kiểm soát việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của các cơ quan nhà nước, của
cán bộ, công chức, viên chức nhằm làm lành mạnh hóa bộ máy nhà nước; trong khi
đó hoạt động thanh tra chuyên ngành lại chủ yếu hướng tới việc kiểm soát hoạt động
chấp hành chính sách, pháp luật của mọi đối tượng trong xã hội, phát hiện và xử lý
kịp thời các hành vi vi phạm, góp phần tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội, phục vụ
hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trên các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ sáu, về phương thức tiến hành thanh tra: Hoạt động thanh tra chuyên
ngành không nhất thiết phải được tiến hành bằng Đoàn thanh tra – phương thức
hoạt động duy nhất của thanh tra hành chính mà có thể được tiến hành bằng phương

14



thức thanh tra độc lập được thực hiện bởi thanh tra viên hoặc người được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Bởi vì, khác với thanh tra hành chính, trong
nhiều trường hợp, hoạt động thanh tra chuyên ngành cần phải được tiến hành nhanh
chóng và cần áp dụng ngay các biện pháp ngăn chặn hoặc phải xử lý ngay các hành
vi vi phạm pháp luật chuyên ngành…
Như vậy, có thể thấy, thanh tra chuyên ngành vừa mang những đặc điểm
chung của hoạt động thanh tra, vừa có những điểm đặc trưng nhằm phân biệt với
hoạt động thanh tra hành chính. Sự phân biệt này về mặt lý luận lẫn thực tiễn có ý
nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để các cơ quan thanh tra xác định được đối tượng,
phạm vi, nội dung, phương thức, thẩm quyền… trong quá trình thực thi chức năng,
nhiệm vụ thanh tra.
1.1.3. Phân biệt giữa thanh tra chuyên ngành với kiểm tra chuyên ngành
trong quản lý nhà nước
Trong công tác quản lý nhà nước, bên cạnh chức năng “thanh tra” còn tồn tại
hình thức “kiểm tra” đối với các tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật
chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành,
lĩnh vực. Chẳng hạn như, theo quy định hiện hành thì Bộ Công Thương, Sở Công
Thương có một số chức năng, nhiệm vụ như: “hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện
các quy chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, công nghệ, an toàn vệ sinh trong khai
thác mỏ và chế biến khoáng sản”; “hướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện
các quy định của pháp luật về kinh doanh, lưu thông hàng hóa, các hoạt động thương
mại trên thị trường, hàng hóa và các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, dịch vụ thương
mại, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định” (Nghị định số 95/2012/NĐCP); “hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý an toàn thực phẩm
đối với cơ sở kinh doanh thương mại và các loại hàng hóa qua biên giới theo quy
định của pháp luật” (Thông tư liên tịch số 22/2015/TTLT-BCT-BNV) v.v…
Hiện nay, về mặt pháp lý, chưa có định nghĩa về “kiểm tra” trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước mặc dù kiểm tra cũng là một chức năng, một giai đoạn
trong chu trình quản lý. Có thể nói giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra có mối quan


15


hệ chặt chẽ, gần gũi và có nhiều điểm giao thoa nhau. Chính vì vậy, trong các văn
bản quy phạm pháp luật hiện hành, các cụm từ “thanh tra”, “kiểm tra” thường đi
liền với nhau. Xét một cách khái quát, thanh tra, kiểm tra đều là sự xem xét, đánh
giá việc chấp hành, tuân thủ các quy định pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất định, giữa “thanh tra chuyên ngành” và
“kiểm tra” việc chấp hành các quy định pháp luật chuyên ngành trong công tác quản
lý nhà nước cũng có những điểm khác biệt. Việc xác định những điểm khác biệt này
có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để xác định thẩm quyền, mức độ, mục đích, phương
thức tiến hành của từng loại hoạt động. Theo tác giả, giữa “thanh tra” và “kiểm tra”
các tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành các quy định pháp luật chuyên ngành,
quy định về chuyên môn – kỹ thuật có một số điểm khác biệt như sau:
Một là, về chủ thể tiến hành: Chủ thể có thẩm quyền thực hiện chức năng
“thanh tra chuyên ngành” chỉ là các cơ quan thanh tra thuộc Bộ, Sở và một số cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành – vốn là các cơ quan
quản lý nhà nước chuyên ngành nhưng được giao thêm chức năng thanh tra chuyên
ngành (như Cục Hóa chất, Cục Điều tiết Điện lực, Cục Xúc tiến thương mại…).
Trong khi đó, hoạt động “kiểm tra” việc thực hiện các quy định pháp luật chuyên
ngành, các quy chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành có thể do Thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị quản lý ngành, lĩnh vực quyết định giao cho bất kỳ cơ
quan, đơn vị, phòng chuyên môn nào thực hiện theo yêu cầu tại từng thời điểm của
công tác quản lý nhà nước.
Hai là, về nội dung: Nội dung kiểm tra thường dễ dàng nhận thấy, đơn giản
hơn trong khi đó, nội dung thanh tra chuyên ngành thường phức tạp hơn. Sự phân
biệt này chỉ mang tính chất tương đối vì trên thực tế có những vụ việc thuộc về
kiểm tra nhưng không phải hoàn toàn đơn giản, chẳng hạn như một số vụ việc kiểm
tra hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng nhập lậu, hàng giả, hàng nhái… của lực
lượng quản lý thị trường.

Ba là, về phạm vi hoạt động: Phạm vi hoạt động kiểm tra thường theo bề
rộng, diễn ra liên tục, ở khắp nơi với nhiều hình thức phong phú. Phạm vi hoạt động

16


thanh tra chuyên ngành thường hẹp hơn. Hoạt động thanh tra cần có sự chọn lọc, có
trọng tâm, trọng điểm, thường hướng vào những đối tượng hoặc những lĩnh vực
đang xảy ra nhiều vi phạm, cần chấn chỉnh.
Bốn là, về trình độ nghiệp vụ: Do nội dung, mục đích hoạt động thanh tra
thường phức tạp hơn, sâu hơn nên đòi hỏi thanh tra viên, người được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành phải có nghiệp vụ thanh tra giỏi, am hiểu về kinh
tế - xã hội, có chuyên môn sâu về lĩnh vực thanh tra. Có như vậy mới có thể nắm
bắt được chiều sâu của vụ việc, thu thập được thông tin, chứng cứ, xác minh, đối
chiếu, phân tích, đánh giá để đi đến kết luận chính xác, khách quan. Vì vậy, quy
định pháp luật thường đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể đối với thanh tra viên và người
được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Do nội dung hoạt động
kiểm tra ít phức tạp hơn và có phạm vi rộng hơn nên chủ thể tiến hành kiểm tra
không nhất thiết đòi hỏi chuyên môn, nghiệp vụ sâu như thanh tra, quy định pháp
luật hiện hành không đưa ra các tiêu chuẩn về chủ thể tiến hành kiểm tra nên chủ
thể tiến hành kiểm tra có thể là bất kỳ công chức, viên chức, người lao động của cơ
quan quản lý nhà nước được phân công. Sự phân biệt về chuyên môn, nghiệp vụ
giữa chủ thể tiến hành thanh tra và kiểm tra cũng chỉ mang tính chất tương đối, vì
trong nhiều trường hợp cuộc kiểm tra mang tính chất phức tạp cũng đòi hỏi chuyên
môn, nghiệp vụ chuyên sâu và chủ thể kiểm tra càng có trình độ chuyên môn cao thì
kết quả kiểm tra càng đảm bảo tính chính xác, khách quan hơn.
Năm là, về thời gian tiến hành: Trong hoạt động thanh tra thường có nhiều
vấn đề phải xác minh, đối chiếu, nhiều mối quan hệ cần được làm rõ nên thường
phải sử dụng thời gian nhiều hơn kiểm tra. Nếu so sánh từng cuộc kiểm tra, thanh
tra chuyên ngành riêng lẻ, đôi khi có cuộc kiểm tra kéo dài hơn thanh tra, song nhìn

chung, thời gian cần thiết để tiến hành thanh tra thường dài hơn kiểm tra.
Như vậy, giữa thanh tra chuyên ngành và kiểm tra việc chấp hành các quy
định pháp luật chuyên ngành, các quy chuẩn kỹ thuật, quy tắc chuyên môn đối với
các tổ chức, cá nhân hoạt động trong các ngành, lĩnh vực có sự khác biệt nhất định,
song cũng mang tính chất tương đối. Giữa thanh tra và kiểm tra có mối quan hệ chặt

17


×