Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN MỘT VÀI ỨNG DỤNG CNTT ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC MÔN NGỮ VĂN 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 15 trang )

NĂM HỌC: 2014 - 2015


“MỘT VÀI ỨNG DỤNG CNTT ĐỂ PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
TRONG GIỜ HỌC MÔN NGỮ VĂN 7”
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đất nước ta đang bước vào thời kì hội nhập, cùng với các ngành kinh tế và
xã hội, ngành Giáo dục đang có những bước chuyển mình theo nhịp bước của thời
đại. Do đó, việc đổi mới phương pháp dạy học là hết sức cần thiết và quan trọng.
Một trong những biện pháp tối ưu trong quá trình giảng dạy là phương pháp dạy
học tích cực và dạy theo chuẩn kiến thức , kỹ năng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả
giáo dục ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay, giáo viên phải dạy theo
phương pháp đổi mới.
Mục tiêu của giáo dục hiện nay là đào tạo con người toàn diện. Tuy nhiên,
thực tế hiện nay, ta thấy các môn thuộc lĩnh vực xã hội – đặc biệt là môn Ngữ văn,
thường bị học sinh xem nhẹ. Mặc dù kiến thức của các bộ môn này rất quan trọng.
Cho nên, muốn được sự đồng tình, quan tâm của mọi người đối với bộ môn Ngữ
văn, chúng ta không chỉ tuyên truyền mà còn phải tích cực đổi mới phương pháp
dạy - học văn, khơi lại hứng thú học tập văn của học sinh và hình thành cho các em
phương pháp học hiệu quả nhất.
Theo phương pháp dạy học tích cực, giáo viên không những cung cấp cho học
sinh những kiến thức mà còn tổ chức và chỉ đạo các hoạt động để học sinh tự lực
khám khá, tìm tòi kiến thức tạo cho mình sự hứng thú, say mê học tốt. Để việc dạy
– học đạt kết quả tốt, việc ứng dụng công nghệ thông tin ( CNTT) là hết sức cần
thiết. Bởi vì nó tác động trực tiếp đến nhận thức của học sinh, tạo cho các em hưng
phấn, thoải mái: chơi mà học, học mà chơi; giúp các em tiếp thu bài nhanh hơn,
nhớ kỹ hơn, hiểu sâu sắc hơn những vấn đề giáo dục mà bài học yêu cầu. Xuất phát
từ những nguyên nhân trên, tôi thấy đây là vấn đề bức thiết quan trọng. Cho nên,
tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một vài ứng dụng CNTT để phát huy tính tích cực của
học sinh trong giờ học môn ngữ văn 7” để vận dụng vào giảng dạy và phát huy


hiệu quả giáo dục.
II.

TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lý luận:
Đại văn hào Nga M.Gorki từng nói:"Văn học là nhân học". Thế mà một thực
trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ đã giảm sút lòng yêu thích học văn. Thực
trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở
với nhau của những giáo viên dạy văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư
luận.


Một số học sinh yếu đến lớp chủ yếu ngồi nghe giảng, ghi chép kiến thức mà
giáo viên truyền đạt một cách thụ động; các em không tự giác học bài, soạn bài
trước khi đến lớp như yêu cầu của giáo viên bộ môn.
Do đặc thù bộ môn văn, chủ yếu sử dụng ngôn ngữ và đồ dùng dạy học trực
quan ít , cho nên ảnh hưởng đến chất lượng dạy - học.
Mặt khác, tôi luôn tâm niệm: “ Mỗi thầy cô giáo là tấm gương tự học và
sáng tạo”. Nhiệm vụ của người giáo viên dạy văn, nhất là phần văn bản phải giúp
học sinh thấy được cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Qua
đó, các em cảm nhận được thông điệp nhà văn muốn nhắn gửi. Bên cạnh đó, thông
qua việc học văn , giáo viên rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự khám phá, cảm thụ
một tác phẩm văn học, giúp các em có khả năng giao tiếp đạt hiệu quả.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh khẳng định: Nguồn gốc cốt yếu của văn
chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là tấm gương phản ánh cuộc sống
muôn hình vạn trạng. Hơn thế, văn chương còn góp phần sáng tạo ra sự sống, gây
dựng cho con người những tình cảm không có và luyện những tình cảm sẵn có.
Đời sống tinh thần của nhân loại nếu thiếu văn chương thì sẽ rất nghèo nàn, tẻ
nhạt. ( Hoài Thanh, những lời bình về ý nghĩa văn chương).

Văn chương bắt nguồn từ đời sống. Vì thế, văn học rất gần gũi với mọi
người. Những kiệt tác không chỉ lay động bao trái tim người đọc, giúp chúng ta
khám phá bao nhiêu điều bổ ích, kì diệu của cuộc sống mà còn làm cho tinh thần
chúng ta thoải mái sau những giờ học căng thẳng, mệt mỏi. Muốn tiết học đạt hiệu
quả cao, giáo viên cần có sự kết hợp nhiều phương pháp tích cực một cách thích
hợp nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh. Căn cứ vào mục tiêu và những kỹ năng
cần của bài học, giáo viên sẽ lựa chọn một số phương pháp dạy – học cho học sinh
áp dụng: đọc diễn cảm, đàm thoại - vấn đáp, dụng cụ trực quan ( tranh , ảnh), diễn
giảng, thuyết trình dưới các hình thức hoạt động cá thể hoặc hoạt động nhóm . Dù
lựa chọn phương pháp nào chăng nữa thì sự hỗ trợ của CNTT trong giảng – dạy,
giáo viên sẽ khắc sâu kiến thức, giúp các em nhớ bài sâu hơn, yêu thích học môn
văn hơn. Dần dần, kết quả học tập của các em sẽ ngày một nâng cao hơn.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
2.1. Đối với giáo viên:
- Để giảng dạy tốt môn Ngữ văn 7 trong nhà trường, ngành Giáo dục đang
từng bước cải tiến về phương pháp giáo dục, giáo viên đã biết vận dụng một cách
linh hoạt, khéo léo giữa các phương pháp dạy học. Những năm gần đây, ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học đã phát huy được tính ưu việt, nổi trội so với
những phương tiện khác.
- Công nghệ thông tin góp phần nâng cao tiềm lực của giáo viên bằng việc
cung cấp những phương tiện dạy - học hiện đại: khai thác thông tin, bổ sung và tự
làm giàu vốn tri thức của người dạy. Cho nên, việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào giảng dạy môn Ngữ Văn ngày càng được nhiều giáo viên áp dụng.
2.1.1. Chuẩn bị giáo án có ứng dụng CNTT
- Phông chữ: cần có sự thống nhất ( kiểu, cỡ ), không nên đưa quá nhiều ( hoặc
quá ít ) chữ trong một slide ; số lượng dòng trong các slide nên tương đối đồng


đều, hợp lí, khoa học. Tránh sử dụng các đoạn văn nguyên vẹn, nên tóm gọn các y
chính yếu nhất và trình bày dưới dạng gạch đầu dòng.

- Màu sắc: Sử dụng màu chữ sao cho tương phản với màu nền ( chữ sáng trên nền
tối hoặc chữ đậm trên nền nhạt). Không sử dụng nền, hình ảnh có nhiều hoa văn
phản cảm.
- Đồ họa và âm thanh: Giới hạn từ 1 đến 3 ảnh trên một slide. Tránh sử dụng các
hoạt ảnh nhấp nháy và có tiếng động và chỉ sử dụng âm thanh khi cần thiết để
minh họa cho nội dung.
- Hiệu ứng: Chọn một loại hiệu ứng chuyển tiếp slide để giúp người xem tập
trung; không nên lạm dụng hiệu ứng vì nó làm cho học sinh không chú y vào bài
học và nhanh mệt mỏi.
* Lưu y: Khi thực hiện các slide trình chiếu, giáo viên cần tránh những trường
hợp sau:
- Khổ chữ quá nhỏ, nhiều kiểu chữ, kiểu chữ cầu kỳ, dùng nhiều chữ in
hoa...
- Khoảng cách giữa các dòng, giữa chữ và hình phải phù hợp, quá nhiều
thông tin trên một slide.
- Quá nhiều màu sắc, thiếu sự tương phản giữa màu nền và màu chữ .
- Lạm dụng các hiệu ứng và âm thanh .
2.1.2. Sử dụng CNTT trong giảng dạy.
a. Dùng hình ảnh trực quan:
* Với các văn bản:
- Những tranh minh họa trong sách giáo khoa hoặc giáo viên sưu tầm để
phục vụ cho giờ học một cách hợp ly sẽ giúp các em khắc sâu kiến thức hơn và qua
đó phát huy được tính tích cực , tư duy sáng tạo của học sinh.
- Giáo viên có thể sử dụng trong nhiều tiết học và trong nhiều phần của bài
học; có thể sử dụng ở phần giới thiệu bài, phần giới thiệu chung về tác giả – tác
phẩm, phần phân tích nội dung trọng tâm văn bản hoặc liên hệ mở rộng .
Cụ thể:
Ví dụ 1: khi dạy văn bản “ Cảnh khuya”, “Rằm tháng giêng” Ngữ văn 7
tập 1, giáo viên có thể đưa tranh minh họa về Bác để giới thiệu bài:



Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là một tâm hồn nghệ sĩ, dù Người từng viết:
Ngâm thơ ta vốn không ham
Hồi đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, bận trăm công
ngàn việc, nhưng có khi, giữa đôi phút nghỉ trong đêm khuya thanh vắng, nơi rừng
sâu núi thẳm, tình cờ gặp một cảnh đẹp, vẳng nghe một tiếng hát, dõi theo một
mảnh trăng xa, Người lại làm thơ. Hai bài thơ Cảnh khuya , Rằm tháng giêng
chúng ta sẽ tìm hiểu trong tiết học hôm nay chính là hai trường hợp hiếm hoi như
thế.
Ví dụ 2: Khi dạy văn bản “Tiếng gà trưa” Ngữ văn 7 tập 1.
GV cho học sinh xem chân dung Xuân Quỳnh và giới thiệu chân dung tác giả.

- Xuân quỳnh là nhà thơ nữ xuất sắc nhất của nền thơ ca hiện đại Việt Nam, nổi
tiếng với những bài thơ 5 chữ, có một số bài thơ đã được phổ nhạc như : Thuyền
và biển, Thơ tình cuối mùa đông, Sóng...
- Thơ Xuân Quỳnh giản dị, tinh tế mà sâu sắc, thường viết về những tình cảm gần
gũi , bình dị trong đời sống gia đình, biểu lộ những rung cảm chân thành, những
khát vọng cao đẹp.
Ví dụ 3: Văn bản“ Sống chết mặc bay” Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 2,
khi giảng về nhân vật quan phụ mẫu, giáo viên cho HS quan sát hình ảnh:
H: Qua bức tranh này, em hãy miêu tả tư thế của quan phụ mẫu ?


H: Qua tìm hiểu tính cách nhân vật quan phụ mẫu, em rút ra bài học gì cho bản
thân trong cuộc sống?
( Phải biết quan tâm đến những người sống quanh chúng ta, phải có y thức với
công việc chung, nhất là tinh thần trách nhiệm.)
Ví dụ 4: Khi dạy bài “Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất”, Sách
giáo khoa Ngữ văn 7 tập 2, HS quan sát một số hình ảnh rồi tìm câu tục ngữ tương
ứng. Từ đó, giáo viên liên hệ về thời tiết hiện nay. ( Có minh họa hình ảnh động)



Ráng mỡ gà có nhà thì giữ.

Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.

*Với phần Tiếng Việt :
- Ở phần Tiếng Việt, ly thuyết thường khô khan nên giáo viên cần đưa vào
bài học những hình ảnh trực quan giúp học sinh linh động hơn, giúp các em dễ
hiểu.
- Giáo viên có thể sử dụng trong nhiều tiết học và trong nhiều phần của bài
học; có thể sử dụng ở phần nêu khái niệm, phần luyện tập .
Cụ thể:
Ví dụ 1 : Với bài “Từ đồng âm” Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 1, khi tìm
hiểu khái niệm từ đồng âm, giáo viên có thể cho học sinh đọc ví dụ, tìm các từ
được viết giống nhau.
1. Con ngựa đang đứng bỗng lồng lên.
2. Mua được con chim bạn tôi nhốt ngay vào lồng.
- Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh và giải thích nghĩa từ lồng
trong ví dụ trên.

(lồng 1)
(lồng 2)
Lồng (1): Hoạt động của con vật đang đứng im bỗng nhảy dựng lên
rất khó kìm giữ (động từ).
Lồng (2): Chỉ đồ vật làm bằng tre, kim loại dùng để nhốt vật nuôi
(danh từ).
H: Từ lồng trong hai câu trên có gì giống và khác nhau?



Giống: phát âm giống nhau.
Khác: nghĩa khác nhau , không liên quan đến nhau.
-> Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra kết luận về từ đồng âm.
=> Sau khi dạy khái niệm từ đồng âm” Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 1, Gv có
thể đưa ra câu đố để HS trả lời, từ đó tìm từ đồng âm.

Ví dụ 2: Khi dạy bài “Thành ngữ”, Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 1,
học sinh quan sát một số hình ảnh rồi tìm thành ngữ tương ứng và giải thích
( có minh họa hình ảnh động).

Ăn cháo đá bát.
-> Sự bội bạc, phản bội, vong ơn.


Lá lành đùm lá rách
-> tạo phép đối, nhấn mạnh sự đùm bọc yêu thương giúp đỡ lẫn nhau
giữa con người với con người.
Ví dụ 3 : Khi dạy bài “Thành ngữ”, Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 1, ở
phần luyện tập, học sinh quan sát một số hình ảnh, kể vắn tắt các truyền thuyết và
ngụ ngôn tương ứng để thấy rõ lai lịch của các thành ngữ: Con Rồng cháu Tiên,
Ếch ngồi đấy giếng, Thầy bói xem voi.

Ví dụ 5 : Khi
dạy bài “Liệt kê”,
SGK Ngữ văn 7
tập 2, sau khi tìm
hiểu thế nào là liệt
kê, GV có thể
chiếu tranh minh
họa, HS quan sát

và trả lời:
H: Bức tranh minh
họa
cho
câu
chuyện gì? ( Cây
bút thần)
H: HS quan sát tranh và đặt câu có sử dụng phép liệt kê?
c. Với phần Tập làm văn
Gồm 2 phần: ly thuyết và thực hành. Phần ly thuyết giờ Tập làm văn thường
khô khan, trừu tượng, khó hiểu. Do đó, giáo viên cần sử dụng CNTT, đưa vào một
số tranh ảnh để học sinh dễ dàng cảm thụ. Giáo viên có thể sử dụng trong nhiều tiết


học và trong nhiều phần của bài học; có thể sử dụng ở phần ly thuyết và thực
hành.
Ví dụ 1 : Khi học bài “Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học”, Sách
giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1. Khi tìm hiểu thế nào là phát biểu cảm nghĩ về tác
phẩm văn học, cụ thể: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya, giáo viên có thể
đưa ra hình ảnh.

H: Tác giả phát biểu cảm nghĩ của mình về bài thơ bằng cách tưởng tượng, liên
tưởng, hồi tưởng, suy ngẫm về các hình ảnh, chi tiết của nó. Hãy chỉ ra các yếu tố
đó trong bài văn?
Như một họa sĩ tài ba, chỉ vài nét bút đơn sơ, Bác đã vẽ ra trước mắt chúng
ta vẻ đẹp lạ kì của một đêm trăng rừng:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
H: Để phát biểu cảm nghĩ về bài thơ, chúng ta cần làm gì?
Phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ để nói lên cảm xúc, suy nghĩ của mình

về bài thơ đó.
-> Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra kết luận về phát biểu cảm nghĩ về tác phẩn
văn học.
Ví dụ 2: Khi trả bài viết số 2 với đề bài “ Loài cây em yêu”, giáo viên có thể đưa
ra hình ảnh minh họa, từ đó học sinh dễ dàng quan sát và kiểm tra bài làm của
mình .


Ví dụ 3 : Khi dạy bài “lập luận giải thích”, giáo viên có thể đưa ra hình ảnh để
học sinh quan sát và giải thích câu tục ngữ “Nắng tháng tám rám trái bưởi”.

Trong
quá
trình
dạy:
GV cần
kết hợp
các
hoạt
động
Tháng
một
cách
nhuần
nhuyễn
giữa
trình
chiếu, ghi bảng với lời giảng và các tổ chức hoạt động khác của học sinh . Người
dạy cần tránh hiện tượng mãi bấm máy chiếu mà quên ghi bảng ; chiếu nội dung mà
quên lời giảng, lời bình khi phân tích hoặc mải viết bảng hoặc mãi bấm máy trình

chiếu; say sưa giảng, chiếu mà quên cho học sinh thảo luận; hay nội dung chiếu lên
phông không trùng khớp với nội dung giáo viên đang giảng giải hoặc sử dụng hiệu
ứng động không phù hợp làm học sinh không chú tâm vào nội dung bài học.

8

b. Lồng ghép những đoạn phim, clip, bài hát vào vào slide trong bài giảng.


Để tạo sự hứng thú, say mê cho các em, bên cạnh dùng hình ảnh trực quan, giáo
viên còn có thể cho học sinh nghe một số giai điệu của bài hát, điệu hò, hoặc xem
một đoạn phim.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Cảnh khuya”- SGK Ngữ văn 7 tập 1, trong khi giảng 2
câu thơ đầu giáo viên có thể cho học sinh nghe một đoạn âm thanh .
H: Đó là âm thanh gì?
- Tiếng suối chảy.
H: Âm thanh đó gợi cho em liên tưởng điều gì?
- Tiếng suối thành tiếng hát, thành giọng người. Gợi lên cảnh đẹp, gợi cảm, êm
dịu.
Giáo viên bình: Lối so sánh của Bác thật kì lạ! Tiếng suối vốn được cảm nhận
bằng thính giác nhưng nghe tiếng suối Người cảm nhận được độ “trong” của dòng
chảy. Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, đó hẳn cũng là thứ quà riêng mà
thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho những người chiến sĩ trên đường hành
quân xa xôi mệt mỏi. Chẳng những vậy, tiếng suối trong nhưng là “trong như tiếng
hát xa”. “Tiếng hát xa” là thứ âm thanh rất đặc biệt. Đó phải là tiếng hát rất cao để
có sức lan toả mạnh mẽ, để từ xa con người vẫn có thể cảm nhận được. Đó cũng là
tiếng hát vang lên trong thời khắc yên lặng bởi nếu không, nó sẽ bị lẫn vào biết bao
âm thanh phức tạp của sự sống, liệu từ xa, con người còn có thể cảm nhận được?
Điều thú vị trong câu thơ của Bác Hồ là một âm thanh của tự nhiên được so sánh
với tiếng hát của con người. Điều đó thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc trong

những vần thơ của Bác. Cảnh đêm khuya hẳn trong trẻo, tĩnh lặng đến nhường nào
Người mới có thế lắng nghe được tiếng suối long lanh ấy.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “ Ca Huế trên sông Hương”- SGK Ngữ văn 7 tập 2, giáo
viên có thể cho học sinh nghe một vài điệu hò trong khi giảng nội dung bài mới.
H: Ca Huế được hình thành từ đâu?
Ca Huế được hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã
nhạc.
HS quan sát đoạn phim về nhạc cung đình, nhã nhạc.
GV giảng:
- Nhạc dân gian: là các điệu dân ca, những điệu hò, … thường sôi nổi, lạc quan,
tươi vui.
- Nhạc cung đình, nhã nhạc: là nhạc dùng trong những buổi tôn nghiêm trong cung
đình của vua chúa, nơi tôn miếu của triều đình phong kiến, thường có sắc thái
trang trọng, uy nghi.
Giáo viên liên hệ giáo dục cho học sinh: Nhã nhạc cung đình Huế, dân ca quan họ
Bắc Ninh được thế giới công nhận là di sản văn hóa tinh thần.
Ví dụ 3: Khi dạy văn bản chèo “ Quan âm Thị Kính”, trích Nỗi oan hại chồng
- SGK Ngữ văn 7 tập 2, giáo viên có thể cho học sinh xem một đoạn chèo trong
phần giới thiệu bài, tạo tâm thế thoải mái trước khi vào tìm hiểu nội dung bài mới.
Ví dụ 4: Khi dạy bài “Từ trái nghĩa”- SGK Ngữ văn 7 tập 1, sau khi tìm hiểu lí
thuyết ở từng phần, giáo viên có thể cho học sinh tìm từ trái nghĩa bằng cách nghe
một đoạn bài hát (Biết ơn Võ Thị Sáu – cùng anh tiến quân trên đường dài).
Như vậy, việc vận dụng các phương pháp trong giảng dạy, nhất là việc ứng
dụng CNTT một cách hợp lí sẽ đem lại hiệu quả khả quan. Tuy nhiên, nếu chúng ta
sử dụng CNTT không phù hợp hoặc lạm dụng CNTT sẽ có tác dụng phản lại, giáo


viên sẽ biến giờ học thành giờ trình chiếu, những hình ảnh đi qua nhưng kiến thức
không đọng lại trong các em. Chúng ta cần lưu y sử dụng một cách linh hoạt, hợp lí
nhằm đạt hiệu quả cao nhất.

2.2. Đối với học sinh
Theo phương pháp đổi mới trong dạy – học, học sinh phải biết tự học, tự tìm tòi
là chính. Muốn có một giờ học văn đạt kết quả cao, giáo viên cần định hướng cho
học sinh :
Trong phần văn bản: học sinh cần chuẩn bị bài, đọc tác phẩm, xem chú thích,
trả lời các câu hỏi trong bài, đồng thời trả lời một số câu hỏi giáo viên đưa ra, sưu
tầm thêm một số kiến thức liên quan làm phong phú cho nhận thức của mình.
*Ví dụ 1: Trước khi dạy bài Qua Đèo Ngang, giáo viên dặn học sinh tìm hiểu
thể thơ thất ngôn bát cú đường luật về niêm, luật, vận , đối…
Sưu tầm những bài thơ thuộc thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật của
Huyện Thanh Quan và một số nhà thơ khác.
Sưu tầm những tranh ảnh liên quan đến bài học .
* Ví dụ 2: Trước khi dạy – học bài thơ Cảnh Khuya, giáo viên dặn học sinh cần
sưu tầm một số bài thơ của Bác viết về trăng, những bài thơ, lời bình về thơ và
con người Bác.
Trong phần Tiếng Việt, học sinh đọc trước ví dụ, trả lời các câu hỏi, áp dụng
làm bài tập; ở mức độ cao hơn học sinh có thể viết đoạn văn ngắn liên quan đến
nội dung bài học.
Học sinh biêt ứng dụng công nghệ thông tin bằng cách sưu tầm, chuẩn bị trước
một số tranh ảnh, một số bài hát, đoạn video… liên quan đến nội dung bài học .
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
- Sau một thời gian giảng dạy, tôi đã suy nghĩ, tìm tòi và mạnh dạn ứng dụng
CNTT để phát huy tính tích cực của học sinh trong giảng dạy môn Ngữ văn. Qua
một thời gian thực hiện chuyên đề, tôi nhận thấy các em mạnh dạn hơn, phát biểu
sôi nổi hơn, say sưa hơn, đa số các em yêu thích học môn văn .
- Chất lượng bộ môn hai lớp 7/8, 7/9 như sau:


Số lượng HS giỏi, khá , trung bình có tăng ; HS yếu giảm đáng kể.
Quá trình đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện khi người dạy đóng

vai trò chủ đạo, học sinh chủ động .
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Tóm lại, muốn thực hiện được một tiết dạy văn có hiệu quả, giáo viên cần
phải nắm vững đặc trưng của bộ môn, phải chuẩn bị chu đáo kết hợp nhiều phương
pháp linh hoạt và học sinh cần nâng cao tinh thần tích cực, tự giác trong học tập.
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã rút ra trong thực tế quá trình giảng
dạy. Tuy nhiên, knh nghiệm này mới chỉ dừng lại ở quan điểm cá nhân, tôi rất
mong nhận được sự đóng góp y kiến của quy thầy cô để việc giảng dạy của bản
thân ngày một tiến bộ.
V . TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 1 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 2011
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 2 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 2011
3. Sách giáo viên Ngữ văn 7 tập 1 - Nhà xuất bản giáo dục 2008
4. Sách giáo viên Ngữ văn 7 tập 2 - Nhà xuất bản giáo dục 2008


2. Phương pháp dạy học tích cực.
3. Tài liệu dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng.
4. Một số hình ảnh, đoạn phim sưu tầm trên mạng.



×