Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Giáo dục Đại học thế giới và Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.85 KB, 16 trang )

Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
Câu 1:Các mô hình giáo dục đại học
a. Mô hình tinh hoa : đào tạo nhân tài
*Như thế nào gọi là mô hình tinh hoa?
-Mô hình lựa chọn ít người cho học thật ít và xuất sắc mới thành tài.Lựa chọn người có trình độ ,khả
năng,năng lực ,có tiền
-Tinh hoa:Đào tạo ít nhưng chất lượng cao, không đào tạo ồ ạt
*Ưu điểm,Nhược điểm
-Ưu điểm:+ Chất lượng phải được đảm bảo
+Kinh tế (đào tạo người nào dùng người đấy ),không lãng phí thời gian,tiền bạc ,tiết kiệm
+ Lựa chọn được người tài
-Nhược điểm : +Không đáp ứng kịp nguồn nhân lực của xã hội
+Dễ tạo ra sự giáo dục bất bình đẳng trong xã hội (có người được đi học,có người ko
được đi học )
+Cản trở

sự phát triển của xã hội ,khoa học kĩ thuật ,văn hóa,nghệ thuật .Cản trở sự

phát triển của các cá nhân trong xã hội
*Mô hình tinh hoa phù hợp trong điều kiện kinh tế xã hội nào ? Đáp ứng với mô hình chậm phát triển ,ít thay
đổi .Ví dụ :Xã hội phong kiến đào tạo ít vì nhu cầu sx Xh không đòi hỏi ,KTXh lạc hậu.
*Hiện nay mô hình tinh hoa vẫn còn tồn tại trong xã hội việt nam và thế giới
Ví dụ :Các lớp cử nhân ,tài năng đại học ,các trường chuyên ,lớp chọn
b. Mô hình vì nguồn nhân lực đào tạo nhân lực
*Như thế nào là mô hình vì nguồn nhân lực ?Là mô hình xã hội yêu cầu những loại nhân lực nào thì đạo tạo
mô hình đó đào tạo theo nhu cầu của XH về nguồn nhân lực ,theo nhu cầu của các ĐH trong Xh
*Ưu điểm
+Đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực cho Xh
+Tạo cơ hội cho mọi người học tập ,tạo sự giáo dục bình đẳng trong giáo dục
+Tạo sự phát triển trong Xh


+Tạo ra cơ hội phát triển thúc đẩy ,kinh tế,văn hóa
*Nhược điểm
+Đào tạo nguồn nhân lực thừa thãi ,tổn hao thời gian tiền của sự phung phí trong giáo dục
+Chất lượng ko đồng đều
+Người có học không chịu làm việc khác =>tạo ra tệ nạn Xh
c. Mô hình đại chúng nâng cao dân chí
Là mô hình cho tất cả mọi người (già ,trẻ ,trai ,gái)
Ưu điểm : Tạo điều kiện ,mọi cơ hội cho con người được học ,mọi nơi .mọi lúc trong đk ,bất kỳ hoàn cảnh
nào ,học phí rẻ…

1


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
d.Mô hình giáo dục trong XH học tập
*Như thế nào là Mô hình xã hội học tập ?Tất cả mọi người đều học tập ,cập nhật sự phát triển của kho
học ,mọi nơi,mọi lúc…
*Tại sao phải hình thành XH học tập
-Do tốc độ phát triển ngày càng nhanh của văn hóa KHKT nhiều tri thức mới ra đời ,nhiều tri thức bị lỗi thời
mất tác dụng vì thế con người cập nhật cái mới ,loại bỏ cái lỗi thời lạc hậu
-Do sự phát triển của KHKT nhiều sp lao động không học không tiêu thụ được
*Mô hình đại học trong xã hội học tập :Các trường đại học như các công ty doanh nghiệp .trường trong công
ty ,công ty như trong trường .Làm cho quá trình lao động sản xuất và đào tạo thành mô hình khép kín
Mô hình linh hoạt .mềm dẻo :trong đào tạo có sản xuất kinh doanh và ngược lại .Con người luôn luôn học
tập để nâng cao trình độ,năng lực
Câu 2: Các xu thế phát triển giáo dục đại học trên thế giới
a. Dân chủ hóa giáo dục đại học :Là biến không dân chủ thành dân chủ tạo cơ hội cho sinh viên ,giảng
viên tự do ngôn luận ,tự do sáng tạo ,tự do thể hiện chính kiến ,tự do phát biểu ý kiến bày tỏ quan điểm..
-Quan niệm trong Xh nếu môi trường đại học ko có dân chủ thì ở đâu cũng ko có dân chủ vì tập hợp những
hiểu biết nhất Xh

b.Hiện đại hóa :Về nội dung chương trình đào tạo ,cơ sở vật chất đào tạo
phản ánh được thành tựu mới của KHKT .Về tư tưởng quan niệm đào tạo ,đào tạo theo nhu cầu của Xh chứ
không phải đào tạo theo cái chưa biết chưa có
c.Quốc tế hóa :Về chất lượng đào tạo ,làm cho chất lượng đào tạo thế giới phù hợp với nhau thừa nhận lẫn
nhau về mặt bằng cấp
-Có sự thống nhất về nội dung chương trình đào tạo trao đổi ND ,giảng viên ,kinh doanh Gd…làm cho
chương trình đào tạo mang tính quốc tế
d.Chuẩn hóa :Đưa ra chuẩn để cho các trường theo 1 cái chuẩn để hướng tới và luôn luôn phát triển
-Chuẩn trong nước sau đó chuẩn khu vực và cuối cùng chuẩn quốc tế
e.Đa dạng hóa :Về loại hình đào tạo chính qui ,tại chức ,tích lũy tín chỉ … các phương thức đào tạo
-Các loại hình trường lớp công lập ,tư thục ,trường của các tổ chức nước ngoài ,công ty…
-Về chất lượng
-Về chương trình đào tạo
-Về bằng cấp ,tín chỉ ,chứng chỉ…
-Về mềm dẻo.linh hoạt
f.Doanh nghiệp hóa công ty hóa :Biến trường đại học trở thành công ty ,doanh nghiệp ,giống như công ty
doanh nghiệp hạch toán về đầu vào ,đầu ra ,chất lượng sp.số lượng sp

2


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
Câu 3. A/c hãy nêu và phân tích các giá trị GDĐH phương Đông truyền thống vs phương tây hiện
đại.? Nêu suy nghĩ của mình về việc phát huy các giá trị trong sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện
của GD việt nam nói chung và ở cơ sở a/c đang công tác.
Trả lời:
I/ Nêu và phân tích giá trị GDĐH Phương Đông và Tây
1/ Giáo dục đại học phương Đông
- Nền giáo dục đại học Phương Đông gắn liền với quá trình phát triển của các nền văn minh Phương Đông
ở Trung quốc, Ấn độ, Nhật bản, Hàn quốc, Việt nam... và các nước ở khu vực Đông-Nam Á. Trong điều kiện

còn sơ khai và thấp kém của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp)
và trong khuôn khổ các thể chế chính trị-xã hội phong kiến, nền giáo dục đại học Phương Đông chủ yếu
phản ánh và truyền bá các hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo và các giá trị văn hoá-xã hội
trong đó chủ yếu là dạy hệ thống các triết lý, quan niệm, tín điều, văn chương, một số kỹ năng tính toán
và rất ít tính duy lý, phân tích..
- Thời kỳ hiện đại (thế kỷ 19 cho đến nay) hệ thống giáo dục đại học của các nước Phương Đông phát triển
theo mô hình châu Âu (Anh, Pháp, Đức) và mô hình Mỹ. Chẳng hạn như Nhật Bản thời kỳ đầu (cuối thế kỷ
19 đầu thế kỷ 20) phát triển các trường đại học theo mô hình đại học Đức và sau chiến tranh thế giới thứ 2
(1947) phát triển theo mô hình đại học Mỹ.
Phương Đông: Học để đổi đời
- Quay về phương Đông, chúng ta thử xem những điều gì làm nên sự khác biệt trong quan điểm và cách
thức vận hành nền giáo dục ở đây so với phương Tây. Nhìn chung, ở phương Đông phần lớn các bậc cha mẹ
thường gò ép con cái học tập, rèn luyện và phấn đầu theo cách mà họ cho là sẽ tốt nhất cho tương lai của con
em mình. Phải chăng sự kỳ vọng “đổi đời”, sự “ganh đua ngầm” của các bậc sinh thành là nguyên nhân
chính của cái sự áp đặt ý chí và mục tiêu một cách thái quá lên đôi vai non nớt của trẻ thơ? Cũng chính vì sự
kỳ vọng đó mà thành tích học tập của các em trở thành một tiêu chí gần như duy nhất đối với sự quan tâm
của gia đình.
- Hùa theo các bậc cha mẹ học sinh, nhà trường cũng đặt thành tích kiểm tra thi cử lên hàng đầu, càng tạo
nên sức ép tâm lý nặng nề lên các em. Từ đây cũng phát sinh nhiều điều tiêu cực như đã thấy đối với nền
giáo dục ở nước ta. Trẻ em ít được cung cấp các hiểu biết và kỹ năng sống sao cho khỏe mạnh về tinh thần
và thể chất vì chúng phải nhồi nhét cho nhiều kiến thức các môn học, trong đó kỹ năng được rèn luyện chủ
yếu là để học thuộc và giải các bài tập, đặc biệt là môn toán. Có thể nói nền giáo dục như vậy là nền giáo dục
đánh cắp tuổi thơ của các em. Hậu quả là nó tạo ra những thế hệ thanh thiếu niên méo mó trong sự phát triển
của chính bản thân mình, ít hiểu biết về xã hội và các mối quan hệ con người, sức khỏe tâm thần nói chung là
không như mong muốn.
- Nền giáo dục với nhiều sức ép thành tích thi cử khiến học sinh bị ngợp trong sự tiêu hóa gấp gáp các kỹ
năng làm bài tập mà các giáo viên với thâm niên nhiều năm “sáng chế” ra như những thứ bảo bối. Chúng
không có thời gian hoặc không thể tự hiểu được những tri thức mà chúng được dạy có gì liên quan đến thực
tiễn cuộc sống đang diễn ra bởi lẽ trong cách giảng dạy cũng như trong sách giáo khoa những chỉ dẫn về ứng
dụng kiến thức học ở nhà trường vào đâu và thế nào thì không rõ ràng hoặc hoàn toàn thiếu vắng. Phương

pháp giáo dục này có thể mang đến kết quả thi cử rất cao nhưng sức sáng tạo trong tương lai thì chưa chắc đã
có. Nói một cách ngắn gọn và mang tính hình tượng thì nền giáo dục Tây phương là mở (trẻ thơ được hướng
dẫn để tự tìm hiểu về thiên nhiên và xã hội), còn ở phương Đông là áp đặt theo ý muốn của người lớn.

3


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
2/ Giáo dục đại học phương Tây
- Giáo dục đại học phương Tây hình thành và phát triển gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh
phương Tây với nhiều bước thăng trầm của lịch sử từ thời văn minh Hy-La và trải qua đêm dài Trung cổ từ
thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ 14-15. Từ thế kỷ 15, nền văn minh Phương Tây đã trải qua các cuộc cải cách Tôn
giáo, cách mạng xã hội, cách mạng khoa học với sự phát triển mạnh mẽ của các tư tưởng tiến bộ-nhân văn,
tư duy khoa học... đã bước thời kỳ phục hưng (thế kỷ 16-17) với nhiều thành tựu rực rỡ trên các mặt của đời
sống xã hội (các trường phái nghệ thuật-kiến trúc, triết học, xã hội học; khoa học đặc biệt là các khoa học
thực nghiệm..). Tuy có những bước thăng trần song nền văn minh Phương Tây tiếp tục phát triển mạnh trong
các giai đoạn của cách mạng kỹ thuật và công nghiệp (thế kỷ 18- 19) và hiện nay là thời đại hậu công nghiệp,
kinh tế tri thức trong thế kỷ 21.. Giáo dục đại học phương Tây thời kỳ đầu gắn liền đào tạo tinh hoa với các
nội dung thần học, văn chương, luật, khoa học và nghệ thuật và sau nay là khoa học-công nghệ hiện đại cùng
nhiều lĩnh vực văn hoá- nghệ thuậtl khoa học xã hội-nhân văn ...
- Hệ thống giáo dục đại học phương Tây đã phát triển qua gần 10 thế kỷ với nhiều bước thăng trầm gắn liền
với các cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, cách mạng xã hội, phát triển văn hoá và văn minh nhân loại
- Từ thế kỷ 12-15 (cuối thời trung cổ ở Châu âu) với các Truờng Đại học đầu tiên tại Salerno (NamÝ),
Bologna (1088-BắcÝ); Paris (1215), Oxford (Anh-1167); Viện đại học Cambridge (Anh-1209)
+ Giáo dục đại học Phương Tây thời kỳ đầu chịu ảnh hưởng, sự chi phối của các giáo lý, hệ tư tưởng của
Nhà thờ (Thiên chúa giáo, Cơ đốc giáo, Đạo Tin Lành..).
+

Nhiệm vụ chủ yếu của nhà trường đại học là đào tạo giới tinh hoa ở các lĩnh vực hành chính, luật, y..


phục vụ nhu cầu cho Nhà nước và nhà thờ
+ Nội dung giảng dạy chủ yếu các kỹ năng cơ bản cho các nghề văn chương (ngữ pháp, tu từ, biện chứng)
Sau này bổ sung thêm các lĩnh vực âm nhạc, số học, hình học, thiên văn..) hình thành hệ thống 7 môn nền
tảng (liberal art) của học vấn đại học (General Education)
- Thời kỳ Khai sáng và Phục hưng (TK 16-17) với sự phát triển mạnh mẽ của các tư tưởng tự do, nghệ
thuật và các cuộc cách mạng xã hội, cách mạng khoa học.
+ Các trường đại học dần dần thoát khỏi sự chi phối của Nhà thờ và Giáo hội
+ Hình thành các trường phái nghệ thuật-kiến trúc nổi tiếng;các trường nghệ thuật-kiến trúc; các Đại học
tổng hợp về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn.
+ Các trường Đại học dần dần trở thành là các trung tâm khoa học, văn hóa- tri thức của xã hội.
+ Giáo dục đại học thời kỳ này do hạn chế về đối tượng và quy mô nên chủ yếu vẫn là nền giáo dục tinh
hoa. Đào tạo chuyên gia, tầng lớp tri thức của xã hội
+ Các trường Đại học phương Tây trở thành các trung tâm phát triển các tư tưởng tự do- nhân văn, tinh thần
duy lý; tự do học thuật, phương pháp khoa học, biện chứng...
- Hệ thống giáo dục đại học phương Tây phát triển mạnh trong giai đoạn thế kỷ 18-19 với các cuộc
cách mạng kỹ thuật, công nghiệp.

4


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
+ Xuất hiện các loại hình đại học/cao đẳng kỹ thuật và công nghệ. Các trường cơ khí ở Anh; các trường kỹ
thuật-công nghệ ở Đức và Pháp… ).
+ Các trường đại học kiểu mới đã trở thành trung tâm đào tạo đội ngũ nhân lực trình độ cao trong nhiều lĩnh
vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ… cho các ngành sản xuất-dịch vụ, góp phần phát triển nhân lực kỹ
thuật có trình độ cao cho các ngành kinh tế- xã hội đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghiệp.
+ Thời kỳ này đã xuất hiện mô hình đại học nghiên cứu ở Đức, Scotland và Anh với vệc kết hợp chặt chẽ
giữa đào tạo và nghiên cứu; lý thuyết với ứng dụng, phát triển các khoa học ứng dụng và thực nghiệm. Với
sự ra đời của trường đại học Beclin (1810) đã đánh dấu bước chuyển căn bản của mô hình giáo dục đại học
Phương Tây từ khoa học thuần túy, tháp ngà khoa học .. sang khoa học ứng dụng cao cấp; phát triển khoa

học và công nghệ tiên tiến với nhiều ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và dịch vụ.
+ Mô hình trường Grande Ecole của Pháp với tính chuyên sâu cao, tuyển sinh chọn lọc chặt chẽ đã tạo ra
những bước tiến lớn về chất lượng và trình độ đào tạo cao của mô hình đại học Châu âu thời hiện đại và có
ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới.
- Thời kỳ hậu công nghiệp và kinh tế trí thức (giữa thế kỷ 20 đến nay)
Cùng với quá trình phát triển của khoa học-công nghệ và nền sản xuất hiện đại, những tiến bộ trong
trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, nền giáo dục đại học phương Tây tiết tục phát triển mạnh mẽ cả
về quy mô và chất lượng, hiệu quả đào tạo. Mô hình đại học Mỹ ra đời và phát triển trên cơ sở kế thừa các
mô hình đại học Anh, đại học Châu Âu (Pháp- Đức) với các cơ sở nổi tiếng như đại học Harvard (1636); đại
học Chicago; MIT.. là những đại học hàng đầu trong top 20 trường đại học đẳng cấp quốc tế.
+ Đa dạng hóa và phát triển mạnh các đại học nghiên cứu (Reseach Universities) và phát triển mạng lưới
cao đẳng cộng đồng (Communỉty College) ở các địa phương để đáp ứng nhu cầu phổ cập giáo dục đại học.
+ Phân tầng mạnh mẽ chất lượng đào tạo đại học ở các loại hình trường Đại học, hình thành một phổ chất
lượng đào tạo đại học theo sứ mạng và mục tiêu của các loại hình trường đại học.
+ Đại chúng hóa giáo dục đại học. Gắn bó chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo đại học.Giáo dục
đại học trở thành một ngành dịch vụ tri thức cao cấp với một thị trường lớn nhiều tỷ USD/năm
+ Trường Đại học trở thành trung tâm sản xuất, phát triển, truyền bá và ứng dụng và dịch vụ tri thức, công
nghệ cao, phát triển các giá trị văn hóa-xã hội và công đồng.
Phương Tây: học để tự tin hòa nhập và phát triển
Chắc nhiều người đã biết, có rất nhiều điểm khác biệt giữa hai cách dạy dỗ con cái (qui ước là từ lúc bé cho
đến lúc học hết phổ thông) của hai đại diện Mỹ và Trung Quốc. Từ lúc bé cho đến lúc học hết phổ thông
chắc chắn là giai đoạn quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách và những thói quen suy nghĩ, hành
động của một công dân tương lai trong bất cứ một quốc gia nào.
Xuất phát từ quan điểm bình quyền, bình đẳng công dân nên mục tiêu mà cách dạy dỗ và giáo dục phương
Tây hướng tới là giúp các em sớm hình thành và củng cố tinh thần tự chủ, độc lập, năng động sáng tạo trong
một xã hội văn minh lấy sự tự giác tuân thủ luật pháp làm nền tảng. Do vậy mà không có áp lực nào từ phía
gia đình hay trường học, tỷ như thành tích và kết quả học tập phải cao hay phải chú trọng ngành này, ngành
kia sau khi tốt nghiệp phổ thông. Quan điểm đó được các bậc cha mẹ và hệ thống giáo dục nhất quán chia sẻ
và thực hiện nghiêm túc.


5


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
Những đứa trẻ của một nền giao dục như vậy trong quá trình trưởng thành được cung cấp cả một gói tri thức
có cấu trúc tương đối hài hòa gồm những kiến thức phổ thông kết hợp với những hiểu biết phong phú về
thiên nhiên, con người và các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là kỹ năng hợp tác. Điều đó giúp chúng có nhiều
cơ hội trở thành một con người nhân văn, tự tin với sức khỏe tâm lý lành mạnh để hòa nhập vào cuộc sống tự
lập và phát triển cá nhân. Đó cũng có thể được coi là một nền giáo dục tôn trọng tuổi thơ của trẻ em. Thật
khó hiểu cho những ai nghĩ về xã hội phương Tây theo kiểu định kiến rằng ở đó con người sống thực dụng,
đề cao cá nhân nhưng lại đánh giá khả năng làm việc theo nhóm như một phẩm chất quan trọng hàng đầu.
Chọn phương pháp nào?
Một câu hỏi tất yếu sẽ được đặt ra: phương pháp giáo dục nào có khả năng tạo nên nhiều người tài hơn cho
xã hội. Trong quá khứ chúng ta đã thấy Liên Xô với sự tập trung cao độ ý chí của lãnh đạo và nguồn lực của
xã hội nên trong một số giai đoạn và một số lĩnh vực đã đạt được những thành tựu đôi khi vượt cả phương
Tây. Nhưng trong toàn cục thì kết quả thế nào ai cũng đã biết. Người tài, đặc biệt là thiên tài chỉ có thể xuất
hiện trong một môi trường làm việc hoàn toàn tự do cho niềm đam mê sáng tạo nảy sinh và phát triển. Trong
họ là sự cộng sinh hoàn hảo của một bộ óc tuyệt vời trời cho với một sức khỏe tâm lý lành mạnh mà gia đình
và xã hội vun đắp.
Hình như ở phương Đông yếu tố thứ hai không có nhiều cơ hội để hình thành và bền chắc trong mỗi con
người như ở phương Tây. Với một phương pháp giáo dục lấy “tiêu hóa” kiến thức thật nhiều, thật nhanh làm
mục tiêu, trẻ thơ sớm già cỗi về tâm hồn, méo mó trong cách nhìn về sự hợp tác ắt sẽ dễ dẫn đến tính vị kỉ
cao hơn, tâm lí dễ bất ổn hơn. Một xã hội với nhiều công dân như vậy sẽ không thể phát triển bền vững trong
dài hạn.
Phải chăng phương thức tiến hành của một nền giáo dục có tầm quan trọng hơn so với nội dung mà nó muốn
cung cấp cho trẻ em? Tôi cho rằng điều đó là đúng. Mục tiêu cơ bản nhất của giáo dục là hình thành nhân
cách phù hợp với xã hội. Trẻ em khi tốt nghiệp phổ thông phải thấy được vị trí nào thì thích hợp nhất với
năng lực và sự kỳ vọng của mình. Phải tạo điều kiện để mỗi học sinh trong quá trình học ở trong trường thấm
nhuần được một điều quan trọng là tri thức mỗi người có được chủ yếu dựa vào tinh thần tự học từ sách vở
và từ những người cộng tác trong suốt cuộc đời.

Mỗi nền giáo dục là sản phẩm của một nền văn minh
Vậy có thể xảy ra khả năng xã hội phương Tây sẽ áp dụng các phương pháp giáo dục của phương Đông hay
không hoặc ngược lại? Ai cũng biết, các nước phương Tây phần lớn xây dựng xã hội theo thể chế cộng hòa,
dân chủ, trong khi trên lục địa mênh mông của phương Đông (châu Á nói chung) do ảnh hưởng sâu rộng của
chế độ phong kiến, một thể chế thực sự kiểu phương Tây còn chưa là một thực tế. Vì thế mà quan hệ xã hội ở
phương Đông bản chất vẫn là cai trị chứ chưa bình quyền như ở phương Tây.
Xã hội phương Tây nói chung là phát triển và giàu mạnh. Cơ cấu nghề nghiệp phong phú và thu nhập hoàn
toàn theo tài năng của từng cá nhân. Một công nhân kĩ thuật với tay nghề giỏi có thu nhập cao hơn hẳn thu
nhập của một giáo sư hay một nhà nghiên cứu. Một lãnh đạo công ty có lương và thưởng cao hơn nhiều so
với lương bổng của thủ tướng hay tổng thống. Mọi cá nhân bình đẳng trước pháp luật. Và vì thế mà mỗi
người trưởng thành chọn ngành nghề hoàn toàn theo khả năng và thiên hướng của mình chứ không có bị gò
ép theo mức độ “danh giá” của công việc hoặc vì sự thúc ép của gia đình hay dư luận xã hội.
Trong khi đó, ở phương Đông (phần lớn là còn nghèo và lạc hậu) do tàn dư của quan điểm phong khiến, xã
hội còn có sự phân biệt rõ ràng giữa người lao động chân tay với lao động trí óc (về thu nhập và địa vị), và
đặc biệt là giữa người dân thường với những người làm quản lý (các cấp). Do những đặc quyền đặc lợi rất
cao của nhóm quản lí so với nhóm còn lại mà từ bao đời nay các ông bố, bà mẹ chỉ còn cách ép con mình cố
học “thành tài” để đổi đời. Vì thế mà cái sự học ở đây chỉ là để kiếm cơm tốt hơn, có địa vị cao hơn chứ
không phải là để sáng tạo. Đó chính là sự khác nhau cơ bản về quan hệ người-người, quan điểm hạnh phúctrong-công việc ở hai nửa trái đất và cũng chính điều đó tạo nên sự tương phản giàu-nghèo, văn minh-lạc hậu
giữa hai xứ xở. Và vì vậy nên mới có sự khác biệt giữa hai nền giáo dục như nói ở trên.

6


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
Xem ra mỗi nền giáo dục đó đã thực sự là sản phẩm của mỗi nền văn minh, một cao và một thấp. Cả hai đều
là con đẻ của hai cấu trúc xã hội khác nhau và mang đậm dấu ấn của cấu trúc ấy. Nền giáo dục phương Đông
không thể theo phong cách phương Tây một khi cả gia đình và dư luận chung vẫn giữ nguyên cách nhìn nhận
cũ về giá trị của con người trong xã hội. Phương Tây cũng không thể áp dụng được cách giáo dục của
phương Đông vì nó trái với bản chất xã hội của họ. Họ chắc cũng đủ thông minh để hiểu rằng họ đi trước
phương Đông chính là nhờ nền giáo dục như họ đang có. Nếu phương Đông không thể giã từ quan điểm xã

hội “phong kiến” của mình thì mãi cứ đi sau phương Tây, giống như trái đất bao đời nay vẫn quay từ Đông
sang Tây.
II/ Nêu suy nghĩ của mình về việc phát huy các giá trị trong sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện
của GD việt nam nói chung và ở cơ sở a/c đang công tác.
1/ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cần đảm bảo các yêu cầu gì?
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực
hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo
dục, đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc
học, ngành học. Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân.
- Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học, các
giải pháp đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
- Đổi mới căn bản và toàn diện không có nghĩa là làm lại tất cả, từ đầu mà cần vừa kế thừa, củng cố, phát
huy các thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới, vừa
kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc; đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình phù
hợp với thực tế đất nước, địa phương. Những hạn chế, thách thức của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc,
có giải pháp hữu hiệu và lộ trình khắc phục, vượt qua để đưa sự nghiệp giáo dục lên tầm cao mới.
2/ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo VN đứng trước những cơ hội và thách thức gì?
a/ Những cơ hội:
- Đất nước ổn định về chính trị, thành tựu phát triển kinh tế - xã hội trong 10 năm qua, Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, cùng với
Chiến lược và Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 - 2020 là những tiền đề cơ bản để thực hiện đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam.
- Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo, mong muốn đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, tận dụng cơ hội phát triển đất nước trong giai đoạn "cơ cấu dân số
vàng(1)" và hội nhập quốc tế mạnh mẽ.
- Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức phát
triển mạnh làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để đổi mới căn bản,
toàn diện và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo dục (nội dung, phương pháp và hình thức tổ

chức giáo dục), đổi mới quản lí giáo dục và xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại đáp ứng nhu cầu
của xã hội và cá nhân người học.
- Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi để
nước ta tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục và quản lí giáo dục hiện đại và
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát triển giáo dục.

7


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
- Giáo dục trên thế giới đang diễn ra những xu hướng mới: xây dựng xã hội học tập cùng với các điều kiện
bảo đảm học tập suốt đời; đại chúng hoá, đa dạng hoá, toàn cầu hoá, hội nhập và hợp tác cùng với cạnh tranh
quốc tế về giáo dục…
- Nhân dân ta với truyền thống hiếu học và chăm lo cho giáo dục, sẽ tiếp tục dành sự quan tâm và đầu tư cao
cho giáo dục và đào tạo.
b/ Những thách thức:
- Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất
lượng cao, trong khi nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho giáo dục của Nhà nước và phần đông gia
đình còn hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, đặt ra nhiệm vụ nặng nề và thách thức lớn đối với sự
phát triển giáo dục và đào tạo.
- Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, sự phát triển không đều giữa các địa phương vẫn tiếp tục là
nguyên nhân dẫn đến thiếu bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục và khoảng cách chất lượng giáo dục giữa
các đối tượng người học và các vùng miền.
- Tư duy bao cấp, sức ì trong nhận thức, tác phong quan liêu trong ứng xử với giáo dục của nhiều cấp, nhiều
ngành, của nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục, không theo kịp sự phát triển nhanh của kinh tế - xã hội và
khoa học công nghệ; bệnh thành tích, hư danh, chạy theo bằng cấp trong cán bộ và người dân chậm được
khắc phục.
- Khoảng cách phát triển về kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo giữa nước ta và các
nước tiên tiến trong khu vực, trên thế giới có xu hướng gia tăng. Hội nhập quốc tế và sự phát triển của kinh
tế thị trường đang làm nảy sinh nhiều nguy cơ tiềm ẩn như sự thâm nhập lối sống không lành mạnh, xói mòn

bản sắc văn hoá dân tộc; sự thâm nhập của các loại dịch vụ giáo dục kém chất lượng, lạm dụng dạy thêm,
học thêm, chạy trường, chạy điểm...
3/ Mục tiêu cụ thể đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học? Những nội dung nào là mới so với mục
tiêu lâu nay đã xác định?
a/ Mục tiêu cụ thể là:
- Tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất, năng lực tự học, tự làm
giàu tri thức, sáng tạo của người học.
- Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy
hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia; trong đó có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và
quốc tế. Đa dạng hoá các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành
nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
b/ Nội dung mới so với trước đây:
- Giáo dục đại học không chỉ tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài mà phải đặc biệt
coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học.
- Mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phải phù hợp với quy hoạch
phát triển nguồn nhân lực quốc gia; trong đó có một số trường ngang tầm khu vực và quốc tế.
- Thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học nhằm phục vụ công tác quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục
đại học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học để
đánh giá uy tín và chất lượng đào tạo phục vụ quản lí nhà nước và ưu tiên đầu tư về ngân sách.
- Phát triển giáo dục đại học phải gắn với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp với quy luật khách quan.
Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo, trong đó có giáo dục đại học từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng
chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.

8


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
Câu 4: Nêu và phân tích các nội dung căn bản trong tuyên bố Paris về GDĐH hướng tới thế kỉ 21. Nêu
suy nghĩ của mình về việc phát huy và vận dụng những nội dung này trong quá trình đổi mới và phát
triển GDĐH VN nói chung và nới đơn vị a/c công tác nói riêng?

Trả lời:
Các nôi dung căn bản trong tuyên bố Paris về GDĐH hướng tới trong thế kỉ 21.
+ GDĐH phải được mở cửa hoàn toàn bình đẳng cho mọi người theo tiêu chuẩn giá trị của nó phù hợp với
điều khoản 26.1 trong “Tuyên bố về quyền con người”. Bởi thế không thể chấp nhận bất cứ sự phân biệt nào
đối với con đường vào GDĐH dù lý do về chủng tộc, giới, ngôn ngữ, tôn giáo, hoặc khác biệt kinh tế, văn
hóa, xã hội, hoặc về sự khuyết tật thể chất.
+ Phải bảo vệ, củng cố và tăng cường các chức năng cơ bản của GDĐH là GD, ĐT, tiến hành nghiên cứu và
đặc biệt góp phần vào sự phát triển bền vững, sự cải thiện xã hội nói chung. Điều đó có nghĩa là cần GD
những người tốt nghiệp đạt chất lượng cao và GD những công dân có trách nhiệm, cần tạo không gian rộng
mở cho sự ĐT bậc cao và học tập suốt đời. Thêm nữa từ nay GDĐH đóng vai trò chưa từng có trong xã hội
hiện thời với tư cách là yếu tố cơ bản của sự phát triển văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị và trụ cột tăng
cường năng lực nội sinh và thực thi quyền con người, sự phát triển bền vững nền dân chủ và hòa bình trong
công bằng. GDĐH phải coi trọng tính ưu thế của các giá trị và các lý tưởng của nền hòa bình.
+ Phải bảo vệ và phát triển các chức năng cơ bản của GDĐH bằng cách hướng tất cả mọi hoạt động nhà
trường đáp ứng những yêu cầu đạo đức, tính nghiêm túc khoa học và trí tuệ. Phải tăng cường chức năng
khám phá và phê phán nhờ sự phân tích thường xuyên mọi xu thế mới về xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị,
nhờ vậy tạo được không gian cho sự dự báo, sự tiên liệu và sự phòng ngừa. Với mục tiêu này các cơ sở
GDĐH phải có vai trò không hạn chế về quyền tự do học thuật, quyền tự chủ, đồng thời biểu lộ một cách đầy
đủ tính chịu trách nhiệm trước xã hội.
+ Sự thích ứng (la pertinence) của GDĐH phải được tính toán cân đối giữa sự mong đợi của xã hội với các
trường và khả năng các trường đáp ứng lại. Về mục tiêu này, các cơ sở và hệ thống GDĐH, sau khi đã tăng
cường các mối liên hệ với thế giới lao động, phải thiết lập được sự định hướng dài hạn theo mục tiêu và nhu
cầu xã hội kể cả sự tôn trọng các nền văn hóa và sự bảo vệ môi trường. Học chiếm lĩnh và phát triển tư duy
sáng tạo phải trở thành sự quan tâm lớn của GDĐH. Cần chú ý đặc biệt tăng cường các chức năng GDĐH
phục vụ xã hội, đặc biệt với những hoạt động hướng vào xóa bỏ nghèo nàn, sự không bao dung, nạn bạo lực,
nạn mù chữ, nạn đói. Sự xuống cấp môi trường và tình trạng bệnh tật, cũng như những hoạt động phát triển
hòa bình theo tiếp cận phương pháp liên môn và thông qua các môn học.
+ GDĐH là bộ phận của hệ thống GD liên tục được bắt đầu từ GD mầm non, GD tiểu học và sẽ tiếp tục suốt
đời. Sự đóng góp của GDĐH vào sự phát triển hệ thống GD nói chung và định hướng lại mối liên hệ giữa
GDĐH với tất cả các bậc GD, đặc biệt với GD trung học phải là một ưu tiên. GD trung học phải vừa chuẩn

bị tốt cho GDĐH vừa làm giảm áp lực số lượng HS vào ĐH bằng sự ĐT phổ thông và chuẩn bị cho học sinh
đi vào cuộc sống năng động.
+ Sự đa dạng về các mô hình GDĐH, các phương thức và tiêu chuẩn tuyển chọn là cần thiết để đáp ứng lại
đòi hỏi, thực hiện sự đào tạo nghiêm túc và cung cấp cho SV vốn học vấn cần phải có trong thế kỷ 21. Các
học viên cần có khung lựa chọn rộng rãi nhất có thể được. Sự tiếp nhận vốn kiến thức và “sự biết làm” (le
savoir-faire) phải nằm trong viễn cảnh GD suốt cuộc đời, điều này giả định rằng học viên có thể vào và ra hệ
thống GDĐH một cách dễ dàng và thường xuyên.
+ Chất lượng GDĐH là một quan niệm đa chiều liên quan tới mọi chức năng và hoạt động: sự giảng dạy và
các chương trình học, sự nghiên cứu, việc cung ứng về nhân sự, sinh viên, cơ sở hạ tầng và môi trường ĐH.
Đặc biệt phải tạo ra sự tiến bộ kiến thức nhờ sự nghiên cứu. Mọi cơ sở GDĐH ở mọi khu vực cần ý thức rõ
phải có sự đánh giá trong sáng từ trong nội bộ và từ bên ngoài được tiến hành bởi các chuyên gia độc lập.
Tuy nhiên cần chú ý tới tính đặc thù của trường, vùng và quốc gia để tính đến sự đa dạng và tránh đơn dạng.

9


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
Mỗi một cơ sở cần ý thức được là phải có cách nhìn mới và mô hình mới cho GDĐH, phải thực sự hướng
vào học viên. Để đạt mục tiêu đó, cần thiết phải tiến hành làm lại chương trình cho phép đi xa hơn sự nắm
vững nhận thức đơn thuần các môn học và tạo thuận lợi cho sự tiếp thu “sự biết làm”, khả năng và khiếu giao
tiếp, sự suy nghĩ độc lập và lao động – ê kíp trong những bối cảnh đa văn hóa.
+ Một chính sách kiên quyết về hoàn thiện nhân sự cần được áp dụng trong các cơ sở GDĐH. Đối với nhà
giáo cần ban bố các chỉ thị sáng suốt để khuyến khích kịp thời nhằm hoàn thiện năng lực họ, thường xuyên
đổi mới ở cấp độ chương trình cũng như phương pháp giảng dạy và thực tập với một quy chế nghiệp vụ và
tài chính phù hợp, đảm bảo trình độ xuất sắc cho nghiên cứu và giảng dạy.
+ Các nhà hoạch định quốc gia và các trường ĐH phải đặt SV và các nhu cầu của họ vào trung tâm quan
tâm của mình và coi SV như là người đồng hành (partenaires) và là đối tác có trách nhiệm của quá trình đổi
mới GDĐH. Các dịch vụ tư vấn và định hướng phải được phát triển bằng sự công tác với các tổ chức SV để
quan tâm đến các nhu cầu ngày càng đa dạng của học viên. Những SV bỏ học cần được vào học lại
(reintégrer) nếu họ muốn và khi nào họ muốn. Các cơ sở ĐH phải ĐT SV mình trở thành những công dân

được thông tin tốt và có động lực sâu sắc, có bộ óc phê phán và khả năng phân tích các vấn đề, tìm tòi các
giải pháp cho những tính huống xã hội, biết áp dụng chúng và đảm nhận các trách nhiệm xã hội.
+ Phải áp dụng mọi biện pháp mạnh mẽ đảm bảo cho phụ nữ tham gia GDĐH, đặc biệt ở cấp độ ra quyết
định và trong mọi lĩnh vực mà họ còn ít hiện diện, phải theo đuổi mọi nỗ lực để loại bỏ tất cả sự dập khuôn
cứng nhắc liên quan về giới trong GDĐH. Khắc phục mọi trở ngại và cải thiện con đường vào GDĐH của
phụ nữ vẫn là một ưu tiên cấp bách trong tiến trình đổi mới hệ thống và trường học.
+ Cần thiết khai thác ưu thế của mọi công nghệ mới về thông tin và về truyền thông để đổi mới GDĐH bằng
sự mở rộng và đa dạng hóa cách chuyển tải nguồn tri thức và làm cho thông tin và kiến thức đến với quần
chúng rộng rãi hơn. Đảm bảo sự tiếp nhận các công nghệ đó một cách bình đẳng thông qua hợp tác quốc tế
và giữa vai trò hỗ trợ cho các quốc gia chưa sản xuất được những thiết bị nói trên.
+ GDĐH phải được coi là một hoạt động phục vụ công cộng. Nếu sự đa dạng hóa các nguồn tài chính công
cộng và tư nhân là việc cần thiết thì sự hỗ trợ tài chính công cộng cho GDĐH và nghiên cứu vẫn giữa vai trò
chủ đạo để đảm bảo cân đối việc thực hiện các chức năng GD và xã hội. Sự quản lý và đầu tư tài chính cho
GDĐH phải phục vụ việc cải tiến chất lượng và sự thích ứng… Điều đó phải đặt ra những khả năng và chiến
lược thích hợp về kế hoạch hóa và phân tích các chính sách giữa những đối tác trường ĐH và các tổ chức
liên đới. Các cơ sở GDĐH phải có quyền quản lý mọi công việc nội bộ với sự tự chủ nhưng phải phù hợp với
các phương thức quản lý rõ ràng và trong sáng đối với xã hội.
+ Sự hợp tác quốc tế của GDĐH phải là bộ phận cấu thành của chất lượng ĐT. Mọi con đường hợp tác phải
đặt ra với tinh thần chia sẻ (partage), đoàn kết và bình đẳng giữa các đối tác, cần ngăn chặn quá trình thất
thoát những tài năng dẫn đến sự thiếu nhân tài cao cấp cần thiết đẩy nhanh tiến bộ kinh tế - xã hội của các
nước đang phát triển và các nước quá độ. Phải ưu tiên dành các chương trình ĐT cho các nước đang phát
triển tại các trung tâm tốt ở khu vực và thế giới đồng thời những đợt đi bồi dưỡng ngắn hạn chuyên sâu và
nâng cao tại nước ngoài.
+ Các văn bản quy phạm khu vực và quốc tế liên quan tới sự thừa nhận học tập cần được chuẩn y và áp
dụng kể cả những văn bản công nhận kiến thức, trình độ chuyên môn và năng lực của những người có các
văn bằng, nhờ vậy cho phép SV trao đổi giáo trình một cách dễ dàng và linh hoạt hóa các mối quan hệ trong
hệ thống GDĐH từng quốc gia.
+ Các đối tác hẹp trong tất cả các đối tác cùng có trách nhiệm đề ra các chính sách quốc gia và các trường,
các chính phủ và nghị viện, các phương tiện thông tin đại chúng, các nhà giáo, các nhà nghiên cứu, các SV
và gia đình họ, thế giới lao động, các khối cộng đồng đều cần thiết để tiến hành một công cuộc cải cách và

đổi mới sâu sắc GDĐH
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

10


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
Các cách tiếp cận trong nghiên cứu lịch sử giáo dục đại học
Lịch sử giáo dục đại học được tiếp cận dưới 3 phương thức :
- Tiếp cận theo các hình thái kinh tế - xã hội ;
- Tiếp cận theo các nền văn minh ;
- Và tiếp cận theo các mô hình tiêu biểu.

1. Tiếp cận theo các hình thái kinh tế-xã hội.
Theo cách tiếp cận các hình thái kinh tế-xã hội, xã hội loài người trải qua 5 giai đoạn hay trình độ
phát triển cơ bản và tương ứng với nó là 4 nền giáo dục là:
- Giai đoạn chiếm hữu nô lệ ;
- Giai đoạn phong kiến ;
- Giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ;
- Giai đoạn cộng sản chủ nghĩa (với thời kỳ đầu là CNXH).
2. Tiếp cận theo các nền văn minh
Anwin Toffler (1992) nhà dự báo Mỹ nổi tiếng đã phân tích lịch sử phát triển của xã hội theo 3 làn
sóng lớn (giai đoạn phát triển) chính, đó là:
1. Xã hội nông nghiệp.
2. Xã hội công nghiệp.
3. Xã hội hậu công nghiệp (thông tin, trí thức).
Dựa vào cách tiếp cận này, chúng ta có thể khái quát sơ lược sự hình thành lịch sử giáo dục đại học thế giới
như sau :
2.1. Giáo dục đại học phương Đông
- Nền giáo dục đại học Phương Đông gắn liền với quá trình phát triển của các nền văn minh Ph ương

Đông ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam... và các nước ở khu vực Đông-Nam Á.
- Trong điều kiện còn sơ khai và thấp kém của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (nông
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) và trong khuôn khổ các thể chế chính trị-xã hội phong kiến, nền giáo dục
đại học Phương Đông chủ yếu phản ánh và truyền bá các hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo và
các giá trị văn hoá-xã hội trong đó chủ yếu là dạy hệ thống các triết lý, quan niệm, tín điều, văn chương, một
số kỹ năng tính toán và rất ít tính duy lý, phân tích.
- Thời kỳ hiện đại (thế kỷ 19 cho đến nay) hệ thống giáo dục đại học của các nước Phương Đông
phát triển theo mô hình châu Âu (Anh, Pháp, Đức) và mô hình Mỹ. Chẳng hạn như Nhật Bản thời kỳ đầu
(cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20) phát triển các trường đại học theo mô hình đại học Đức và sau chiến tranh thế
giới thứ 2 (1947) phát triển theo mô hình đại học Mỹ. Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp (1858-1945) phát triển
mô hình giáo dục đại học Châu Âu (Pháp) với sự ra đời của Đại học Đông Dương năm 1906.
2.2. Giáo dục đại học phương Tây
- Giáo dục đại học phương Tây hình thành và phát triển gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh
phương Tây qua gần 10 thế kỷ (XII- XXI) với nhiều bước thăng trầm của các cuộc cải cách xã hội-tôn giáo,
cách mạng khoa học-công nghệ, phát triển văn hóa-nghệ thuật...
- Từ thế kỷ thứ 12 – 15 (thời trung cổ châu Âu) với 4 trường đại học đầu tiên tại Salerno, Paris, Bologna,
Oxford.

11


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
+ Thời kỳ này giáo dục đại học chịu sự chi phối của các giáo lý, hệ tư tưởng của Nhà thờ (Thiên chúa giáo,
Cơ đốc giáo, Đạo Tin lành...).
+ Nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục đại học là đào tạo giới tinh hoa trong các lĩnh vực hành chính, luật,
y...phục vụ nhu cầu cho Nhà nước và Nhà Thờ.
+ Nội dung giảng dạy chủ yếu là các kỹ năng cơ bản cho các nghề văn chương (ngữ pháp, tu từ, biện chứng)
Sau này bổ sung thêm các lĩnh vực âm nhạc, số học, hình học, thiên văn..). Hình thành hệ thống 7 môn nền
tảng (liberal art) của học vấn đại học (General Education).
- Thời kỳ Khai sáng và Phục hưng (TK 15-17). Với sự phát triển mạnh mẽ của các tư tưởng tự do, nghệ

thuật và các cuộc cách mạng khoa học.
+ Các trường đại học dần dần thoát khỏi sự chi phối của Nhà thờ và Giáo hội.
+ Hình thành các trường phái nghệ thuật nổi tiếng; các trường Đại học tổng hợp về khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội và nhân văn.
+ Các trường Đại học dần dần trở thành là các trung tâm khoa học, văn hóa- tri thức của xã hội.
+ Giáo dục tinh hoa. Đào tạo chuyên gia, tầng lớp tri thức của xã hội.
+ Phát triển các tư tưởng tư do- nhân văn, tinh thần duy lý; tư do học thuật, phương pháp khoa học, biện
chứng.
- Phát triển mạnh trong giai đoạn công nghiệp hóa (thế kỷ 18-19) với các cuộc cách mạng kỹ thuật, công
nghiệp.
+ Xuất hiện các loại hình đại học/cao đẳng kỹ thuật và công nghệ ( Anh, Đức, Pháp ).
+ Đào tạo đội ngũ nhân lực trình độ cao trong nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ… cho các
ngành sản xuất-dịch vụ
- Thời kỳ hậu công nghiệp, kinh tế trí thức (thế kỉ 20-21)
Cùng với quá trình phát triển của khoa học-công nghệ và nền sản xuất hiện đại, những tiến bộ trong trong
quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, nền giáo dục đại học phương Tây tiết tục phát triển mạnh mẽ cả về
quy mô và chất lượng, hiệu quả đào tạo. Mô hình đại học Mỹ ra đời và phát triển trên cơ sở kế thừa các mô
hình đại học Anh, đại học Châu Âu (Pháp- Đức) với các cơ sở nổi tiếng như đại học Harvard (1636); đại học
Chicago; MIT.. là những đại học hàng đầu trong top 20 trường đại học đẳng cấp quốc tế.
+ Đa dạng hóa và phát triển mạnh các đại học nghiên cứu (Reseach Universities) đồng thời phát triển mạng
lưới cao đẳng cộng đồng (Communỉty College) ở các địa phương để đáp ứng nhu cầu phổ cập giáo dục đại
học.
+ Phân tầng mạnh mẽ chất lượng đào tạo đại học ở các loại hình trường Đại học, hình thành một phổ chất
lượng đào tạo đại học theo sứ mạng và mục tiêu của các loại hình trường đại học.
+ Đại chúng hóa giáo dục đại học. Gắn bó chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo đại học. Giáo dục
đại học trở thành một ngành dịch vụ tri thức cao cấp với một thị trường lớn nhiều tỷ USD/năm.
+ Trường Đại học trở thành trung tâm sản xuất, phát triển, truyền bá và ứng dụng và dịch vụ tri thức, công
nghệ cao, phát triển các giá trị văn hóa-xã hội và cộng đồng.
+ Mô hình giáo dục đại học Châu Âu ( Anh, Pháp, Đức ), Liên xô ( cũ ) và mô hình Mỹ lan tỏa sang nhiều
nước trên thế giới.

Câu hỏi : Anh (chị) hãy nêu và phân tích các nội dung cơ bản trong Tuyên bố Paris về GDĐH năm 1998.
Liên hệ với thực tiễn GDĐH VN nói chung và Trường nơi anh (chị) công tác nói riêng.
Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá Liên Hiệp Quốc UNESCO có hai văn kiện quan trọng về
vấn đề giáo dục Đại học. Văn kiện đầu là Tuyên ngôn thế giới về giáo dục Đại học cho thế kỷ XXI tầm nhìn
và hành động ký ở Paris, năm 1998 bởi 182 quốc gia trong đó có Việt Nam. Văn kiện thứ hai là Tuyên bố
của Hội nghị quốc tế UNESCO về giáo dục Đại học (Paris, năm 2009 ). Về cơ bản, văn kiện năm 2009 chỉ
bổ sung, đánh giá lại kết quả thực hiện tuyên ngôn năm 1998.
Tuyên ngôn thế giới về giáo dục Đại học tại Paris năm 1998 nhấn mạnh vai trò của giáo dục cũng
như triết lý của Đại học : không những đào tạo cho sinh viên có kiến thức vững chắc và biết vận dụng sáng

12


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
tạo trong hoàn cảnh hiện thời và cả cho tương lai. Hơn nữa, còn đào tạo những công dân có ý thức trách
nhiệm, sẵn sàng bảo vệ hòa bình, nhân quyền và những giá trị dân chủ.
Cụ thể, bản tuyên ngôn tập trung vào 7 nội dung cơ bản :
1. Bình đẳng, công bằng cho tất cả mọi người
Giáo dục đại học cần được nhập học bình đẳng đối với tất cả mọi người trên cơ sở sự xứng đáng, phù
hợp với Điều 26.1 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền. Do đó, không thế chấp nhận một sự phân
biệt, đối xử nào trong việc tiếp nhận vào giáo dục đại học dựa trên chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tín ngưỡng
hoặc kinh tế, những khác biệt về văn hóa xã hội, hoặc những khiếm khuyết về thân thể.
Giáo dục đại học Việt Nam rất chú trọng đến nguyên tắc đảm bảo tính công bằng, bình đẳng cho tất
cả mọi người, thỏa mãn nhu cầu không chỉ đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội mà còn thỏa mãn nhu cầu trí
tuệ, nâng cao dân trí. Việt Nam rất chú trọng đến việc : xây dựng các trường đại học, cao đẳng ở các vùng
khó khăn, các trường dự bị dân tộc tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo nhân lực tại chỗ phục vụ phát
triển kinh tế – xã hội của điạ phương ; công tác hỗ trợ giáo dục đối với các vùng miền và người học được ưu
tiên : những sinh viên hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hoặc sinh hoạt và học tập tại các vùng cao, vùng sâu vùng
xa ; người khuyết tật ; có các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các đối tượng này : cấp học bổng,
giảm học phí, tín dụng học tập…

Tuy nhiên, một số chính sách đôi khi còn chưa được hợp lý : ví dụ chế độ « ba chung » còn gây
nhiều tranh cãi ; chế độ cử tuyển (nhiều trường hợp chưa đúng đối tượng, hơn nữa các sinh viên miền núi
thường có học lực kém, chất lượng chưa cao).


Liên hệ nơi công tác

2. Chất lượng cao, góp phần phát triển bền vững, các giá trị văn hóa, xã hội
Sứ mạng cốt lõi của hệ thống giáo dục đại học là giáo dục những người tốt nghiệp có chất lượng cao
và những công dân có trách nhiệm, cung cấp cơ hội cho học tập đại học và cho học tập suốt đời và đặc biệt
đóng góp vào sự phát triển và tiến bộ bền vững của toàn xã hội.
Hơn nữa, GDĐH là một phần sinh động của sự phát triển văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị và như
là một trụ cột của việc xây dựng tiềm lực nội sinh, sự củng cố quyền con người, sự phát triển bền vững, nền
dân chủ và hòa bình.
Nhiệm vụ của GDĐH là đảm bảo cho các giá trị và các lý tưởng của một nền văn hóa hòa bình sẽ
thắng thế.
Nền Giáo dục đại học Việt Nam chất lượng còn thấp, hiệu quả chưa cao. Cơ cấu hệ thống và nhà
trường còn nhiều bất hợp lí.
Người ta có thể là một nhà chuyên môn tốt nhưng chưa chắc đã là một nhà tri thức bởi một nhà tri
thức đòi hỏi phải có văn hóa, sự hiểu biết trên nhiều lĩnh vực. Từ nhận định này soi vào nền giáo dục đại học
Việt Nam, có thể nhận thấy, việc chú ý đến phát triển các kiến thức văn hóa nền tảng ở phạm vi rộng chưa
thực sự được nhấn mạnh, đôi khi còn mang tính hình thức, mới chỉ tập trung nhiều vào đào tạo chuyên môn
nghề nghiệp.


Liên hệ nơi công tác

3. Tăng cường chức năng phê phán, khám phá => Tinh thần bài giảng đại học
Đã qua rồi cái thời thầy mang đến cho trò « một bồ chữ ». Giáo dục đại học ngày nay hướng tới việc
lấy người học làm trung tâm, người học do đó cũng phải tự mình chủ động tiếp cận và xây dựng kiến thức.


13


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
Tinh thần các bài giảng ở trường đại học vì thế cũng phải khơi dậy được tính sáng tạo, thôi thúc khám phá
của người học.
Giáo dục đại học cần tăng cường chức năng phê phán và nhìn về tương lai, thông qua sự phân tích
hiện trạng của các xu thế xã hội, kinh tế, văn hóa và chính trị nổi bật, chỉ ra các vấn đề trọng tâm để dự kiến,
cảnh báo và phòng ngừa…
Trước kia, việc giảng dạy ở đại học ở Việt Nam dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo cũng nặng
về giáo điều, dẫn đến việc sản phẩm đào tạo ra là những người học thụ động, không linh hoạt, không có tinh
thần phê phán, khám phá. Trong bối cảnh đổi mới giáo dục, việc đổi mới phương pháp dạy học, nội dung bài
giảng theo hướng tăng cường chức năng phê phán và nhìn về tương lai là một trong những nhiệm vụ đổi mới
trọng tâm.


Liên hệ nơi công tác

4. Tự do học thuật, tự chủ và chịu trách nhiệm trước xã hội. Phục vụ công cộng
Sự phù hợp của giáo dục đại học được đánh giá qua sự ăn khớp giữa những gì mà xã hội kỳ vọng và
những gì mà nó đang làm. Để có được sự phù hợp đó, các nhà trường, đặc biệt trong mối quan hệ chặt chẽ
giữa nó với thế giới việc làm, cần dựa trên định hướng lâu dài về mục tiêu và nhu cầu của xã hội, bao gồm
những mối quan tâm về văn hóa và bảo vệ môi trường. Phát triển các kỹ năng và sáng kiến tạo nghiệp cần
phải trở thành mối quan tâm chính của giáo dục đại học. Cần phải lưu ý đặc biệt đến vai trò phục vụ của giáo
dục đại học đối với xã hội, đặc biệt là các hoạt động hướng tới việc làm giảm sự nghèo khó, thiếu khoan
dung, bạo lực , ngu dốt, đói kém, hủy hoại môi trường, bệnh tật, và những hoạt động hướng tới việc củng cố
hòa bình, thông qua cách tiếp cận liên ngành và xuyên ngành.
Muốn vậy, họ cần được hoàn toàn tự chủ và tự do về học thuật, đồng thời cần có đầy đủ trách nhiệm
và giải trình đối với xã hội.

Ở Việt Nam hiện nay, quản lý giáo dục đại học còn nặng về hành chính, quan liêu, bao cấp. Phương
thức quản lý nhà trường địa học còn lạc hậu, chưa đổi mới, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Do đó, giáo dục
đại học vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hiện đại hóa, công hóa cho đất nước. Chức năng phục vụ công cộng
của giáo dục đại học vì thế còn yếu kém.
Trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục đại học, kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa việc
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước và việc đảm bảo quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm
xã hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục. Để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam đang thực hiện các giải
pháp : thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục. Việc quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục
nghề nghiệp sẽ do Bộ Giáo dục và Đào tạo đảm nhận. Thực hiện dần việc bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với các
cơ sở giáo dục đại học. Thực hiện phân cấp quản lý mạnh đối với các địa phương và các cơ sở giáo dục, nhất
là đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các cấp về
nội dung đào tạo (sẽ bỏ chương trình khung, chỉ ban hành chuẩn đầu ra), tài chính, nhân sự; kiên quyết thúc
đẩy thành lập Hội đồng trường ở các cơ sở giáo dục đại học để thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội
của đơn vị.
Để tăng cường chức năng phục vụ công cộng của giáo dục đại học, theo NQ 14/2005/NQ-CP về đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, một trong những định hướng quan trọng là Gắn đổi mới giáo dục đại học
với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nhằm phục vụ tốt hơn chức năng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
phát triển kinh tế-xã hội của cả nước và các địa phương.


Liên hệ nơi công tác

5. Tăng cường sự thích ứng. Liên thông và chuẩn bị tốt để vào cuộc sống
Nội dung này xuất phát từ một triết lý đơn giản : xã hội luôn thay đổi và nghề nghiệp luôn phát triển.
Sinh viên sau khi tốt nghiệp phải làm việc theo yêu cầu của xã hội chứ không phải theo những gì được học.

14


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam

Đặc điểm thế kỉ XXI đó là sự thay đổi liên tục các chuẩn mực, nghề nghiệp, xã hội. Dó đó, sự tăng cường
thích ứng ở mọi khía cạnh : các mô hình dạy học, phương pháp quản lý, dạy học, chương trình… đều phải
được luôn đổi mới, sáng tạo linh hoạt cho phù hợp với môi trường.
Cần thiết phải có một cái nhìn mới và mô hình mới của giáo dục đại học, đó là giáo dục lấy sinh viên
làm trung tâm. Để đạt được mục tiêu đó, chương trình đào tạo cần phải được xây dựng lại sao cho không chỉ
nắm kiến thức chuyên môn một cách đơn giản mà cần phải bao gồm việc chiếm lĩnh các kỹ năng, năng lực
giao tiếp, óc phân tích sáng tạo và phê phán, suy nghĩ độc lập và biết làm việc trong một bối cảnh đa văn
hóa.
Hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế : chương trình đào tạo cứng nhắc, thiếu linh
hoạt, liên thông, phương pháp dạy-học lạc hậu. Đào tạo chưa gắn với thị trường việc làm.
Với những nỗ lực đổi mới, sinh viên - sản phẩm của nền giáo dục đại học Việt Nam về kiến thức và kỹ
năng nhìn chung được nâng cao. Tuy nhiên, phần lớn sinh viên học tập ở mức trung bình. Nhìn chung, sinh
viên còn yếu về khả năng tự học, tự nghiên cứu. Ngay cả số đã tốt nghiệp cũng còn yếu về kỹ năng thực
hành, khả năng giao tiếp, hợp tác trong công việc. Trình độ ngoại ngữ, hiểu biết về công nghệ hiện đại của
đa số sinh viên còn có khoảng cách khá xa so với yêu cầu hội nhập. Chất lượng đào tạo sinh viên tại chức,
từ xa còn rất thấp, đây là điểm yếu nhất về chất lượng đào tạo hiện nay. Mức độ đóng góp trực tiếp phục vụ
phát triển kinh tế xã hội do đó còn mờ nhạt.
Để thực hiện tốt nội dung này theo Tuyên bố Giáo dục đại học thế giới, NQ 14/2005/NQ-CP về
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đã nhấn mạnh mục tiêu phát triển các chương trình giáo dục đại
học theo định hướng nghiên cứu và định hướng nghề nghiệp- ứng dụng. Bảo đảm liên thông giữa các chương
trình trong toàn hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
6. Đa dạng hóa và đảm bảo chất lượng, công nghệ mới
Sự đa dạng hóa các mô hình giáo dục đại học, đa dạng hóa các phương pháp và tiêu chuẩn chọn lựa
là rất quan trọng đối với cả việc đáp ứng nhu cầu và việc cung cấp cho sinh viên một nền tảng và môt sự đào
tạo nghiêm chỉnh mà thế kỉ XXI đòi hỏi. Người học phải có một hành lang tối ưu để chiếm lĩnh kiến thức và
bí quyết cần phải lưu ý trong một khung cảnh suốt đời, dựa trên đầu vào và đầu ra linh động của hệ thống.
Chất lượng trong GDĐH là một khái niệm đa chiều, bao trùm mọi chức năng, hoạt động : giảng dạy
và các chương trình đào tạo, nghiên cứu, đội ngũ, sinh viên, cấu trúc hạ tầng và môi trường học thuật. Cần
thiết phải có một cái nhìn mới và mô hình mới của giáo dục đại học, đó là giáo dục lấy sinh viên làm trung
tâm. Để đạt được mục tiêu đó, chương trình đào tạo cần phải được xây dựng lại sao cho không chỉ nắm kiến

thức chuyên môn một cách đơn giản mà cần phải bao gồm việc chiếm lĩnh các kỹ năng, năng lực giao tiếp,
óc phân tích sáng tạo và phê phán, suy nghĩ độc lập và biết làm việc trong một bối cảnh đa văn hóa.
Đồng thời, giáo dục đại học phải tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin và truyền thông mới để đổi
mới bằng cách làm cho kiến thức và thông tin sẵn sàng cho đại chúng có thể sử dụng rộng rãi. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm “tin học hóa” quản lý giáo dục ở các cấp. Nâng cao hiệu quả
hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu
Chất lượng giáo dục đại học Việt Nam trong những năm qua được đánh giá là còn nhiều bất cập :
chất lượng đào tạo thấp, hiệu quả không cao, đội ngũ giảng viên, quản lý còn chưa đáp ứng yêu cầu, nguồn
lực hạn hẹp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, trình độ ứng dụng công nghệ thông tin còn chưa cao… Để đảm
bảo chất lượng giáo dục đại học cần đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập, kiểm
định và đánh giá các cơ sở giáo dục. Xây dựng hệ thống tổ chức kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục
-Tổ chức xếp hạng các cơ sở giáo dục đào tạo và công bố công khai kết quả trên các phương tiện thông tin
đại chúng.


Liên hệ nơi công tác

15


Chuyên đề 6:Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam
7. Hợp tác quốc tế
Hoạt động quốc tế của GDĐH là một thành phần cố hữu của chất lượng của nó. Mạng lưới dựa trên
sự chia sẻ, đoàn kết và bình đẳng giữa các đối tác. Việc « chảy não » vẫn cần được ngăn chặn, vì chúng tiếp
tục cướp đi từ các nước đang phát triển và các nước kinh tế chuyển đổi các chuyên gia cao cấp cần thiết để
làm tăng tốc sự tiến bộ xã hội của họ. Cần phải ưu tiên cho các chương trình đào tạo ở các nước đang phát
triển, tại các trung tâm chất lượng cao tạo nên các mạng lưới quốc gia và khu vực, kết hợp với các khoảng
thời gian ngắn học chuyên ngành và học tập trung tăng cường ở nước ngoài.
Là một nước có trình độ phát triển kinh tế xã hội còn thấp, việc hội nhập quốc tế được nhấn mạnh là
một trong những nhiệm vụ đồng thời là giải pháp quan trọng để thực hiện các mục tiêu đổi mới căn bản và

toàn diện hệ thống giáo dục Việt Nam.


Liên hệ nơi công tác

KẾT LUẬN
Trong khung cảnh những tranh luận về cải tổ Giáo dục Đại học đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay,
những định hướng của UNESCO về giáo dục đại học trên đây được coi là sự tham khảo vô cùng hữu ích.

16



×