Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Một số ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.69 KB, 24 trang )

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

Chương 1: TỔNG QUAN
1.1 Lý do chọn đề tài:
Ước muốn về một cuộc sống hạnh phúc đó là ước muốn từ muôn đời nay
không của chỉ riêng ai. Phật giáo chứa một triết lí nhân sinh cao cả với ước
muốn là cứu con người khỏi nỗi khổ muôn đời, với cứu cánh là giải thoát, không
phải bằng sự ban bố nhân đức mà ở chỗ con người có hạnh phúc hay không là
chính ở cuộc sống đức độ của con người, có như vậy con người mới có thể đạt
đến cái “Chân - Thiện - Mỹ” và nhập vào thế giới niếp bàn.
Ta thấy rằng đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ những kỉ nguyên tây lịch,
rồi tồn tại phát triển và chan hòa với dân tộc cho đến tận hôm nay. Nếu thời
gian là thước đo của chân lí thì với bề dày lịch sử đó đạo Phật đã khẳng định
những giá trị của nó trên mảnh đất này. Vì vậy tìm hiểu triết học Phật giáo giúp
con người biết hiểu hơn về một trường phái triết học lớn, về truyền thống văn
hóa mà tổ tiên đã để lại.
1.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo,
ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ở người Việt Nam.
Phạm vi ngiên cứu: chỉ nghiên cứu những tư tưởng cơ bản của Phật giáo và
ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ở người Việt Nam.
1.3 Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cúu tiểu luận là phương pháp tổng hợp các phương
pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là logic
phân tích, tổng hợp gắn với lí luận thực tiễn để thực hiện đề tài.

Lớp Cao học khóa 19

Trang 1




Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

Chương 2: SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO
2.1 Sự ra đời của Phật giáo:
2.1.1 Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo
Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ rất phức tạp, địa hình đa dạng, khắc nghiệt
của tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi
dấu ấn đậm nét lên tâm trí người dân Ấn Độ cổ.
Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xã hội rất sớm, khoảng thế kỉ thứ XXV trước
công nguyên đã xuất hiện nền văn minh đầu tiên là nền văn minh sông Ấn. Đến
thế kỉ thứ XV trước công nguyên , có sự xâm nhập của người Arya vào khu vực
của người bản địa (người Dravida) hình thành nên các quốc gia Ấn Độ tạo nên
nền văn hóa mới gọi là nền văn hóa Véda.
Đặc diểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội Ấn Độ cổ là sự tồn tại rất sớm và
kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”, đặc trưng
của kết cấu này là ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước của các Đế
vương, mà gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của người dân trong công xã.
Xã hội thời kì này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: Tăng lữ, quý tộc,
bình dân tự do và nô lệ cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó là cho xã hội xuất
hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng
cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy nhiều tôn giáo và trường phái triết
học đã ra đời, trong đó có Phật giáo.
Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà-La-Môn
và chế độ đẳng cấp. Phật giáo lí giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát
cho con người khỏi nỗi khổ triền miên đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì

chống lại sự ngự trị của đạo Bà-La-Môn, đặt biệt là chống lại quan điểm của kinh
Véda, nên Phật giáo được xem là dòng triết học không chính thống. ĐĐức Phật
xuất hiện như một mặt trời sưởi ấm: buổi ban mai làm tan đi bóng đen dày đặc

Lớp Cao học khóa 19

Trang 2


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

đã từ lâu che phủ cuộc đời. Ngài không chỉ là vị cứu tinh cho xứ Ấn Độ thời
bấy giờ, mà còn là người vạch ra hướng đi mới cho nhân loại.
2.1.2

Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca
Người sáng lập ra Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất Đạt Đa
(Siddhattha), họ là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa sinh
ngày 15 tháng 4 năm 563 trước CN, là Thái tử của vua Tịnh Phạn, một nước
nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan).
Mặc dù sống trong cảnh cao sang quyền quý, dòng dõi Đế vương, vợ đẹp
con ngoan. Nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự
bất lực của con người trước khó khăn của cuộc đời. Năm 29 tuổi, ông quyết
định từ bỏ con đường Vương giả xuất gia tu đạo. Sau 6 năm tu hành, năm 35
tuổi, Tất Đạt Đa đã giác ngộ tìm ra chân chân lí “Tứ diệu đế” và “Thập nhị
nhân duyên”, tìm ra con đường giải thoát nỗi khổ cho chúng sinh. Từ đó Người
đã đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình và ông đã trở thành người sáng
lập ra tôn giáo mới là đạo Phật. Về sau ông được suy tôn với nhiều danh hiệu

khác nhau: Đức Phật, Thích Ca Mâu Ni, Thánh Thích Ca…
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lí khắp nước Ấn Độ. Năm
ông 80 tuổi thì qua đời, ông để lại cho nhân lọai những tư tưởng triết học Phật
giáo vô cùng quý báu.

2.1.3

Sự truyền bá đạo Phật vào Việt Nam
Việc xác định niên đại Phật giáo du nhập vào Việt Nam cho đến nay vẫn
chưa có đủ tư liệu đề biết chính xác. Sử liệu chỉ nói đến tình hình Phật giáo
nước ta từ thế kỉ thứ II sau công nguyên, lúc bấy giờ trung tâm Phật g iáo ở
Luy Lâu ( vùng Dâu-Thuận Thành- Hà Bắc) đã khá thịnh đạt. Điều đó khiến ta
có thể suy đoán rằng Phật giáo từ phía Nam Ấn Độ qua đường biển vào Việt
Nam khoảng thế kỉ thứ I sau công nguyên. Các vị sư đầu tiên là người Ấn
Độ, nhưng về sau lại thấy xuất hiện tên hiệu vị sư Trung Á và Trung Hoa.

Lớp Cao học khóa 19

Trang 3


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

Có thể nói rằng, ngay từ thời rất xưa Việt nam đã đựơc cao tăng Ấn Độ đến để
truyền giáo trực tiếp. Trải qua các triều đại từ Đinh, Lê, Lý, Trần… Đặc biệt là
dưới 2 triều đại Lý và Trần, Phật giáo đã để lại dấu ấn một thời vàng son. Từ thế
kỉ thứ XIII tuy Phật g iáo không còn là quốc giáo nhưng có sự kết hợp hài
hòa với tinh thần “Tam Đạo Đồng Đường” đã tạo cho Phật giáo một nét mới,

vẫn để lại nhiều dấu ấn trong tâm hồn, tình cảm, phong tục tập quán và cảnh
quan của dân tộc Việt Nam.
2.2 Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo:
Tư tưởng triết học Phật giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết
thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “ Tam Tạng”, gồm 3 Tạng
kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan
điểm về thế giới và con người.
2.2.1

Quan Điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội
dung của 3 cặp phạm trù: Vô ngã, Vô thường và Duyên.

2.2.1.1 Vô ngã
Cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần
nào sáng tạo ra, mà được cấu thành bởi sự kết hợp giữa 2 yếu tố: “Sắc” và
“Danh”.
Sắc: là yếu tố vật chất, là cái thể cảm giác được. Còn “Danh” là yếu tố tinh
thần, không có hình chất mà chỉ có có tên gọi. Chính cái “Danh” và
“Sắc” đó hợp lại với nhau tạo thành “Ngũ Uẩn”: Sắc (vật chất), thụ (cảm
giác), Tưởng (ấn tượng), Hành (suy lý) và thức (ý thức). “Danh” và “Sắc” tác
động qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của vật chất chỉ là
tạm thời, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó cũng không có cái
gọi là “Tôi”.
2.2.1.1 Vô thường
Lớp Cao học khóa 19

Trang 4



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

Nghĩa là vạn vật biến đổi cùng theo chu trình bất tận: Sinh-Trụ-Dị-Diệt.
Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi bất tận, “thoáng có” - “thoáng không”,
cái còn mà chẳng còn cái mất mà chẳng mất.
Đức Phật dạy, “tất cả những gì trong thế gian đó là biến đổi, hư hoại, đều là
vô thường”. Vì vậy vô thường nghĩa là không thường, không mãi ở yên trong
một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình
thành đến biến dị rồi tan rã.
Vô thường của đạo Phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, để bài
trừ những sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó chưa phải là thuyết
tuyệt đối. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật từ thân tâm cho đến
hoàn cảnh. Hiệu lý vô thường, con người dễ giữ được bình tĩnh, thản nhiên trước
cảnh đổi thay bất ngờ.
2.2.1.2 Duyên
Là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Phật giáo cho rằng,
mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều chịu
sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên
nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nhân khác, nhân
khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như vậy mà tạo nên sự biến
đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật Nhân-Quả: nhân là cái mầm,
quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối
tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có quả, nếu
không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy. Nói cách khác
nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau, hễ nhân đổi thì quả đổi.
Một nhân không sinh ra quả, sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp của
nhiều nhân duyên. Cho nên không có nhân nào tự tạo thành quả được nếu không
có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác, trong nhân có quả, trong quả có nhân. Một

sự vật mà ta gọi là quả là khi nó biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta
mong đợi, ước muốn. Mỗi vật vì thế điều có thể gọi là nhân hay là quả đều được
cả. Đối với quá khứ thì nó là quả, đối với tương lai thì nó là nhân. Sự biến

Lớp Cao học khóa 19

Trang 5


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

chuyển từ nhân đến quả có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng
diễn tiến trong một thời gian đồng nhất.
Tóm lại: Triết học Phật giáo bác bỏ quan niệm duy tâm cho rằng thần thánh
sáng tạo ra con người và vũ trụ. Phật giáo thừa nhận con người và sự vật được
cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế giới trong sự
biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới, mặc dù
còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.
2.2.2

Tư tưởng Phật giáo về nhân sinh quan
Quan điểm về nhân sinh quan của Phật Giáo bao gồm “Nghiệp”,
thuyết “Tứ Diệu Đế” và “Ngũ giới”.

2.2.2.1 Nghiệp báo
Là một định luật nhân quả trong vấn đề luân lý, hay như người
phương tây thường nói là “ảnh hưởng của hành động”. Phật giáo không nhìn
nhận có một linh hồn trường cửu được tạo nên một cách ngẫu nhiên và độc

đoán. Phật giáo tin có định luật và công lý thiên nhiên, không phải do một
đấng thượng đế toàn năng hay một Đức Phật đại từ đại bi tạo nên.
Theo lý nghiệp báo, chúng ta không nhất định trói buộc trong một hoàn
cảnh nào, vì nghiệp báo không phải là số mạng cũng không phải là tiền định do
một oai lực huyền bí nào đó định đoạt cho ta một cách bất khả kháng. Chúng ta
có đủ năng lực để chuyển phần nào cái nghiệp của ta theo ý muốn.
Nghiệp không nhất thiết phải là hành động trong quá khứ mà thôi.
Nghiệp bao chùm quá khứ và hiện tại là nơi trong quá khứ chúng ta hành
động như thế nào và trong tương lai chúng ta sẽ là như thế nào cũng tùy nơi
hành động chúng ta trong hiện tại.
Tóm lại: tất cả nghiệp lực đều tùy thuộc nơi biến đổi của tâm lực và luôn
luôn sẵn sàng phát hiện trong muôn ngàn hiện tượng mỗi khi có cơ hội. Nghiệp
là năng lực cá biệt được chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Nghiệp thủ một vai

Lớp Cao học khóa 19

Trang 6


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

trò quan trọng trong việc cấu tạo tâm tính con người, nghiệp giải thích những
hiện tượng mà ta gọi là vĩ nhân, thiên tài, thần đồng.
2.2.1.1 Thuyết tứ Diệu đế
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo thể hiện trong “Tứ Diệu Đế” được
Phật giáo coi là 4 chân lý vĩ đại. Thông điệp tứ diệu đế được xem là một giải
trình mà ở đó bao gồm cả hai mặt nhận thức và hành động, do đó con đường tu
tập tứ đế không thể xét qua góc độ nhận thức mà vấn đề là mô thức biện chứng

của nó.
Đức Phật trong quá trình đi tìm con đường giải thoát, những kinh
nghiệm khổ đau của bản thân đã trải qua là những kinh nghiệm sâu sắc. Do đó
thuyết tứ diệu đế được xem như một quá trình biện chứng thực tại ngay đời
sống của người và cái đỉnh cao tận cùng ấy được Đức Phật giảng giải qua
dạng của tứ đế trên cơ sở tương quan nhân quả, đây chính là bằng chứng thực tại
mà Đức Phật đã đi qua. Vì thế nó không phải là mẫu thức lý tưởng, cũng không
phải là bản sao chép từ những ý nịêm.
Tứ Diệu Đế được Đức Phật giải minh thông qua bốn tiền đề triết học cơ
bản: Tri ân thực tại, sự chuyển hướng tư duy, sự chuyển hướng 2 chiều, giải
trình tư duy.
2.2.1.1.1

Khổ đế
Là thực trạng đau khổ của con người, triết lý về cuộc đời mỗi người là một
bể khổ, ràng buộc, hệ lụy, không tự do. Có tám cái khổ: sinh, lão, bệnh , tử, thụ
biệt khổ, sở cầu bất đắc, ngũ thụ uẩn, ta có thể chia thành ba phương diện.


Phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc,

đau đớn.


Phương diện tâm lý: Là sự đau khổ do không vừa ý, không vừa

lòng… tạo nên đau khổ. Những mất mát thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ.


Phương diện Phật học: Khổ là ngũ thụ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức). Khi ta


Lớp Cao học khóa 19

Trang 7


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

bám víu vào năm yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã của ta, thì sự khổ
đau có mặt. Ý niệm về “thân thể của tôi”, “tình cảm tôi”, “nhận thức của tôi”…
hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ, từ đó mọi đau khổ phát sinh đều gắn
liền với ý niệm về cái tôi ấy.
Tóm lại: Cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc
của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết
học, khổ đau là một thực tại như thực đối với con người, khổ đế là một chân lý
khách quan hiện thực, khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân duyên
được tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào
soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn
nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay
quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
2.2.1.1.2

Tập đế
Chân lí về sự phát sinh của khổ: nguyên nhân của khổ là sự ham muốn,
tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả mãn được hoại diệt.
Các loại ham muốn này là gốc của Luân hồi. Có 12 nguyên nhân gây ra sự đau
khổ (thập nhị nhân duyên).




Vô minh: Đây là danh từ mang hàm nghĩa chỉ sự không hiểu biết chánh pháp,
không thông hiểu bản chất của cuộc sống, chứ không phải mang nghĩa thông
thường là không hiểu. Vì do vô minh mà con người chỉ lo bám víu đời sống
hôm nay, chỉ lo tìm kiếm lợi lạc cho riêng mình, mong muốn được thụ cảm
những những hạnh phúc, vui sướng, thoải mái tạm bợ bên ngoài nhằm thỏa mãn
giác quan. Đó là một sự ngu muội vô cùng, vì rằng hạnh phúc vĩnh cửu chỉ xuất
hiện từ trong nội tâm phát ra mà thôi. Còn nương tựa bên ngoài thì không bao
giờ là bền vững, nhất định nó sẽ tan biến và mất đi dù chúng ta có bám lấy sao
đi nữa.


Hành: Chữ Hành ta có thể hiểu đó chính là những hành động,

Lớp Cao học khóa 19

Trang 8


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

hành vi của thân, khẩu, ý gây tạo nên nghiệp quả. Yếu tố này do vô minh dẫn
đến, vì rằng không có hiểu biết mà con người hành động theo tham ái, hay dục
vọng của mình mà không có điều hòa, chế ngự tâm nên tội lỗi, khổ đau, buồn
phiền luôn xuất hiện theo sau.



Thức: Đây là yếu tố do Hành dẫn đến. Mang hàm nghĩa là thức

nối tiếp, thức tái sinh hay thức nhận biết. Khi chúng ta hành động không có
Chánh kiến sẽ dẫn đến những nhận biết sai lầm, để rồi chúng ta trở nên vô
minh nhiều hơn nữa.


Danh sắc: Yếu tố do Thức dẫn đến. Danh Sắc hay còn được gọi

là tâm và thân. Khi sự thấu hiểu sai lệch được hình thành làm cho Tâm
(Danh) chúng ta có khuynh hướng lệ thuộc vào những quan kiến đó, khi đó bản
ngã sẽ xuất hiện. Cụm từ Danh Sắc bao hàm nên một con người.


Lục Căn: Đây là yếu tố do Danh Sắc dẫn đến. Bao gồm có:

Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý và nó chỉ có khi con người tồn tại.

Xúc: Yếu tố do Lục Căn dẫn đến. Bên cạnh lục căn gồm có Lục
Trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Cả hai Lục Căn và Lục Trần cấu tạo
nên Xúc của con người. Tiếp xúc thế giới xung quanh sinh ra các cơ quan
cảm giác.


Thọ: Yếu Tố do Xúc dẫn đến. Thọ ta có thể hiểu nó chính là cảm giác hạnh
phúc, đau khổ hay không hạnh phúc, không đau khổ. Hiểu theo nghĩa thô đó
chính là sự nhận, thụ hưởng. Có nghĩa là khi mà Xúc phát xuất thì Thọ cũng sẽ
xảy ra cùng lúc.




Ái: Yếu Tố do Thọ dẫn đến. Chỉ những dục vọng mong muốn, yêu thích, thèm
khát… Vì khi con người nhận được những xúc cảm bên ngoài tác động vào, họ
phát sinh nên tham ái đối với những đối tượng giác quan đó.



Thủ: Yếu Tố do Ái dẫn đến. Chỉ sự bám chặt, bám víu, thủ chấp…. Mang
nghĩa gần giống với Luyến. Đây là yếu tố dẫn con người đi trong vòng luân

Lớp Cao học khóa 19

Trang 9


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

hồi mãi mãi. Do chúng ta bám chấp vào đời sống.


Hữu: Yếu tố do Thủ dẫn đến. Đây chỉ về Nghiệp gồm có quá trình tạo tác,
quá trình nhận lãnh. Vì do bám víu, xem điều gì hay vật gì đó là của mình nên
con người tạo những nghiệp quả nhằm đem lại lợi ích cho chính mình, tiến trình
thông qua 3 hành động từ thân, khẩu và ý.



Sanh: Yếu tố do Hữu dẫn đến. Yếu Tố Sanh mang hàm nghĩa là sự hình thành

của của năm uẩn trong bào thai của một người mẹ nào đó. Do chịu lý của
Nghiệp Quả mà thức tái sanh sẽ tiếp tục trở lại bào thai người mẹ và hình thành
nên một con người để thụ lãnh Nghiệp đã vay tạo.



Lão và tử: Yếu tố cuối cùng do Sanh dẫn đến. Đây là thuộc về luật tự nhiên và
như một giai đoạn mà không một người nào thoát khỏi nếu như còn mang nặng
ngũ uẩn. Con người sẽ già theo năm tháng và cuối cùng là phải giã từ cõi đời.
Như thế 12 nhân duyên là hiện hữu của con người, đồng thời cũng là tiến
trình hiện hữu của con người từ sinh thành đến hủy diệt. Thập nhị nhân duyên
là triết lý về nguyên nhân của sự khổ, về nguồn gốc của sự khổ. Khi nhận thức
được bản chất của sự khổ một cách rõ ràng ta mới có thể đi vào con đường đọan
tận khổ đau. Nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong tâm tưởng của
con người. Phật giáo cũng nhìn thấy các nguyên nhân đau khổ, có cái phát sinh
từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng nguyên nhân chính vẫn là tâm thức.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê
không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh
khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập
ở trong chúng. Do không thấy rõ nên sinh tâm ham muốn, ôm giữ lấy các đối
tượng lạc thú. Do không thấy rõ mới lầm tưởng rằng "cái tôi" là quan trọng
nhất, là cái có thật cần phải bám víu, củng cố và thỏa mãn nhu cầu của nó.
Tóm lại: Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do
lòng mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời

Lớp Cao học khóa 19

Trang 10



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền
não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
2.2.1.1.3

Diệt đế
Phật giáo cho rằng mỗi nỗi khổ có thể tiêu diệt được để đạt đến trạng thái
niết bàn có ngã là hạnh phúc, an lạc. Đạo Phật quan niệm rằng, nguyên nhân
khổ là do sự vận hành của thập nhị nhân duyên, trong đó gốc rễ sâu xa là sự vô
minh. Vậy muốn diệt khổ phải đi ngược lại sự vận động của 12 nhân duyên,
bắt đầu tư diệt trừ vô minh. Vô minh bị diệt, trí tuệ bừng sáng, hiểu rõ được bản
chất tồn tại, thực tướng của vũ trụ và con người, không còn tham dục và kéo
theo những hành động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Nói cách khác, diệt trừ được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại,
tu đến Niết bàn, tịch diệt, khi ấy mới hết luân hồi sinh tử. Phật giáo cho rằng,
một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì những nỗi lo âu,
sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc tĩnh táo
hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó là một
hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những tư
tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng
sợ hải mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật
hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ
ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy
vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào thì đời sống của
bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.

2.2.1.1.4




Đạo Đế
Là con đường phải theo để diệt trừ đau khổ. Đạo Phật chủ trương vừa lấy trí
tuệ diệt trừ vô minh, phá vòng luân hồi sinh tử, vừa thực hành tu tập, diệt trừ
tham dục để chuyển nghiệp, đạt đến sự giải thoát. Đây là con đường nhằm để
hoàn thiện đạo Đức cá nhân, con đường này là một bằng chứng về kiểu suy
luận hơp lý và trí tuệ thực tiễn thông qua con đường Bát chính đạo:
Chính kiến: Hiểu biết đứng đắn về tứ Diệu đế hãy từ bỏ mọi điều mê tín, tư tưởng
Lớp Cao học khóa 19

Trang 11


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

vạn vật hữu linh, các nghi thức cổ xưa, hãy từ bỏ niềm tin và o các tục lệ gây
nên sự không bình đẳng giữa người với người, từ bỏ niềm tin vào sự hiện hữu
của một đấng tối cao, hãy dựa vào khả năng suy luận thuần túy của mình. Đây
là bước giúp con người có một căn bản lý trí. Nếu không có chính kiến thì mọi
quyết định sẽ mắc sai lầm.



Chính tư duy: Hãy suy nghĩ chính chắn, suy nghĩ đúng là nền tảng để đạt
được những thành tựu to lớn, miễn là dựa trên chính kiến.
Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính, trung thực, trong sáng, không nói lời nóng

nảy, thô tục, chửi bới, vu khống, phỉ bán.



Chính nghiệp: Hành động chân chính, không làm những việc tàn bạo, giả dối,
không sát sinh, chộm cắp, rượu chè nghiện ngập.



Chính mạng: Sống chân chính, không tham lam, vụ lợi xa rời nhân nghĩa.



Chính tinh tiến: Rèn luyện, tu tập không mệt mỏi là sự nỗ lực cam go để nâng
cao trí tuệ và đạo Đức của mình. Con người phải cố gắng nỗ l ực từ bỏ thói hư
tật xấu, học tập các đức tính tốt, không để mình bị lôi kéo vào các đức tính xấu
xa, hãy nâng cao phẩm chất mà mình có được.



Chính niệm : Là sự chú ý đến các hoạt động, cùng những chỗ yếu kém của bản
thân và ý mình, là suy luận chân chính.



Chính định: Sự tập chung tâm trí và con đường chân chính, không để bẩt cứ
điều gì lay chuyển, làm thoái trí, phân tâm.
Trong bát chính đạo thì chính kiến, chính tư duy thuộc về trí tuệ; chính
ngữ, chinh nghiệp, chính mệnh thuộc về giới luật; chính tinh tiến, chính niệm,
chính định thuộc về định.

Thế giới hiện nay đang từng bước phát triển, đi vào đa phương hóa toàn
diện. Nhiều học thuyết, lý thuyết triết học, đạo học đang được tái thẩm định để
tìm ra những giá trị ứng dụng cho nền văn minh hiện đại. Nếu phải tìm ra
phạm trù đạo đức chung để xây dựng và góp phần ổn định mọi rối loạn trong

Lớp Cao học khóa 19

Trang 12


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

cuộc sống nhân sinh thì Bát chính đạo là định hướng cho đời sống cá nhân, gia
đình và xã hội. Chừng nào con người còn đau khổ thì bát chính đạo vẫn còn là
kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành vi, lời nói và tư tưởng. Chừng nào mọi quốc
gia trên thế giới còn mong muốn đem lại an lạc cho nhân loại chừng đó Bát
chính đạo vẫn là đóng góp của Phật Giáo vào tiếng nói chung của nhân loại trên
tiến trình hòa bình thế giới. Có thể khẳng định giá trị của Bát chính đạo như
một bản đồ tu tập cho mọi người ở mọi thời dại.
2.2.1.1.5

Ngũ giới
Phật giáo còn đưa ra năm điều răn để mọi người chủ động thực hiện nhằm
đem lại lợi ích cho mình và mọi người, gọi là ngũ giới. Ngũ giới là năm điều
kính mà đức Phật đưa ra nhằm để ngăn cản những tường niệm ác, nói năng
chẳng lành, hành động bất chính. Năm điều răn ấy là: không sát sinh, không
trộm cướp, không được tà dâm, không được nói dối, không được uống rượu.
Năm điều răn này dựa trên tâm niệm từ bi bác ái, bình đẳng trên

phương diện từ bỏ tội lỗi cái nhân và đem lại trật tự, an vui cho xã hội mà
thành lập. Đức Phật không bắt buộc chúng phải triệt để tôn theo, và cũng
không hăm dọa nếu không tuân theo thì phải bị trừng phạt, việc giữ ngũ giới
hay không là hoàn toàn do chúng ta tự liệu lấy.



Bất sát: Không được giết hại. Đây là điều răn thứ nhất mà đức Phật khuyên
chúng ta không được giết hại sinh mạng từ loài người cho đến loài vật. Sinh
mạng có một giá trị quý báu , nhất là sinh mạng người, giết hại sinh mạng kia để
tô điểm cho sinh mạng này là một điều ác, không hợp đạo lý.



Bất dâm: Không tà dâm. Nếu giữ được giới không tà dâm, thì gia đình được hòa
thuận an vui hạnh phúc, mọi người nể trọng kính mến.



Bất vọng ngữ: Không nói dối. Nếu giữ giới không nói dối sẽ được mọi người
kính trọng, quý mến, tin cậy, dễ được gần gũi, việc làm thuận lợi uy tín được
nâng cao.

Lớp Cao học khóa 19

Trang 13


Tiểu luận Triết học


GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy



Bất ẩm tửu: không uống rượu. Nếu giữ được giới không uống rượu thì bảo
toàn được hạt giống trí tuệ, ngăn ngừa những nguyên nhân phát sinh tội ác trong
xã hội.



Bất đạo: Không trộm cướp. Nếu giữ được giới không trộm cướp là góp phần đưa
xã hội về bình đẳng, văn minh.
Có năm việc mà trong hiện tại mà trong hiện tại mọi người không thể làm
cho của cải vật chất và sinh mạng được tăng trưởng. Năm điều ấy là: sát sinh,
trộm cướp, tà dâm, ưa nói vọng và uống rượu. Trong năm giới trên có bốn điều
thuộc về vô tính giới, một điều uống rượu thuộc về tưởng giới. Nói tính giới là
vì những giới có liên quan đến tâm tính của con người trong xã hội. Cho nên
về giới tính dù con người có thọ giới hay không, nếu phạm giới thì đều bị sa đọa.
Còn tưởng giới là thuộc về hình thức để ngăn ngừa sự phạm lỗi, nếu có thọ mà
phạm giới thì đắc tội, không thọ thì không đắc tội.
Ngũ giới là hạ phẩm giới, là nền tảng của các giới, chúng ta thấy công cụ
thiết thực và lợi ích của năm giới đối với cá nhân và đoàn thể. Nhưng năm giới
nói trên không có gì là cao siêu huyền bí, đó là một học công thông thường
mà bất cứ quốc gia nào, xã hội nào muốn phồn vinh, hưng thịnh cũng không thể
bỏ sót được. Một xã hội mà mọi phần tử đều thực hiện được năm giới ấy thì đó
là một xã hội gương mẫu và văn minh nhất thế giới. Cho nên năm điều ấy
không phải chỉ để áp dụng riêng cho giới Phật tử, mà còn dùng chung cho tất
những ai muốn sống một cuộc sống lành mạnh, an vui, có lễ nghĩa, tiến bộ.

Lớp Cao học khóa 19


Trang 14


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

Chương 3: ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA VIỆT NAM.
3.1 Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lý:
3.1.1 Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu,
Đế và Bát Chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng các tông phái Phật giáo,
nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt. Về giáo
lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo đã được truyền vào nước ta rất sớm,
giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống hết sức sáng tỏ đối với người
Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù
tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng
những thích hợp với giới bình dân mà còn ảnh hưởng đến giới trí thức. Có thể
nói mọi người dân Việt Nam đều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý
nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn
họ chữ Nôm, chữ Hán, từ xưa cho đến đã dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi
sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp
đem lại hòa bình an vui cho con người. Mỗi người dân Việt đều tự nhiên biết
câu: “ác giả ác báo”. Họ phát biểu câu rất đúng hoàn cảnh sự việc xảy ra cho
đối phương, hay “chạy trời không khỏi nắng”, mặt khác họ hiểu rằng nghiệp
nhân không phải định nghiệp, có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu
tập cải ác tùng thiện. Ta không nên ngồi một chỗ tưởng tượng đến những kết
quả tốt đẹp sẽ đến với mình, từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác,

dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc sống yên cho hiện tại và mai
sau.
3.1.2

Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lý
Phật giáo có ảnh hưởng tích cực để tô thêm vết son vàng đậm nét cho truyền
thống nhân nghĩa Việt Nam. Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần
hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần trong tâm hồn
Lớp Cao học khóa 19

Trang 15


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

người Việt. Điều này ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyên Trãi
(1380-1442), một nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng Việt Nam kiệt xuất, ông đã
vận dụng đạo lý từ bi và biến nó thành đường lối chính trị, đem lại thành công
nổi tiếng trong lịch sử Nước Việt. Ông nói điều đó trong Bình Ngô Đại Cáo
rằng:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn.
Lấy trí nhân để thay cường bạo”
Cho nên khi thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta không
những không giết hại mà còn cấp thuyền bè lương thực để họ về nước.
“Thần vũ chẳng giết hại
Thuận lòng trời ta mở đất hiếu sinh”
Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục ngữ rất
phổ biến trong quần chúng Việt Nam như “Lá lành đùm lá rách”, hay

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng đều thấm
nhuần và thuộc nằm lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác
của đạo Phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân
chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với sự phát
triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu
từ thân đến, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các
mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến
quê hương cao cả đối với cuộc sống của nhân lọai trên vũ trụ này. Đặc biệt
trong đạo lý tứ Ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm
trong tình cảm và đạo lý của người Việt. Bởi Phật giáo đặc biệt chú trọng chữ
hiếu như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng

Lớp Cao học khóa 19

Trang 16


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

thực hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân, chúng sanh, vũ
trụ, đó là môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ
Ân còn có chung cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống hài
hòa với xã hội, với thiên nhiên để tiến tới hạnh phúc chân thực và miên trường.
Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo Việt Nam hình

thành được bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam góp phần làm
phong phú và đa dạng nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
3.2 Ảnh hưởng Phật giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam
Phật pháp là bất định pháp, luôn luôn uyển chuyển theo hoàn cảnh và căn
cơ của chúng sanh để hoàn thành sứ mạng cứu khổ của mình. Với tinh thần
nhập thế tùy duyên bất biến mà đạo Phật đã tạo cho mình một sức sống vô biên,
vượt qua những ngăn cách của địa lý, văn hóa, tôn giáo, ý thức hệ, thời gian,
không gian…. Tinh thần tùy duyên là tự thay đổi với hoàn cảnh để có thể tiếp
độ chúng sanh, tính bất biến là giải thoát ra khỏi mọi đau khổ, sinh tử luôn
hồi. Tuy nhiên Phật giáo vẫn luôn luôn hòa nhập với tất cả các truyền thống văn
hóa tín ngưỡng của các nước trên thế giới.
3.2.1

Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng

truyền thống, các tôn giáo khác và các thế hệ chính trị xã hội


Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền thống: khi được
truyền vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng bản địa, do
vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Lối kiến trúc của chùa chiền của
Việt Nam là tiền Phật hậu Thần cùng với việc thờ trong chùa các vị thần, các
vị thánh, các vị thành Phật giáo Việt Nam dung nạp dễ dàng các tín ngưỡng đa
thần của bản địa trong khi các quốc gia trong vùng thì không có và tinh thần
dung hòa và khai phóng Phật giáo Việt Nam là một trong những nét đặc trưng
đáng chú ý.



Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác: đó là kết quả của sự


Lớp Cao học khóa 19

Trang 17


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với Đạo Nho va Đạo Lão, được các nhà vua
thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính dung hòa và đều hợp
này mà Phật giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưỡng truyền thống của dân tộc
Việt. Nó chẳng phải Phật giáo Ấn Độ hay Trung Hoa, Tiểu Thừa hay Đại Thừa,
mà nó là tất cả những khuynh hướng tâm linh của người Việt, đó là thực tại Tam
Vi Nhất của tinh thần Tam giáo Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh Tam giáo
tổ sư với Phật Thích Ca ở giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phải đã in sâu
vào tâm thức của người dân Việt.


Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các thế hệ chính trị xã hội: Phật giáo
tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng Phật giáo Việt Nam có chủ trương nhập thế,
tinh thần nhập thế sinh động này nổi bật nhất là các thời Đinh, Lê, Lý, Trần.
Trong các thời này các vị cao tăng có học thức, có giới hạnh điều được mời
tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng của quốc gia.
Ta thấy có nhiều lý do khiến các thiền sư Việt Nam tham gia vào chính sự, thứ
nhất: họ là những người có học, có ý thức về quốc gia, sống gần gũi nên thấu
hiểu được nỗi đau khổ của một dân tộc bị nhiều cuộc đô hộ của ngoại bang.
Thứ hai: các thiền sư không có ý tranh ngôi vị ngoài đời nên được các vua tin
tưởng và thứ ba: các thiền sư không cố chấp vào thuyết trung quân (chỉ biết giúp

vua mà thôi) như các Nho gia nên họ có thể cộng tác với bất cứ vị vua nào đem
lại hạnh phúc cho dân chúng.

3.2.2


Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục, tập quán
Ảnh hưởng của Phật giáo qua tập tục ăn chay, phóng sanh, bố thí: Về ăn chay,
hầu như đông đảo người Việt Nam từ xưa đến nay đều chịu ảnh hưởng nếp sống
văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạc xuất phát từ qua niệm từ bi của Phật Giáo. Đạo
Phật không muốn sát sinh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Số ngày
ăn chay tuy có khác nhau trong từng tháng, nhưng cùng giống nhau ở quan điểm
Từ Bi, Hỉ Xả của Đạo Phật. Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người
Việt Nam. Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ
lâu đời. Tục này xuất phát từ ḷòng hiếu kính đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Tín
ngưỡng này được một số bình dân nhập làm một với Đạo Phật, Phật Giáo có nhiều
Lớp Cao học khóa 19

Trang 18


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

kinh đề cập đến vấn đề này như: Kinh Vu Lan, kinh Báo Phụ Mẫu Ân... Vào

những ngày rằm, mồng một, những gia đ nh không theo đạo Phật cũng mua hoa
quả, thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên. Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật
tục lệ bố thí và phóng sanh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng

nhân lao động. Người dân thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo
khó, hoạn nạn thể hiện đạo lý của dân tộc lá lành đùm lá rách.


Ảnh hưởng của Phật Giáo qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ

chùa: Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn, chiêm ngưỡng vẽ đẹp
thanh thoát của các pho tượng, lắng nghe tiếng chuông ngân vang, đã trở thành
một nét phong tục lâu đời "đi chùa lễ Phật" của tổ tiên. Những ngày lễ hội lớn
trong năm từ Phật Giáo như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lễ tắm Phật, thật sự đã trở
thành ngày hội văn hóa của người dân Việt. Điều này phù hợp với nét sinh hoạt
cộng đồng, một sinh hoạt truyền thống. Đặc biệt đối với đồng bào Khơ-me Nam
Bộ, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật Giáo Nam tông, có những lễ dân tộc mang
đậm nét tưởng Phật Giáo như: lễ mừng năm mới (Chol-ch-nam-thơ-mây); lễ
cúng tổ tiên (Donta); lễ cúng trăng (Okcombok) ...đã trở thành những ngày hội vô
cùng sôi nỗi và đặc sắc của đồng bào Khơ-me. Những ngày đại lễ Phật Giáo vừa
nêu trên đã là chất keo gắn bó người dân Việt, nâng cao tình yêu thương đồng loại
và nảy nở ḷòng hy sinh, tính vị tha, củng cố ḷòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ.
Ảnh hưởng đó ngày càng sâu rộng trong quân chúng nhân dân.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã
chịu nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau, nhất là từ Trung Quốc.
Trong đó Phật giáo dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không í t
cá c tậ p tụ c dân gian mà chú ng ta thấ y vẫ n cò n tồ n tạ i cho đế n ngà y nay.
3.2.3

Ảnh hưởng của Phật giáo qua các loại hình văn hóa nghệ thuật

Ảnh hưởng của Phật giáo qua ca dao thơ ca:
Tư tưởng đạo lý của Phật Giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến
trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên

răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui, phù hợp với truyền
thống đạo đức của dân tộc Việt Nam. Quan niệm đạo Phật là đạo hiếu, lời dạy
của Phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong
lòng của người dân Việt Nam, và đã thể hiện linh động và triền miên ngang

Lớp Cao học khóa 19

Trang 19


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

qua ca dao dân ca:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Triết lý Phật giáo còn ảnh hưởng rất rõ nét trong lĩnh vực thơ, văn thông các
đại thi hào dân tộc: Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều... qua các tác phẩm: Truyện
Kiều, Chinh Phụ Ngâm...



“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa”
Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu: Tính triết lý "Nhân quả báo ứng"
của Phật giáo đóng vai trò qua trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với
đạo lý phương Đông và nếp sống truyền thống của dân tộc. Nghệ thuật sân
khấu: hát bội, hát chèo ở đồng bằng Bắc Bộ và cải lương ở Nam Bộ. Do sự
ảnh hưởng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật giáo nên luôn luôn các vở tuồng ở

phần kết thức đều có hậu như: Lưu Bình Dương Lễ, Tấm Cám, Thoại Khanh
Châu Tuấn, Phạm Công Cúc Hoa,...
Ảnh hưởng của Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình: Thể hiện ở các lĩnh vực kiến
trúc, điêu khắc, hội họa qua các di tích đền, chùa, miếu, tượng Phật, tranh cảnh
vật... tiêu biểu như: chùa Hương, chùa Thiên Mụ, chùa Keo; tượng Quan Âm
nghìn mắt, nghìn tay (Chùa Hạ), bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho); Bức
tranh "Đi Lễ Chùa" của Nguyễn Siêu, "Bức Tăng" của Đỗ Quang Em.

Lớp Cao học khóa 19

Trang 20


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

Chương 4: KẾT LUẬN
Những tư tưởng triết học cao siêu, những triết lý tôn giáo lớn của Phật
giáo đã từng tỏa sáng đến nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy nghiên cứu Phật
giáo là hết sức cần thiết, Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ,
lối sống của dân tộc Việt Nam, và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc
Việt Nam. Tìm hiểu và nghiên cứu về "Một số ảnh hưởng của Phật giáo đối
với đờ i số n g tinh thầ n củ a xã hộ i Việt Nam chúng ta càng thấy rõ nhận định
trên, qua quá trình lịch sử, trải qua bao cuộc biến đổi thăng trầm của đất nước,
Phật giáo Nam tông đã khẳng định mình và có một chỗ đứng vững chắc trong
lòng của dân tộc Việt Nam, tồn tại và phát triển cùng với dân tộc. Rõ ràng Phật
giáo đã đóng góp cho dân tộc Việt Nam nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế,
chính trị, văn hóa nghệ thuật điêu khắc...tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc
Việt Nam.

Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình hội nhập vào trào lưu phát triển
của thế giới, để tiếp thu và học tập những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, để
nhanh chóng hoàn thành sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Điều đó sẽ dẫn đến sự du nhập nhiều luồng văn hóa ngoại lai có cái tốt, cái
xấu. Làm sao chúng ta có thể phân biệt và tiếp thu cái tốt và giải trừ cái xấu để
tiếp tục phát huy nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Đây là một câu hỏi lớn cho các nhà giáo dục, đạo đức, xã hội, tôn giáo, dân tộc...
và nó đã trở thành một vấn đề của quốc gia chứ không phải chỉ là chuyện cá nhân
hay riêng tư nữa. Lời giải đáp rõ ràng nhất là nếu chúng ta có một nền văn hóa
lành mạnh; đậm đà bản sắc dân tộc với những tư tưởng truyền thống tốt đẹp sẽ
giúp chúng ta nhận định, chắc lọc và cũng là liều thuốc tốt nhất giúp chúng ta
chống lại những cặn bã văn hóa ngoại nhập hoặc văn hóa mê tín phát sinh từ bản
địa. Những yếu tố tích cực của Phật Giáo là một phần ảnh hưởng văn hóa Việt
Nam sẽ cùng với văn hóa dân tộc Việt Nam làm nhiệm vụ chọn lọc và phát triển
Lớp Cao học khóa 19

Trang 21


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời điểm hiện nay là
hết sức cần thiết và cấp bách.

Lớp Cao học khóa 19

Trang 22



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật Giáo Ấn Độ,

Thành hội Phật Giáo TP.HCM ấn hành, 1989.
2.

Hòa thượng Thích Tâm Thiện, Vấn đề cơ bản của Triết học

Phật Giáo, Nhà xuất bản TP.HCM, 2000.
3.

Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình Quốc gia

các bộ môn khoa học Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 2004.
4.

Giáo trình triết học(Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu

sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nhà xuất bản lý luận chính
trị, 2007.
5.

Lý luận về tôn Giáo, NXB Hà Nội.


6.

Nguyễn Hùng Hậu, Đại Cương Triết học Phật Giáo Việt Nam,

Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 2002.
7.

Thích Nguyên Tạng, "Phật Giáo tại Việt Nam", 1996.

8.

Thượng tọa Thích Thanh Duệ- Tuệ Nhã, Tập tục và nghi lễ

dâng hương, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 2004.
9.

Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản

Giáo dục, 2001.
10.

Trương Sĩ Hùng, Mấy tín ngưỡng tôn Giáo Đông Nam Á, Nhà

xuất bản Thanh niên, 2003.
11.

Giáo trình lịch sử Triết học.

Lớp Cao học khóa 19


Trang 23


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy

MỤC LỤC

Lớp Cao học khóa 19

Trang 24



×