Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

phân tích các hình thức nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.31 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TÊ-LUẬT
KHOA LUẬT

LỚP 152HP03

BÀI TẬP NHÓM
PHÂN TÍCH CÁC HÌNH THỨC
NHÂN DÂN THỰC HIỆN QUYỀN DÂN
CHỦ TRỰC TIẾP

1


Phân tích các hình thức nhân dân thực
hiện quyền dân chủ trực tiếp.
Bài làm
 Nhà nước của ta là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân. Từ Hiến pháp
năm 1946 đến nay đều thống nhất quan điểm đó. Hiến pháp năm 2013 một
lần nữa khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân... do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và
đội ngũ trí thức”. Hiến pháp không chỉ quy định Nhân dân là chủ thể của
Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà còn quy định
phương cách Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước của mình. Điều 6
Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là các cơ quan đại diện cho ý chí
và nguyện vọng của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trước Nhân dân”. Còn Điều 6 Hiến pháp 2013 ghi: "Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông
qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà


nước". Do đó, điều 6 Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi so với điều 6 của Hiến
pháp năm 1992, quy định rõ hơn các phương cách Nhân dân sử dụng quyền
lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân mà cịn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp.
 Hình thực dân chủ trực tiếp là hình thức mà nhân dân trực tiếp tham gia
quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước
và của địa phương; trực tiếp thể hiện ý kiến khi nhà nước tổ chức trưng cầu
ý kiến nhân dân (Điều 29 Hiến pháp 2013); Nhân dân trực tiếp bầu ra các
đại biểu vào các cơ quan đại diện thay mặt cho mình thực hiện quyền lực và
có quyền bãi nhiệm khi họ khơng cịn được sự tín nhiệm của Nhân dân
(Điều 27 và Điều 7 Hiến pháp 2013).
Dân chủ trực tiếp là việc Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước.
Tức là Nhân dân thể hiện một cách trực tiếp ý chí của mình (với tư cách là
chủ thể quyền lực nhà nước) về một vấn đề nào đó mà khơng cần thơng qua
cá nhân hay tổ chức thay mặt mình và ý chí đó có ý nghĩa bắt buộc phải thi
hành. Hình thức biểu hiện cụ thể của dân chủ trực tiếp như ứng cử, bầu cử
2


Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, trưng cầu
dân ý... Các cuộc đối thoại trực tiếp của nhân dân với cơ quan Nhà nước
hiện nay cũng là hình thức biểu hiện của dân chủ trực tiếp.
Hình thức này rất hay để Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước nên nó có
ưu điểm là Nhân dân trực tiếp quyết định, phản ảnh đúng ý chí, nguyện vọng
của mình nhưng hạn chế của hình thức này là những vấn đề mà Nhân dân
trực tiếp quyết định khơng nhiều vì điều kiện khơng cho phép. Vì dân chủ
trực tiếp được mở rộng đến đâu cịn phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, trình độ dân trí, nhận thức chính trị, trình độ pháp lý của
nhân dân...của một nước. Ở nước ta do trải qua cuộc chiến tranh kéo dài và
hiện nay đang trong quá trình xây dựng quyền dân chủ trực tiếp trên thực tế

mới thực hiện mức độ nhất định. Hiến pháp năm 1946, tại Ðiều 21 có quy
định: "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan
hệ đến vận mệnh quốc gia..." và Ðiều 32 quy định: "Những việc có quan hệ
đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba số
nghị viên đồng ý...".
Sau đây là một số ưu nhược điểm của hình thức dân chủ trực tiếp:
Ưu, nhược điểm của dân chủ trực tiếp

Ưu điểm
- Nêu ra các vấn đề quan trọng với toàn thể hoặc một bộ phận dân chúng mà
Cho phép nhân dân lấy lại quyền lực của mình từ các đảng phái chính trị
Cho phép nhân dân quyết định và kiểm sốt con đường phát triển của đất
Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động quản lý nhà nước, qu
Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là của cơ qua
Buộc các nhà chính trị phải có sự cạnh tranh (uy tín, ảnh hưởng), qua đó n
Chấm dứt tình trạng khủng hoảng chính trị, tái lập chính thể dân chủ đại


Các cơ chế thực hiện dân chủ trực tiếp được các nhà kinh điển Mác Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra là:

- Nhân dân tham gia thành lập bộ máy nhà nước thông qua bầu cử và
ứng cử.
Bầu cử và ứng cử là một trong những nội dung dân chủ về chính trị quan
trọng nhất, là biểu hiện rõ nhất của dân chủ. Thông qua bầu cử và ứng cử,
nhân dân trực tiếp thành lập ra bộ máy nhà nước.
3


Theo Lênin, bầu cử theo ngun tắc phổ thơng bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu
kín là nguyên tắc tiến bộ nhất của nền dân chủ hiện đại. Qua đó, những

người lao động tự lựa chọn được những người xứng đáng thay mặt mình để
quản lý và giải quyết các cơng việc của nhà nước và xã hội. “Chỉ khi nào có
những uỷ ban do tồn dân bầu ra trên cơ sở quyền phổ thông đầu phiếu mới
là những uỷ ban dân chủ”.
Đề cao giá trị của hình thức dân chủ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
tổng tuyển cử là sự thể hiện năng lực thực hành dân chủ của nhân dân.
Người viết: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn
những người có tài, có đức để gánh vác việc nước nhà… Do tổng tuyển cử
mà toàn dân bầu ra Quốc hội; Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó
thực sự là Chính phủ của nhân dân”. Như vậy, thơng qua bầu cử, nhân dân
thực hiện quyền lực của mình, xây dựng nên một nhà nước hợp pháp theo ý
nguyện của toàn dân.
- Nhân dân biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý kiến.
Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp điển hình, một trong
những hình thức cao của việc nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội. Sự ra đời định chế trưng cầu ý dân đánh dấu mốc quan trọng trong sự
phát triển của nền dân chủ trên thế giới. Bỏ phiếu trưng cầu là việc nhân dân
bỏ phiếu thể hiện ý chí của mình đối với những vấn đề trọng đại của đất
nước. Thơng qua hình thức này, “người dân có điều kiện thể hiện quan điểm
của mình đối với một vấn đề chính trị xã hội quan trọng, được bày tỏ ý kiến
đồng ý hay không đồng ý và cơ quan nhà nước có trách nhiệm căn cứ vào đó
để ban hành quyết định tương ứng”.
- Nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
Xác định rõ mục tiêu xây dựng một chế độ dân chủ triệt để, dân chủ là “do
nhân dân tự quy định”, Lênin cho rằng, mục đích của chính quyền Xơ viết là
thu hút những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước, thực hiện một
nền dân chủ rộng rãi nhằm giải phóng con người và phát triển toàn diện con
người trong xã hội mới. Có nhiều phương thức để nhân dân tham gia quản lý
nhà nước, trong đó, việc nhân dân tham gia thảo luận và góp ý kiến xây
dựng chính sách, pháp luật của nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Thơng qua đó, nhân dân thể hiện một cách trực tiếp ý chí của mình về các
vấn đề được pháp luật điều chỉnh.

4


Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, nhà nước phải dựa vào lực lượng nhân
dân, bảo đảm phương châm “đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm
cách giải quyết”. Trong q trình chỉ đạo cơng tác xây dựng pháp luật, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ln coi trọng việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Điều
đó được minh chứng cụ thể và rõ ràng nhất khi Người chỉ đạo soạn thảo
Hiến pháp năm 1959. Ban soạn thảo Hiến pháp năm 1959 đã tổ chức hai đợt
lấy ý kiến nhân dân với thời gian 4 tháng. Người đánh giá: “Hai đợt thảo
luận dự thảo Hiến pháp trong nhân dân là những cuộc sinh hoạt chính trị rất
sơi nổi. Nhân dân đã hăng hái sử dụng quyền dân chủ của mình để xây dựng
Hiến pháp của mình”. Điều đó được thể hiện qua 10 điểm đóng góp lớn đã
được Ban sửa đổi Hiến pháp tiếp thu, chỉnh sửa.
- Nhân dân bãi miễn đại biểu dân cử.
Chế độ dân chủ sẽ khơng thể triệt để và hồn tồn nếu nhân dân chỉ bầu ra
những đại biểu của mình mà lại khơng có quyền bãi miễn các đại biểu đó khi
họ khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Quyền bãi miễn là
quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chế độ dân chủ. Lênin cho
rằng, mọi cơ quan được bầu ra… đều có thể coi là có tính chất dân chủ chân
chính và đại biểu thực sự cho ý chí của nhân dân khi nào quyền bãi miễn của
cử tri đối với người trúng cử được thừa nhận và áp dụng… Nguyên tắc cơ
bản đó… cũng phải được áp dụng đối với Quốc hội lập hiến… Từ chối
khơng áp dụng quyền bãi miễn, trì hỗn thi hành quyền đó, hạn chế nó, thì
như thế tức là phản lại dân chủ...
Khi bàn về mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính

phủ”. “Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng khơng phải là
chửi”. Người viết: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với sự
tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm sốt của nhân
dân đối với đại biểu của mình “.
- Nhân dân giám sát hoạt động của nhà nước, cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước.
Vấn đề nhân dân giám sát hoạt động của nhà nước, cơ quan nhà nước và cán
bộ công chức nhà nước xuất phát từ nguyên lý quyền lực của nhân dân là tối
thượng, là quyền lực gốc. Các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà
nước thực hiện thẩm quyền của mình là thực hiện quyền hạn do nhân dân uỷ
5


thác cho. Vì vậy, để bảo đảm rằng các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức
nhà nước thực hiện đúng quyền hạn do nhân dân uỷ thác, không lạm quyền,
khơng lộng quyền thì địi hỏi nhân dân phải giám sát việc thực hiện quyền
lực đó. Đó là lẽ đương nhiên trong mối quan hệ giữa người uỷ quyền và
người được uỷ quyền.
Xác định rõ tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu rõ: “Tôi mong rằng: từ nay các cán bộ đều biết phê bình và
tự phê bình, đều cố gắng sửa đổi lối làm việc, theo đúng đường lối của
Chính phủ và Đồn thể, hợp với lịng dân. Cán bộ cấp trên phải luôn đôn đốc
kiểm tra công việc của cán bộ cấp dưới. Nhân dân thì giúp Chính phủ và
Đồn thể kiểm tra cơng việc và hành vi của các cán bộ”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Kiểm sốt có hai cách: một cách là từ trên xuống. Tức là
người lãnh đạo kiểm sốt kết quả những cơng việc của cán bộ mình. Một
cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm
của lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt
nhất để kiểm soát các nhân viên”. Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất

chú ý đến trách nhiệm của công dân khi thực hiện kiểm tra, giám sát, Người
nhắc nhở: nhà nước bảo đảm quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng
nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nước, của nhân dân.
- Nhân dân thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao tầm quan trọng của dân chủ ở cơ sở. Để người
dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách thực sự, Người yêu cầu:
“bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân,
cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương”.
Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở thực chất là thực hiện
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”. Dân chủ ở cơ sở
là một cơ chế đặc biệt, nó bao gồm cả các hình thức dân chủ trực tiếp khác
như bầu cử và bãi miễn đại biểu cơ quan dân cử, các tổ chức, chức danh đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở cấp cơ sở; bàn bạc, thảo luận,
tham gia quyết định, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các công việc trong
đời sống cộng đồng ở cơ sở, ở cơ quan, doanh nghiệp.
Đó là các hình thức mà nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của
mình.

6


 Ngoài ra, nước ta cần phát triển mở rộng thêm các hình thức dân chủ
thể hiện tinh thần dân chủ cao trong nhân dân ngay từ bây giờ phải:
-

Xây dựng và ban hành Luật Trưng cầu ý dân:

Trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất nhưng cho đến nay
hầu như chưa được thực hiện ở Việt Nam. Với ý nghĩa quan trọng và tính

chất mới mẻ, phức tạp, khó thực hiện, địi hỏi trưng cầu ý dân phải được tiến
hành trên cơ sở văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, đó là Luật Trưng
cầu ý dân. Luật Trưng cầu ý dân phải quy định đầy đủ các vấn đề sau: nội
dung trưng cầu ý dân; quyền quyết định trưng cầu ý dân và trách nhiệm tổ
chức trưng cầu ý dân; phổ biến, tuyên truyền trưng cầu ý dân; đánh giá và sử
dụng kết quả trưng cầu ý dân. Chẳng hạn như, Các Hiến pháp 1959, 1980,
1992 và 2013 đều có đề cập đến việc trưng cầu dân ý. Tuy nhiên đến nay
chúng ta chưa tổ chức được cuộc trưng cầu dân ý nào. Để hiện thực hóa quy
định nói trên, và rút kinh nghiệm trước đây do thiếu cơ chế cụ thể nên quy
định của Hiến pháp về Trưng cầu dân ý - Một nội dung của dân chủ trực tiếp
- chưa được thực hiện. Lần này, sau khi có Hiến pháp năm 2013 Quốc hội
khóa XIII đã đưa vào chương trình xây dựng pháp luật, đã giao cho các cơ
quan chuẩn bị xây dựng dự án luật trưng cầu dân ý và dự kiến sẽ trình ra
Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp giữa năm 2015.
- Nghiên cứu và xây dựng pháp luật về phản biện xã hội:
Phản biện xã hội là một hình thức dân chủ trực tiếp có ý nghĩa quan trọng
trong tiến trình mở rộng và phát triển dân chủ. Mục đích của phản biện xã
hội là bảo đảm

lợi ích hài hồ của các thành viên trong xã hội, kể cả của Nhà nước, các tổ
chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế và mọi công dân. Để phản biện xã hội
sớm được tiến hành như một hình thức dân chủ trực tiếp hiệu quả trong đời
sống xã hội, địi hỏi phải nhanh chóng nghiên cứu và ban hành pháp luật về
vấn đề này. Trong đó, các vấn đề như cơ chế, trình tự phản biện xã hội, vai
trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong phản biện xã hội phải được
quy định cụ thể, rõ ràng.
7


- Nghiên cứu và xây dựng pháp luật về biểu tình.

Thơng thường, biểu tình được xem là một sự thể hiện cơng khai ý chí của
người dân về những vấn đề của đời sống xã hội. Về tính chất, biểu tình có
thể là sự ủng hộ hoặc phản kháng đối với một chủ trương, chính sách, sự
kiện hay một quyết định nào đó. Chủ trương, chính sách, sự kiện, quyết định
đó khơng chỉ là của nội bộ quốc gia mà cịn có thể là của quốc gia khác. Về
hình thức, biểu tình có 2 hình thức: biểu tình ơn hịa và biểu tình bạo động.
Về nguyên tắc, người dân được quyền biểu tình theo quy định của pháp luật,
cảnh sát hay lực lượng an ninh chỉ can thiệp khi xảy ra bạo động, hay có
hành vi đập phá, xâm phạm đến tài sản nhà nước, tài sản của tổ chức, của
cơng dân, xâm phạm trật tự an tồn xã hội. Trong xu hướng mở rộng và phát
triển dân chủ hiện nay, cần sớm triển khai soạn thảo và ban hành Luật Biểu
tình, tạo cơ sở pháp lý cho nhân dân thực hiện quyền tự do hiến định của
mình.
Giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam khơng có
bề dày truyền thống về thực thi dân chủ nói chung, dân chủ trực tiếp nói
riêng. Ngun nhân chính là nền lập hiến - nền tảng cho các cơ chế dân chủ
hiện đại - của Việt Nam rất non trẻ (mới chỉ bắt đầu từ năm 1946). Thêm
vào đó, chiến tranh khốc liệt kéo dài và những đặc thù về tổ chức nhà nước
cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức, thực thi hiệu quả các hình
thức dân chủ.
Về mặt pháp lý, bên cạnh việc khẳng định thiết chế dân chủ đại diện,
các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 của Việt Nam đều đã quy
định một số hình thức dân chủ trực tiếp, cụ thể như sau:

8


Dân chủ trực tiếp trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013
Trưng cầu ý dân
Sáng

Sáng kiến Bãi miễn đại
kiến
chương
biểu dân cử
cơng dân trình nghị
sự
Hiến Điều 32 (quyền
Điều 20 (người
phá
phúc quyết các vấn
có thể bị đề nghị
p
đề quan trọng với
bãi miễn gồm:
1946 vận mệnh quốc gia
nghị sĩ (Điều 41),
do Nghị viện tổ
thành
viên
chức).
HĐND và UBHC
Điều 70 (c) (quyền
các cấp (Điều
phúc quyết những
61))
thay
đổi
hiến
pháp).
Hiến Điều 53 khoản 1

Điều 5 (người có
phá
(quyền bỏ phiếu
thể bị đề nghị bãi
p
trong các cuộc
miễn gồm đại
1959 trưng cầu ý dân do
biểu Quốc hội và
Ủy ban thường vụ
HĐND các cấp)
Quốc hội tổ chức)
Hiến Điều 100 khoản 6 Điều 56 (Quyền tham Điều 7 (người có
phá
(quyền bỏ phiếu gia quản lý công việc thể bị đề nghị bãi
p
trong các cuộc của nhà nước và của xã miễn gồm đại
1980 trưng cầu ý dân do hội)
biểu Quốc hội và
Hội đồng Nhà
HĐND các cấp)
nước tổ chức)
Hiến Điều 53 (quyền bỏ Điều 53 (Quyền tham Điều 7 (người có
phá
phiếu trong các gia quản lý nhà nước và thể bị đề nghị bãi
p
cuộc trưng cầu ý xã hội, tham gia thảo miễn gồm đại
1992 dân do Quốc hội luận các vấn đề chung biểu Quốc hội và
quyết định (khoản của cả nước và địa HĐND các cấp)
14 Điều 84)

phương, kiến nghị với
cơ quan nhà nước)

9


Hiến
phá
p
2013

Điều 29 (quyền
biểu quyết trong
các cuộc trưng cầu
ý dân do Quốc hội
quyết định (khoản
15 Điều 70).
Điều 120 khoản 3
(quyền cho ý kiến
về dự thảo của Ủy
ban dự thảo Hiến
pháp).

Điều 28 (Quyền tham
gia quản lý nhà nước và
xã hội, tham gia thảo
luận và kiến nghị với
cơ quan nhà nước về
các vấn đề của cơ sở,
địa phương và cả

nước).

Điều 7 (người có
thể bị đề nghị bãi
miễn gồm đại
biểu Quốc hội và
HĐND các cấp).

Bảng trên cho thấy, trong khi trưng cầu ý dân và bãi miễn đại biểu dân cử
được quy định trong tất cả các bản hiến pháp thì hai hình thức dân chủ trực
tiếp khác là sáng kiến công dân và sáng kiến chương trình nghị sự chỉ mới
được đề cập trong các hiến pháp sau này. Tuy nhiên, quy định về tất cả các
hình thức dân chủ trực tiếp trong những bản hiến pháp nêu trên của Việt
Nam đều chưa hồn thiện. Cụ thể, với hình thức bãi miễn đại biểu dân cử, cử
tri mới chỉ có quyền đề xuất chứ chưa có quyền bỏ phiếu như ở nhiều nước.
Thêm vào đó, ngoại trừ Hiến pháp 1946 quy định đối tượng bị bãi miễn bao
gồm cả các quan chức hành chính (UBHC các cấp), các hiến pháp sau chỉ
giới hạn đối tượng bãi miễn là đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp (hẹp hơn
so với nhiều quốc gia). Đối với hình thức trưng cầu ý dân, ngoại trừ Hiến
pháp 1946 (quy định rõ việc sửa đổi hiến pháp nhất thiết phải được đưa ra
tồn dân phúc quyết, cịn những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia thì
nghị viện sẽ đưa ra phúc quyết nếu có ít nhất hai phần ba tổng số nghị viên
tán thành) và Hiến pháp 2013 (quy định trách nhiệm của Ủy ban dự thảo
Hiến pháp phải tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến
pháp), các hiến pháp khác đều không quy định cụ thể những việc cần đưa ra
để nhân dân biểu quyết, cũng như những quy trình, thủ tục trong vấn đề này.
Riêng với hai hình thức sáng kiến cơng dân và sáng kiến chương trình nghị
sự, những điều khoản liên quan trong các hiến pháp trên mới chỉ ở mức độ là
cơ sở, nguyên tắc nền tảng. Tất cả những vấn đề như quyền đề xuất và bỏ
phiếu, phạm vi các vấn đề và thủ tục đề xuất, bỏ phiếu… đều chưa được quy

định cụ thể.
Xét trên phương diện lập pháp, trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ
trước tới nay cũng chưa có văn bản pháp luật nào được xây dựng riêng để cụ
thể hóa các hình thức dân chủ trực tiếp, kể cả hai hình thức phổ biến là trưng
cầu ý dân và bãi miễn đại biểu dân cử. Sự bất cập của hệ thống pháp luật là
10


nguyên nhân khiến cho tất cả các hình thức dân chủ trực tiếp cho đến nay
vẫn chưa được thực hiện đầy đủ ở Việt Nam. Đây cũng là lý do khiến Việt
Nam có vị trí rất thấp trong số 214 quốc gia và vùng lãnh thổ có tên trong
bảng xếp hạng của IDEA về thực hiện dân chủ trực tiếp. Mức độ thực thi
dân chủ trực tiếp của Việt Nam cũng ở mức thấp trong khu vực châu Á
(đứng thứ 22/32 nước được khảo sát).
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã mở ra triển vọng cho việc thúc đẩy
dân chủ trực tiếp ở Việt Nam trong những năm tới. Cùng với việc tái khẳng
định các quy định về trưng cầu ý dân, bãi miễn đại biểu dân cử và quyền
tham gia quản lý nhà nước, xã hội của người dân như đã nêu trong các Hiến
pháp 1980, 1992, Hiến pháp 2013 lần đầu tiên quy định cụ thể rằng, nhân
dân có hai phương thức thực hiện quyền lực nhà nước là bằng dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện (Điều 6). Thêm vào đó, nó cũng tái quy định quyền
cho ý kiến về dự thảo hiến pháp của nhân dân (Điều 120 khoản 3) mà đã
từng được ghi nhận trong Hiến pháp 1946, đồng thời ấn định trách nhiệm
của Nhà nước phải: “…tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước
và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận,phản hồi ý kiến, kiến
nghị của công dân” (Điều 28). Những quy định mới này cho thấy ý định của
các nhà lập hiến là củng cố nền tảng hiến định về dân chủ trực tiếp ở nước
ta, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về hồn thiện khn khổ pháp luật
để thực thi các quy định đó trong thực tế.
 Tóm lại, dân chủ trực tiếp là cách thức nguyên thủy, đích

thực để bảo đảm quyền lực và vị thế của nhân dân với tư cách là người
làm chủ nhà nước và xã hội.

…………………………

11


DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN
HỌ VÀ TÊN
1. Lê Tú Uyên
2. Sầm Thị Hồng
3. Nguyễn Thị Lành
4. Mai Thị Vân Lam
5. Dương Văn Hùng
6. Nguyễn Thị Thu Thúy
7.Trần Thị Kim Chi

MSSV
k155031430
k155031367
k155031373
k155031372
k155031550
k155031419
k155031350

12




×