Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TÌNH HÌNH đổi mới GIÁO dục mầm NON tại VIỆT NAM QUA các GIAI đoạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.86 KB, 22 trang )

TÌNH HÌNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC MẦM NON TẠI VIỆT NAM QUA
CÁC GIAI ĐOẠN
Có một điều hết sức thú vị là sau khi giành được độc lập từ tay thực
dân, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trước khi ban
hành sắc lệnh về việc thành lập ngành học sư phạm thì ngày 10
tháng 8 năm 1946 lịch sử đã chứng kiến sự ra đời của giáo dục
mầm non bằng sắc lệnh số 146/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sắc
lệnh đã nêu lên những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục mới,
trong đó ghi rõ: “bậc học ấu trĩ nhận giáo dục trẻ em dưới 7 tuổi và
tổ chức theo điều kiện của Bộ Quốc gia giáo dục ấn định sau”. Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã
ghi: “Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho những người mẹ của trẻ em,
đảm bảo phát triển các nhà đỡ đẻ, các nhà trẻ và vườn trẻ”. Từ đó,
khi chuẩn bị chương trình cải cách giáo dục lần thứ I, Bộ cũng đã
xác định: “Bậc học ấu trĩ đảm nhận việc giáo dục tổ chức hay kiểm
soát”. Từ đó, ngày 10 tháng 8 hàng năm đã trở thành ngày kỷ niệm
thành lập giáo dục mầm non của ta.
Quá trình hoạt động và trưởng thành của giáo dục mầm non 60
năm qua đã phấn đấu theo lòng mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nước ta. Giáo dục mầm non đã gắn bó với
sự phát triển của đất nước, trải qua các thời kỳ kháng chiến, kiến
quốc và cùng vượt qua nhiều khó khăn, thử thách.
Cùng với Ban Giáo dục ấu trĩ được thành lập ngày 15/12/1945,
trường mẫu giáo Tây Hồ ngoại thành Hà Nội chỉ có 20 cháu do các
nhân sĩ tổ chức được coi là trường đầu tiên của giáo dục mầm non
sau cách mạng thánh 8. Tiếp theo là các trường mẩu giáo Bách
Thảo làng Ngọc Hà, các trường thuộc liên khu IV cũ…; cuộc khách
chiến chống Pháp rộng mở, ngày càng ác liệt cũng là giai đoạn giáo
dục mầm non dần dần phát triển trong gian khó ở nhiều nơi thời kỳ
1946 – 1954. Tuy còn sơ khai và nhiều bỡ ngỡ nhưng ở Việt Bắc,
Trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Liên khu IV…đều có các lớp ấu trĩ viên,


lớp vỡ lòng, các nhà trẻ, nhiều nơi còn mở Dục Anh viện, Cô nhi viện
để nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh và gia đình quân nhân không
nơi nương tựa. Ngay trong vùng chiến khu kháng chiến rất khốc
1


liệt, trại trẻ Phja Khao – Bắc Kạn (Kheo Khao), trại Nhi đồng miền
Bắc được thành lập; các khóa huấn luyện học viên mẫu giáo, ấu trĩ
cũng được đẩy mạnh. Tới cuối năm 1948 đã có 200 cô mẫu giáo,
mở trên 300 lớp ấu trĩ thu hút hàng chục nghìn cháu đến lớp. Ngày
02/01/1949 Bộ Quốc gia giáo dục đã tổ chức hội nghị mẩu giáo
toàn quốc đầu tiên trong lịch sử mầm non nước ta tại thôn Ngòi, xã
Mỹ Lâm, huyện Yên Sơn, Tuyên Quang. Hội nghị đã định rõ hơn mục
đích, phương châm, phương pháp giáo dục mẫu giáo, những quan
điểm về giáo dục trẻ thơ tại hội nghị này đến ngày nay vẫn còn giữ
nguyên giá trị cơ bản. Cùng với tháng lợi của cuộc kháng chiến anh
dũng chống Pháp của dân tộc, giáo dục mầm non trong giai đoạn
này đã từng bước vược qua bỡ ngỡ ban đầu, trưởng thành trong
khó khăn, khẳng định tính đúng đắn của đường lối và giá trị thực
tiễn của nó trong sản xuất, chiến đấu.
Khi hòa bình lập lại, Miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế,
cải tạo xã hội chủ nghĩa. Lúc bấy giờ khởi xướng phong trào giáo
dục mầm non chính là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Liên hiệp
phụ nữ đã chủ động phối hợp với ngành giáo dục tích cực gây dựng
và phát triển bậc học dành cho trẻ nhõ với mục đích là bảo vệ trẻ
thơ cùng các bà mẹ. Các trại nhi đồng miền Bắc và trẻ Phja Khao
được chuyển về Hà Nội và mở thêm trại trẻ nhi đồng miền nam ở
Thái Hòa ấp; cùng với thành lập Phòng mẫu giáo tại Bộ giáo dục,
phong trào mẫu giáo trên miền Bắc đã có bước phát triển. Cuối
năm 1964, đã tổ chức 4.944 lớp mẫu giáo, 5.682 giáo viên, với

149.000 trẻ đến lớp trên khắp miền Bắc.
Thời kỳ chống Mỹ cứu nước 1965 – 1975, để đáp ứng yêu cầu
kháng chiến và công tác chỉ đạo ngành học, ngày 19/1/1966 Chính
phủ đã ra Nghị định về nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy Giáo
dục, trong đó quy định thành lập Vụ Mẫu giáo là một trong 4 ngành
học thuộc Bộ Giáo dục, giáo dục mẫu giáo và bảo vệ trẻ thơ lúc bấy
giờ đã trở thành một ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bắt đầu ác liệt, Thũ
tướng chính phủ đã ra chỉ thị số 153/CP ngày 12/8/1966 nêu rõ:
“Ngày nay công tác nhà trẻ, mẫu giáo ngày càng được coi trọng đễ
bảo vệ tính mạng và sức khỏe của các cháu, tạo điều kiện thuận lợi
2


cho phụ nữ đảm đương nhiệm vụ ngày càng nặng cho sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước”. Thực hiện việc chỉ thị của Thũ tướng chính
phủ, các lớp mẫu giáo, nhà nhóm trẻ đã phân tán nhỏ lẻ, tránh xa
các mục tiêu đánh phá của định. Phần lớn lớp học các cháu nằm sâu
trong lòng đất hoặc trong các hầm chữ A rất lớn, vừa là nơi trú ẩn
vừa là nơi các cô giáo tổ chức dạy học và che chở an toàn cho các
cháu khi cha mẹ xa nhà. Tuy rất khó khăn nhưng cuối năm 1974 –
1975 đã có hơn 33.000 nhà nhóm trẻ, 550.000 cháu; 32.6000 lớp
học mẫu giáo với 1,2 triệu cháu đến lớp. Đó là thời kỳ xây dựng cà
trưởng thành trong điều kiện xây dựng Chủ nghĩa Xã Hội ở Miền
Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Giáo dục mầm
non phát triển không những thể hiện tính ưu việt của miền bắc Xã
Hội chủ nghĩa mà là nhu cầu phục vụ sản xuất , đời sống, làm yên
lòng người ở, người đi vì cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Khi hòa bình lập lại, Miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh
tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Lúc bấy giờ khởi xướng phong trào

giáo dục mầm non chính là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Liên
hiệp phụ nữ đã chủ động phối hợp với ngành giáo dục tích cực gây
dựng và phát triển bậc học dành cho trẻ nhõ với mục đích là bảo vệ
trẻ thơ cùng các bà mẹ. Các trại nhi đồng miền Bắc và trẻ Phja
Khao được chuyển về Hà Nội và mở thêm trại trẻ nhi đồng miền
nam ở Thái Hòa ấp; cùng với thành lập Phòng mẫu giáo tại Bộ giáo
dục, phong trào mẫu giáo trên miền Bắc đã có bước phát triển. Cuối
năm 1964, đã tổ chức 4.944 lớp mẫu giáo, 5.682 giáo viên, với
149.000 trẻ đến lớp trên khắp miền Bắc.
Thời kỳ chống Mỹ cứu nước 1965 – 1975, để đáp ứng yêu cầu
kháng chiến và công tác chỉ đạo ngành học, ngày 19/1/1966 Chính
phủ đã ra Nghị định về nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy Giáo
dục, trong đó quy định thành lập Vụ Mẫu giáo là một trong 4 ngành
học thuộc Bộ Giáo dục, giáo dục mẫu giáo và bảo vệ trẻ thơ lúc bấy
giờ đã trở thành một ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bắt đầu ác liệt, Thũ
tướng chính phủ đã ra chỉ thị số 153/CP ngày 12/8/1966 nêu rõ:
“Ngày nay công tác nhà trẻ, mẫu giáo ngày càng được coi trọng đễ
bảo vệ tính mạng và sức khỏe của các cháu, tạo điều kiện thuận lợi
3


cho phụ nữ đảm đương nhiệm vụ ngày càng nặng cho sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước”. Thực hiện việc chỉ thị của Thũ tướng chính
phủ, các lớp mẫu giáo, nhà nhóm trẻ đã phân tán nhỏ lẻ, tránh xa
các mục tiêu đánh phá của định. Phần lớn lớp học các cháu nằm sâu
trong lòng đất hoặc trong các hầm chữ A rất lớn, vừa là nơi trú ẩn
vừa là nơi các cô giáo tổ chức dạy học và che chở an toàn cho các
cháu khi cha mẹ xa nhà. Tuy rất khó khăn nhưng cuối năm 1974 –
1975 đã có hơn 33.000 nhà nhóm trẻ, 550.000 cháu; 32.6000 lớp

học mẫu giáo với 1,2 triệu cháu đến lớp. Đó là thời kỳ xây dựng cà
trưởng thành trong điều kiện xây dựng Chủ nghĩa Xã Hội ở Miền
Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Giáo dục mầm
non phát triển không những thể hiện tính ưu việt của miền bắc Xã
Hội chủ nghĩa mà là nhu cầu phục vụ sản xuất , đời sống, làm yên
lòng người ở, người đi vì cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Sau năm 1975, hòa nhịp với không khí chiến thắng chung của cả
dân tộc, các nhà trẻ, trường mẫu giáo được xây dựng và phát triển
mạnh trên cả nước Việt Nam thống nhất. Cùng với việc chỉ đạo về
quy mô, chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ đã được chú trọng hơn.
Đây là thời kỳ mở đầu cho việc phát triển công tác nghiên cứu, công
tác đào tạo phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm phát triển của giáo dục
mầm non.
Công tác nghiên cứu khoa học nuôi dạy trẻ được đặt ra ngay từ khi
thành lập ủy Ban bảo vệ bà mẹ trẻ em (1971) nhưng được đẩy
mạnh vào thời gian này; bao gồm các nghiên cứu khởi đầu về khoa
học chăm sóc giáo dục trẻ trên các mặt tâm sinh lý, chăm sóc nuôi
dưỡng, phát triển ngôn ngữ, xây dựng chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ với các nội dung, phương pháp và cơ sở vật chất phù hợp
phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi phát triển của trẻ. Những nghiên
cứu cải cách mẫu giáo từ năm 1978 – 1986 được mở rộng tới cả
lĩnh vực sức khỏe, dinh dưỡng và gắn kết với thực nghiệm trên trẻ.
Cho đến ngày nay, Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Chương
trình giáo dục với đội ngũ và lĩnh vực nghiên cứu của mình, đang
đóng góp vai trò lớn hơn cho phát triển giáo dục mầm non giai
đoạn đã qua cũng như thời gian sắp tới.
4


Với việc thành lập và hoạt động tích cực của các trường Trung học

nuôi dạy trẻ, trường sư phạm mẫu giáo Trung ương của 3 miền từ
năm 1972, tiền thân của các trường Cao đẳng sư phạm nhà trẻ mẫu
giáo hiện nay, đã hỗ trợ đắc lực cho công tác xây dựng đội ngũ. Các
trường sư phạm nhà trẻ, mẫu giáo trung ương kết hợp với hệ
thống các trường sơ cấp thuộc các tỉnh, thành phố, hằng năm đã
đào tạo hàng ngàn giáo sinh trung cấp, 5.000 – 6.000 sơ cấp và
30.000 – 50.000 giáo viên được bồi dưỡng những kiến thức chăm
sóc, giáo dục trẻ ngày càng cập nhật để cung cấp cho hệ thống giáo
dục mầm non cả nước.
Nhiều phong trào về 4 nguồn thu, về 3 mục tiêu trong tổ chức ăn
cho trẻ, về thực hiện chương trình cải tiến trong các nhà trẻ, lớp
mẫu giáo được phát động và duy trì có kết quả. Các hợp tác xã, cấp
ủy Đảng và chính quyền các cấp, Hội Phụ nữ, bản thân giáo viên và
nhân dân trong thiếu thốn vẫn đều hết sức ủng hộ trường, lớp mầm
non. Kết hợp với những ưu tiên các chế độ nhu yếu phẩm (đường,
sữa, dầu thực vật) để phực hồi sức khỏe về tiếp nhận viện trợ sau
chiến tranh, đã tạo nên sức thu hút trẻ đến trường, đến lớp thời kỳ
này. Những cố gắng trên cùng với nỗ lực của công tác chỉ đạo phát
triển nhà trẻ mẫu giáo trên cả nước, đến cuối năm 1986, tuy chưa
bao phủ hết trên toàn quốc nhưng trong hệ thống đã có 40.579 nhà,
nhóm trẻ, 57.204 lớp mẫu giáo; trên 153.000 giáo viên; 2.782.178
cháu đến lớp.
Tuy có nhiều thành tựu trong thời kỳ này về tỉ lệ huy động trẻ và
bước đầu phát triển chế độ chính sách, nhưng sự phát triển dựa
trên quyết tâm và ý chí, bao cấp một thời, không mang sức sống tự
thân, chứa đựng nhiều yếu tố bấp bênh. Khi Nhà nước xóa bỏ cơ
chế bao cấp, giáo dục mầm non đã đứng trước nhiều thử thách lớn.
Trong 5 năm cuối những năm 1980 của thế kỷ trước, hệ thống nhà
trẻ, mẫu giáo tan rã hàng mảng, giảm hẳn gần 1 nửa số trẻ nhà trẻ,
hơn 1/3 số trẻ mẫu giáo. Mức giảm bình quân năm là 34.949 cháu.

Trường, lớp, cơ sở vật chất tiêu điều, một số tỉnh không còn nhà trẻ,
mẫu giáo. Giáo dục mầm non lâm vào tình thế bị động, chống đỡ.
Nhưng cũng hai mươi năm đổi mới, từ 1987 đến nay, được sự quan
5


tâm của Đảng, giáo dục mầm non đã từng bước vượt lên trên thử
thách, thể hiện một bản lĩnh phi thường để tồn tại, xây dựng và
phát triển.
Sự vượt lên trước hết trong tư duy mới về giáo dục mầm non: Đó là
giáo dục mầm non phải thống nhất về công tác chăm sóc, giáo dục
và phù hợp với cơ chế mới: cơ chế thị trường.
Thực hiện tư duy này, tiếp theo là sự thống nhất về mặt tổ chức từ
trung ương đến cơ sở đã tạo ra một sức sống mới: Các trường mầm
non – hợp nhất 2 độ tuổi nhà trẻ, mẫu giáo ra đời, bổ sung cho sự
phát triển biệt lập tồn tại đã nhiều năm. Sự cố gắng tìm kiếm và
chuyển hướng trong cơ chế mới đã dẫn tới đổi mới trong công tác
quản lý, chỉ đạo, hình thành một chủ trương phát triển đúng đắn:
Phát triển đa dạng các loại hình giáo dục mầm non, giữ vững số
nhà trẻ hiện có, chỉ phát triển mẫu giáo nơi có nhu cầu và điều kiện,
ưu tiên phát triển mẫu giáo 5 tuổi. Chủ trương sáng suốt đó như
một ngọn đèn diệu kỳ soi rọi, từ vùng nông thôn đến thành thị, từ
miền núi xa xôi đốn hải đảo, cách làm mới về giáo dục mầm non đã
dần dần đẩy lùi được sự giảm sút về số lượng, đến cuối thập kỷ 90
đã có sự tăng trưởng, chất lượng chăm sóc giáo dục chuyển biến
theo chiều hướng tốt, tìm ra và phát huy được những nhân tố tích
cực trong tổ chức chỉ đạo, quản lý phát triển giáo dục mầm non.
Đặc biệt với chủ trương phát triển đa dạng các loại hình giáo dục
mầm non, đã tạo ra các mô hình mới bước đầu thích ứng với cơ chế
thị trường để phát triển: đó là các mô hình mầm non Tam Cường,

Hải Phòng: mô hình các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo gia đình ở các tỉnh,
thành phố như: Đà Nẵng, Quảng Nam, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế,
TP. Hồ Chí Minh…; lớp mẫu giáo trong các nhà thờ tại Hà Nội, Đăc
Lăk, TP. Hồ Chí Minh… từ đây các loại hình trường bán công, dân
lập, tư thục với những quy mô khác nhau hình thành và phát triển
bên cạnh các trường công lập. Các mô hình này đã góp thêm cơ sở
thực tiển để Đảng và Nhà nước ta phát triển lý luận Xã hội hóa giáo
dục, và lĩng vực sự nghiệp khác. Việc khuyến khích xã hội hóa đã
thu hút được một bộ phận nhân dân và cộng đồng bỏ vốn lớn để
đầu tư xây dựng trường mầm non. Gần đây, một số trường tư thục
đã đạt chuẩn quốc gia. Đặc biệt, có địa phương đã phát triển mầm
6


non tư thục với tỉ lệ hơn 40% tổng số trường mầm non của tỉnh.
Phổ biến kiến thức đến các gia đình được xem là một hình thức rất
quan trọng của giáo dục mầm non. Một số địa bàn ở miền núi, vùng
sâu đã có giáo viên, cán bộ phụ nữ và y tế thôn bản đến các gia đình
để phổ biến kiến thức.
Việc chủ động xây dựng các chiến lược phát triển giáo dục mầm
non qua các giai đoạn 1991 – 2000, 2001 – 2010, xây dựng các dự
án, chương trình kế hoạch giáo dục mầm non trong chiến lược phát
triển giáo dục thể hiện một bước tiến mới trong công tác quản lý,
chỉ đạo phát triển giáo dục mầm non. Chiến lược phát triển giáo
dục giai đoạn 2001 – 2010, được Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt với các mục tiêu giáo dục mầm non là: “Nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn
diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; mở rộng hệ thống nhà
trẻ và trường mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt nông
thông và những vùng khó khăn, tăng cường cá hoạt động phổ biến

kiến thức và tư vấn nuôi dạy trẻ cho các gia đình”. Như vậy là lần
đầu tiên trong những năm đổi mới , mục tiêu phát triển nhà trẻ
mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, vùng nông thôn và vùng khó
khăn được khẳng định, hơn nữa từng bước nhận ra việc tập trung
nguồn lực nhà nước cho các vùng khó khăn được xem là nhu cầu
chính đáng, bức thiết.
Thông qua việc xây dựng và tìm kiếm giải pháp thực hiện này, kể từ
năm 1990, giáo dục mầm non được nhìn nhận, hoạch định trong
một giai đoạn đáng kể 1 cách có căn cứ, hình thành tư duy phối hợp
giữa các Bộ, ngành, giữa các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền và
đặc biệt là phát huy vai trò của nhân dân tự mình vượt qua tư duy
bao cấp, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho giáo dục mầm non.
Quá trình phát triển giáo dục mầm non hai mươi năm cũng là quá
trình đổi mới lấy chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ làm yếu tố hàng
đầu trong phát triển giáo dục mầm non. Đó là quá trình liên tục chỉ
đạo thực hiện các chuyên đề về Lễ giáo, chuyên đề tổ chứ hoạt động
âm nhạc, chuyên đề vệ sinh, dinh dưỡng và an toàn thực phẩm,
chuyên đề tạo hình, chuyên đề làm quen với chữ cái, với văn học…,
7


có thể nói rằng mỗi một chuyên đề là một giai đoạn nỗ lực chỉ đạo
trọng tâm về một lĩnh vực chuyên môn; chuyên đề luôn thu hút sự
cố gắng của tập thể giáo viên, cán bộ quản lý, của bản thân trẻ em,
sự quan tâm của các cấp chính quyền, thu hút nguồn lực và sự giúp
đỡ các đoàn thể và các bậc cha mẹ để không ngừng nâng cao chất
lượng chuyên môn cho trẻ. Đó là quá trình từng bước đổi mới hình
thức tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ trong các lớp mẫu giáo ở các
độ tuổi khác nhau, nhằm tạo tiền đề cần thiết cho việc nghiên cứu
đổi mới chương trình. Nội dung và phương pháp chăm sóc, giáo

dục trẻ theo hướng hiện đại, tích cực hóa cá nhân trẻ nhằm giúp trẻ
phát triển trên các lĩnh vực: Thể lực, ngôn ngữ, nhận thức, tình
cảm, xã hội trong một không gian gần gữi, sống động với trẻ em. Đó
là quá trình mở rộng sự hợp tác lâu dài, sâu rộng với các tổ chức:
UNICEF, UNESCO và các tổ chức phi chính phủ trong việc hỗ trợ địa
phương xây dựng cơ sở vật chất, trường, lớp, trang thiết bị và hỗ
trợ nâng cao kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ giáo viên; đặc biệt tại
các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Là quá
trình giáo dục mầm non Việt Nam học hỏi, trao đổi chuyên gia, trao
đổi kinh nghiệm, cập nhật những lý thuyết và kiến thức mới của các
nền giáo dục khác nhau, từng bước chủ động trong hội nhập quốc
tế.
Cũng từ khi chuyển đổi cơ chế sang vận hành theo nền kinh tế thị
trường, chúng ta đã làm rõ hơn chính sách phát triển giáo dục
mầm non, chế độ chính sách cho giáo viên mầm non, đặc biệt chế
độ, chính sách đối với giáo viên mầm non ngoài công lập được đặt
ra một cách nghiêm túc nhất. Trong giao thời chuyển đổi và bước
đầu thực hiện theo cơ chế mới, những chậm trễ về chính sách xã
hội, chế độ chính sách đồi với giáo viên mầm non trong một thời
gian dài là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự xuống cấp của giáo
dục mầm non. Đảng, nhà nước đã kịp thời chuyển huớng cho xây
dựng và thực hiện các chế độ, chính sách đối với giáo viên, đặc biệt
là giáo viên ngoài công lập. Do đó, chính sách tuyển dụng, bố trí, đãi
ngộ ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho việc phát triển đội
ngũ. Sau khi có Quyết định số 161/2002/QĐ-TTG của Thủ tường
Chính Phủ, chế độ chính sách đối với giáo viên ngoài biên chế đã có
bước tiến lớn. Thu nhập và mức sống của giáo viên được cải thiện ở
8



nhiều tỉnh, thành phố: trên 9.930 giáo viên được ký kết hơn hợp
đồng lao động với thu nhập bình quân từ 290.000 – 350.000 đồng /
tháng. Trên 70% giáo viên ngoài biên chế được tham gia BHXH,
BHYT ở mức độ khác nhau.
Đã có nhiều tấm gương giáo viên tiêu biểu vượt lên khó khăn của
hoàn cảnh, đời sống, tận tình chăm sóc giáo dục các cháu trong
từng bản làng, các vùng miền, nhiều báo cáo điển hình được cả
nước biết đến tại các hội nghị truyền thống của ngành. Lịch sử vinh
danh các chị, các anh thuộc các thế hệ đã không tiếc tuổi xanh và
sức lực của mình đặt nền móng xây dựng và phát triển giáo dục
mầm non. Nhân dân ở các vùng mãi ghi nhớ tên tuổi của những cán
bộ, giáo viên mầm non vượt qua các nỗi niềm riêng tư, không quản
những thiệt thòi của cuộc sống cá nhân. Lăn lộn quên mình vì tồn
tại, lớn mạnh của phong trào giáo dục mầm non. Sự nỗ lực của toàn
thể cán bộ, giáo viên trong duy trì, phát triển, và chăm sóc giáo dục
các cháu qua các giai đoạn lịch sử đã khẳng định rõ vai trò của giáo
dục mầm non, làm cho cán bộ và nhân dân thấy rõ rằng giáo dục
mầm non không đơn thuần là nơi trông giữa trẻ, mà là môi trường
để cho trẻ em phát triển toàn diện về mọi mặt, là nơi dung dưỡng
cơ hội phát triển nhanh nhất đầu tiên của cuộc đời, là cơ sở đầu
tiền hình thành nhân cách và phát triển nguồn lực con người, thực
sự là một nhu cầu dân trí trong 20 năm đổi mới. Sự nỗ lực đó đã
đưa giáo dục mầm non đến một kết quả làm nức lòng người . Mạng
lưới trường, lớp phát triển tương đối rộng khắp và chất lượng
được nâng cao. Cuối tháng 6/2006 hầu hết các tỉnh, thành phố đã
có đề án quy hoạch phát triển giáo dục mầm non đến năm 2010
được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phê duyệt để thực hiện. Nỗ
lực đó cuối năm 2004 không những đã xóa hoàn toàn 218 xã trắng
về giáo dục mầm non mà còn làm tăng thêm 5.625 lớp, tạo điều
kiện thêm cho 166.755 cháu ở vùng đặc biệt khó khăn được đến lớp.

Đến cuối năm 2005 – 2006, giáo dục mầm non thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân đã có 11.009 trường mầm non với 129.508 lớp,
160.172 giáo viên với 2.879.054 trẻ em, chiếm 18% số cháu trong
độ tuổi nhà trẻ và 67% số cháu mẫu giáo ra lớp: Trên 94% trẻ 5
tuổi được đến lớp. Trong hệ thống đó, có gần 800 trường mầm non
9


được công nhận đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 - 2005. Trẻ em
đến trường, các chỉ tiêu về thể lực, về nhận thức đều vượt trội so
với cháu chưa có cơ hội đến trường, tỉ lệ sẻ suy dinh dưỡng năm
2004 – 2005 giảm xuống dưới 13%.
Cơ sở pháp lý để giáo dục mầm non phát triển trong thời gian và
sắp tới là: Tư tưởng phát triển giáo dục mầm non được ghi trong
các văn kiện Đại hội Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, các luật Giáo
dục, Luật Bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em; Chỉ thị 18/2002/CTTTG của Thủ Tướng Chính phủ về một số biện pháp cấp bách xây
dựng động ngũ nhà giáo của hệ thống giáo dục quốc dân, rồi Quyết
định số 161/2002/QĐ-TTG về một số chính sách phát triển giáo dục
mầm non, đặc biệt gần đây nhất Chính phủ đã dành hẳn một phiên
họp chính phủ để bàn về chiến lược phát triển giáo dục mầm non và
đến ngày 23/6/2006 Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định số
149/2006/QĐ-TTG phê duyệt đề án phát triển giáo dục mầm non
giai đoạn 2006 – 2015; Những văn bản này đã ra đời cùng thời với
việc Đảng và Nhà nước ta chú trọng đến việc xây dựng nhà nước
pháp quyền thể hiện sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo Đảng và
Nhà nước, tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục mầm non một
cách có hệ thống, lâu dài và bền vững.
Trước thời điểm lịch sử và vận hội mới của đất nước khi chuẩn bị
gia nhập WTO, Giáo dục mầm non trong những năm tới sẽ phấn
đấu để đạt được các mục tiêu mà Đảng và nhà nước giao cho như

sau:
1. Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ về số lượng ,
được đào tạo đạt chuẩn. Phấn đấu để có 80% giáo viên đạt chuẩn
trình độ đào tạo năm 2010 và 100% năm 2015, trong đó có 8% đạt
trình độ trên chuẩn năm 2010 và 15% năm 2015. Ngoài chuẩn về
chuyên môn cần quan tâm và dành thời gian để lãnh đạo chỉ đạo
đội ngũ rèn luyện phẩm chất của nhà giáo của người làm công tác
giáo dục thế hệ trẻ một cách trực tiếp, đặc biệt chú trọng đến lĩnh
vực dân chủ cơ sở.
2. Củng cố mở rộng mạng lưới, lớp, bảo đảm nhu cầu trẻ của các cơ
10


quan, đơn vị có các bà mẹ lao động cũng như tạo điều kiện để các
bà mẹ chăm sóc trẻ dưới 12 tháng, khắc phục cơ bản sự chênh lệnh
về phát triển giáo dục mầm non giữa các vùng miền. Đối với trẻ
dưới 3 tuổi, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu gửi trẻ tại các nhà
trẻ, nhóm trẻ từ 15% năm 2005 lên 20% năm 2010 và 30% 2015.
Đối với trẻ từ 3 – 5 tuổi, tăng tỉ lệ trẻ đến trường, lớp mẫu giáo từ
58% năm 2005 lên 67% năm 2010 và 75% năm2015. Tăng tỷ lệ huy
động trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo để chuẩn bị vào lớp 1, từ 92%
năm 2005 lên 95% năm 2010 và 99% năm 2015.
3. Nâng tỷ lệ các cơ sở giáo dục mầm non đạt chuẩn quốc gia từ 9%
năm 2005 lên 20% vào năm 2010 và 50% vào năm 2015.
4. Chính quyền địa phương ở các vùng có điều kiện kinh tế xã hội
đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo
cần đầu tư ngân sách xây dựng các trường mầm non quốc lập để
phát triển vững chắc về quy mô, và các yêu cầu cơ bản về chất
lượng: Nâng tỷ lệ trẻ từ 3 đến 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 43%
năm 2005 lên 55% năm 2010 và đạt 62% năm 2015. Phấn đấu để tỉ

lệ trẻ 5 tuổi ở các vùng này đến lớp mẫu giáo đạt bằng tỉ lệ chung
của toàn quốc. Từ năm 2006 đến 2010 đầu tư kinh phí để đào tạo
và bồi dưỡng đạt trình độ chuẩn cho khoảng 3000 giáo viên, trang
bị cơ sở vật chất, thiết bị dạy học theo các tiêu chí đạt chuẩn cho
khoảng 2500 cơ sở giáo dục mầm non ở các vùng này.
5. Nâng chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ trong các cơ
sở giáo dục mầm non. Ở đây cần tạo điều kiện cho trẻ phát triển tư
duy, sáng tạo thông qua học tập, vui chơi và làm quen với cách học
mới. Chú ý đến vấn đền dinh dưỡng và an toàn cho trẻ. Phấn đấu tỉ
lệ trẻ đạt chuẩn phát triển là 80% vào năm 2010 và 95% vào năm
2015, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các cơ sở giáo dục mầm non
xuống 12% vào năm 2010 và dưới 10% vào năm 2015.
6. Tăng tỷ lệ các bậc cha mẹ có con ở lức tuổi mầm non được cung
cấp và áp dụng kiến thức, kỹ năng cơ bản về nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ, và đạt 70% vào năm 2010 và 90% vào năm 2015.
11


Tóm lại: Với truyền thống 60 năm qua của giáo dục mầm non trong
hệ thống giáo dục quốc dân, có lẽ không một ai trong số nhà giáo
mầm non lai không tự hào về sự phát triển của mạng lưới cùng sự
tăng trưởng về số lượng trẻ đến chất lượng của đội ngũ nhà giáo.
Nhiều người cũng đã tự hào mà nói rằng giáo dục mầm non của
chúng ta là nề nếp nhất, kỷ cương nhất, và cùng chịu đựng gian khổ
nhất. Tuy nhiên, chính trong nề nếp và kỷ cương thì dễ dẫn tới tình
trạng máy móc, gia trưởng và thiếu tính phản biện. Mong rằng đây
là một dịp tốt để toàn ngành chúng ta cùng tự hào, cùng cố gắng
khắc phục những hạn chế và phấn đấu tốt hơn nữa. Đội ngũ chúng
ta vì yêu nghề và yêu trẻ, và đã chọn nghề sư phạm nên đã tìm ra
phương pháp tốt nhất mà dẫn dắt các cháu theo mục tiêu giáo dục

đào tạo con người Việt Nam theo Luật Giáo dục, cũng như theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội toàn quốc, lần thứ X của Đảng. Đặc biệt là
đội ngũ giáo dục mầm non sẽ phấn đấu làm theo lời dạy của Bác Hồ
kính yêu của chúng ta “Làm mẫu giáo là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm
được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải
bền bỉ, chịu khó nuôi dậy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng
cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ
tốt thì sau này các cháu thành người tốt”.
Nhiệm vụ các năm tới vì sự nghiệp giáo dục mầm non còn rất nặng
nề nhưng rất vẻ vang, chúng ta tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước trong điều kiện mới, trong vận hội mới; phát huy
truyền thống vẻ vang 60 năm qua, toàn thể chúng ta vững tin hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho nhằm phát
triển giáo dục mầm non lên một tầm cao mới, xứng đáng với sự tin
yêu của Đảng và Bác Hồ, xứng đáng với sự tin tưởng của nhân dân
và các thế hệ đi trước.
1. Giai đoạn từ 1976 – 1986
Lần đầu tiên trong lịch sử của giáo dục Việt Nam đã nghiên cứu xây
dựng Chương trình nuôi dạy trẻ nhà trẻ và Chương trình mẫu giáo cải tiến được
tiến hành nghiên cứu xây dựng trên cơ sở khoa học giáo dục mầm non theo từng
độ tuổi. Trong từng lứa tuổi đã đưa ra mục tiêu, nội dung, phương pháp…, chăm
sóc giáo dục trẻ có sự khác nhau. Chương trình này có tác dụng tích cực đến sự
phát triển trí tuệ, ngôn ngữ và hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ.
- Về Chương trình nuôi dạy trẻ từ 3 đến 36 tháng ở nhà trẻ
12


[7] Nội dung chương trình được chia theo từng lứa tuổi: từ 3 đến 12
tháng; từ 12 đến 24 tháng; từ 24 đến 36 tháng; Vềchăm sóc: rèn luyện ăn ngủ,
vệ sinh theo từng độ tuổi, theo thời gian biểu, rèn luyện sức khỏe; Về giáo dục:

bao gồm các trò chơi rèn luyện các giác quan, rèn luyện vận động, nhận xét tập
nói, một số thể loại trò chơi, hát, múa, kể chuyện, vẽ, nặn, xếp hình, xâu hạt.
Những ưu điểm của chương trình: Lần đầu tiên trong lịch sử của giáo
dục nhà trẻ đã nghiên cứu xây dựng được chương trình nuôi dạy trẻ từ 3 đến 36
tháng; Trong từng lứa tuổi đã đưa ra mục tiêu, nội dung, phương pháp… chăm
sóc – giáo dục trẻ có sự khác nhau giữa các năm tuổi; Chương trình có tác dụng
tích cực đến sự phát triển trí tuệ, ngôn ngữ và hình thành nhân cách ban đầu cho
trẻ nhỏ; Chương trình đã quy định chặt chẽ toàn bộ thao tác và làm dây chuyền
của từng giáo viên trong nhóm trẻ. Do đó đã quản lí được giáo viên về thời gian.
Những tồn tại của chương trình: Mục tiêu chung, mục tiêu riêng trong
từng lứa tuổi mang tính chung chung chưa rõ ràng, chưa cụ thể; Nội dung
chương trình chưa đề cập đầy đủ 2 nội dung chăm sóc và giáo dục. Sự kết hợp
giữa chăm sóc và giáo dục chưa được thể hiện rõ nét; Nội dung của từng mặt
giáo dục trong từng năm tuổi còn nghèo nàn, rời rạc. Yêu cầu của một số nội
dung đề ra có chỗ cao, có chỗ thấp so với khả năng của trẻ; Chăm sóc và giáo
dục trẻ mang nặng tính giáo dục đồng loạt, chưa chú trọng đến sự phát triển cá
biệt của từng trẻ. Chưa tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động tích cực; Toàn bộ
nội dung chương trình được quy định một cách chặt chẽ, giáo viên không được
thay đổi bất kì một nội dung nào. Do đó, giáo viên bị hạn chế khả năng chủ
động sáng tạo. Vì phải làm việc theo dây chuyền, thực hiện các thao tác chăm
sóc – giáo dục theo đúng quy chế nên các giáo viên không còn đủ sức lực và
thời gian để trò chuyện tình cảm với trẻ.
- Về Chương trình mẫu giáo cải tiến
[7] Chương trình mẫu giáo gồm 12 môn học được nghiên cứu cải tiến
thành chương trình giáo dục mẫu giáo cải tiến 6 môn học.
Những ưu điểm của chương trình: Đây là chương trình lần đầu tiên có
nội dung giáo dục được cấu trúc theo hai phương thức: Giáo dục và Giáo dưỡng
thông qua tổ chức cuộc sống hàng ngày cho trẻ. Giáo viên chủ động tích cực
trong hoạt động với hai phương thức đặc trưng: Quan sát và đàm thoại. Hoạt
động vui chơi lần đầu tiên được xem xét và nhìn nhận như một phương tiện giáo

dục có hiệu quả đối với trẻ. So với chương trình cũ thì chương trình cải tiến đã
có những phương pháp giáo dục phù hợp hơn với đặc điểm tâm sinh lí của lứa
tuổi, đồng thời hướng đến khắc phục tình trạng “phổ thông” hóa giáo dục mẫu
giáo.
Những hạn chế của chương trình: Phương pháp giáo dục còn mang tính
áp đặt từ phía giáo viên (ngay cả đối với tổ chức trò chơi cho trẻ), phương pháp
13


dạy học còn mang nặng dùng lời mô tả, trò chơi là một phương pháp giáo dục
dạy học có hiệu quả ở lứa tuổi này ít được sử dụng.
2. Giai đoạn từ năm 1987 đến đầu thập kỉ 90
Trên cơ sở quán triệt tinh thần Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị khóa IV,
Nghị quyết của Trung ương Đảng khóa V [1], [9] và khắc phục những tồn tại
của Chương trình nuôi trẻ nhà trẻ và Chương trình mẫu giáo cải tiến, tiếp tục
thực hiện những chủ trương đổi mới và phát triển chương trình giáo dục mầm
non, Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ em nhà trẻ và trẻ mẫu giáo đã ra đời
vào những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX (ban hành năm 1994 theo Quyết
định số 1006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) [2]. Chương trình này chịu ảnh
hưởng sâu sắc những thành tựu tiến bộ của nền giáo dục Đông Âu và Liên Xô.
Nội dung chương trình được xây dựng theo nguyên tắc cơ bản của giáo dục
mầm non, đồng thời chương trình dựa trên các nguyên tắc chỉ đạo chung mang
tính khoa học phù hợp với độ tuổi mầm non được dựa trên cơ sở lí thuyết hoạt
động cho trẻ phù hợp với đặc điểm phát triển của từng lứa tuổi, kết hợp hài hòa
giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục để trẻ phát triển toàn diện, lấy hoạt động
vui chơi làm con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Mặt khác, chương trình còn được xây dựng trên cơ sở chú trọng giáo dục trẻ
trong quá trình hoạt động, nhấn mạnh tổ chức các hoạt động chủ đạo phù hợp
với từng độ tuổi. Mục tiêu giáo dục nhằm thực hiện giáo dục và phát triển trẻ
toàn diện trên các mặt: đức, trí, thể, mĩ. Nội dung giáo dục trong chương trình

được cấu trúc lại thành 2 phần, bao gồm: nội dung chăm sóc sức khỏe và nội
dung giáo dục - phát triển. Trong phần này, nội dung giáo dục được cấu trúc
theo 3 hoạt động cơ bản (hoạt động vui chơi, hoạt động học tập và hoạt động lao
động tự phục vụ). Trong đó, hoạt động học tập được cấu trúc không phải là 12
môn học như cũ mà cấu trúc thành 6 “môn học”. Chương trình đã tổ chức theo
cách tiếp cận hoạt động và theo nội dung môn học; đảm bảo tính hệ thống, liên
tục, kế thừa trong nhiệm vụ chăm sóc - giáo dục trẻ giữa các lớp tuổi.
- Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ (từ 3 đến 36 tháng):
Chương trình đã thực hiện được những nguyên tắc cơ bản của giáo dục mầm
non như chương trình có mục đích rõ ràng, nội dung chương trình phục vụ cho
mục tiêu đào tạo theo Quyết định 55 [3] của Bộ giáo dục và Đào tạo. Chương
trình được xây dựng trên cơ sở đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, thể hiện rõ sự kết
hợp chặt chẽ giữa chăm sóc và giáo dục, coi trọng hoạt động giao lưu cảm xúc
và hoạt động với đồ vật, đồ chơi như là con đường cơ bản hình thành và phát
triển nhân cách trẻ. Quan hệ cô - trẻ được thể hiện là quan hệ mẹ con thân
thương. Chăm sóc giáo dục cho từng trẻ là đặc điểm cơ bản của lứa tuổi này,
khắc phục dần tình trạng chăm sóc giáo dục đồng loạt.
- Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo từ 3-6 tuổi: Chương trình
đã hướng đến thực hiện mục tiêu giáo dục và đảm bảo nội dung giáo dục toàn
diện trên các mặt: thể, trí, đức, mĩ. Nội dung giáo dục thể hiện sự kết hợp hài
14


hòa giữa nội dung chăm sóc và giáo dục. Chương trình đã thể hiện việc giáo dục
trong trường mẫu giáo là có mục đích, có kế hoạch và được tổ chức thực hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau. Chương trình coi trọng hoạt động chủ đạo của
trẻ là hoạt động vui chơi nhưng cũng coi trọng việc học tập và hoạt động khác
(lễ hội và lao động). Hoạt động học tập được biên soạn theo các môn (Thể dục,
Tạo hình, Giáo dục âm nhạc, Làm quen với văn học, Làm quen với môi trường
xung quanh, Hình thành các biểu tượng toán sơ đẳng). Các môn học đều được

xác định mức độ yêu cầu nội dung cụ thể cho từng độ tuổi. Nội dung giáo dục
được sắp xếp theo nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó giúp cho
giáo viên dễ dàng xây dựng kế hoạch và thiết kế triển khai các hoạt động giáo
dục. Chương trình cũng đã chú ý đến việc chuẩn bị cho trẻ những kĩ năng cần
thiết để sau này dễ dàng thích nghi với việc học tập ở trường phổ thông.
Như vậy, chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ 0 đến 6 tuổi được thiết kế
và thực hiện trong giai đoạn này đã góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ,
tạo được vị trí cần thiết của giáo dục mầm non trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Tuy nhiên chương trình vẫn thể hiện một số hạn chế sau đây
[7]:
- Về mục tiêu: Chưa chú trọng giáo dục hình thành các giá trị nhân cách
như: tính độc lập, tự tin, hành vi văn minh trong giao tiếp, tự giác, năng động, tự
chủ, dễ hòa nhập với bạn bè, nhóm lớp… Mục tiêu chưa chú trọng đầy đủ đến
nhiệm vụ chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
- Về nội dung: Nội dung giáo dục còn nặng về cung cấp kiến thức cho trẻ
mà coi nhẹ việc rèn luyện kĩ năng, thói quen cần thiết cho trẻ trong cuộc sống
hàng ngày. Một số nội dung chưa cập nhật và còn mờ nhạt:
+ Phần chăm sóc sức khỏe dinh dưỡng chỉ dừng lại ở việc đưa ra yêu cầu
cho người chăm sóc trẻ, chưa thành nội dung giáo dục trẻ (như giáo dục dinh
dưỡng, giáo dục môi trường);
+ Sự phân phối nội dung trong các hoạt động chưa cân đối, chưa làm rõ
vị trí, vai trò, chức năng của hoạt động chủ đạo. Quá trình giáo dục trẻ còn nặng
về nội dung dạy học;
+ Chương trình thiếu các nội dung giáo dục mang tính toàn cầu và cấp
thiết hiện nay ở nước ta như: giáo dục nhân văn, giáo dục giới tính, giáo dục
môi trường, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục pháp luật sơ đẳng phù hợp
với trẻ;
+ Nội dung giáo dục mang tính dân tộc, chưa quán triệt trong các hoạt
động giáo dục, nhất là các nội dung về truyền thống văn hóa của các địa phương
khác nhau, các dân tộc khác nhau trên toàn quốc;

- Về phương pháp: Cách thức và cách vận dụng các phương pháp đặc
trưng cho lứa tuổi mầm non và các phương pháp nhằm phát huy tư duy tích cực
15


của trẻ còn thấp. Trẻ ít được hoạt động và rất thụ động. Giáo viên nói nhiều
hoặc làm mẫu là chính. Phương pháp giáo dục mang tính đồng loạt.
3. Giai đoạn từ 1995 đến 2002
Trước những yêu cầu của thời kì mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước,
trước xu thế đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới giáo dục mầm nói riêng trong
khu vực và trên thế giới, đặc biệt trong xu thế hội nhập vào cộng đồng quốc tế
và khu vực, các chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ mầm non hiện hành đã
bộc lộ những hạn chế, đặc biệt thể hiện ở việc thực hiện các phương pháp chăm
sóc - giáo dục trẻ và việc tổ chức các hoạt động giáo dục. Đây cũng là giai đoạn
mà xu hướng đổi mới về phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động giáo
dục là những vấn đề cấp bách.
Chương trình đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục
Lần đầu tiên, nội dung chương trình đã tổ chức các nội dung giáo dục
theo hướng tích hợp chủ đề và đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục
theo hướng tiếp cận tích hợp. Trong đó, mỗi chủ đề đều xác định các đơn vị
kiến thức, kĩ năng, thái độ cần cung cấp và hình thành ở trẻ và đều nhằm phát
triển tổng thể các mặt: thể lực, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, xã hội. Sử dụng
hình thức mạng “mở” giúp giáo viên nhìn rõ các mối liên quan giữa các nội
dung kiến thức và các hoạt động mang tính tích hợp trong phạm vi chủ đề này
với chủ đề khác. Đồng thời Chương trình còn khuyến khích giáo viên áp dụng
các phương pháp dạy học khác nhau một cách sáng tạo. Tạo điều kiện cho giáo
viên đổi mới phương pháp dạy học bằng cách xây dựng các góc hoạt động để có
cơ hội sử dụng các phương pháp và kĩ thuật nhằm tích cực hóa hoạt động tư duy
của trẻ (giao nhiệm vụ để trẻ suy nghĩ giải quyết vấn đề, gợi mở, sử dụng các
câu hỏi mở, động não, trò chơi phân vai theo chủ đề) và phương pháp cùng

tham gia (nhóm nhỏ). Giáo viên có thể xác định, lựa chọn và tổ chức nhiều hoạt
động để tạo điều kiện cho trẻ có thể “học” qua chơi, “học” qua thực hành. Nhờ
đó, trẻ có thể lĩnh hội kiến thức và kĩ năng liên quan đến chủ đề một cách tự
nhiên và có được những kinh nghiệm mang tính tích hợp cần cho cuộc sống của
trẻ. Khuyến khích giáo viên tận dụng các điều kiện hoàn cảnh ở trong môi
trường lớp học và trường học, các nguyên vật liệu sẵn có và các phế liệu thích
hợp và an toàn với trẻ để hướng dẫn trẻ tìm hiểu, khám phá và làm các sản
phẩm mới mang tính sáng tạo. Khi tổ chức các hoạt động, giáo viên có thể tổ
chức lồng ghép, đan cài để tạo thành một chỉnh thể.
Chương trình còn nhấn mạnh vào quá trình giáo dục, dạy học và việc
đánh giá thường xuyên hoạt động dạy và học dựa vào các mục tiêu, yêu cầu đề
ra trong từng chủ đề. Đây cũng là chương trình sử dụng các phương pháp dạy
học tích cực có hiệu quả. Qua đó, trẻ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo,
tạo cơ hội cho trẻ tìm tòi, khám phá, trải nghiệm, phát triển tư duy. Phương
pháp này đã khuyến khích trẻ tích cực hoạt động cá nhân và hoạt động trong
16


nhóm/ lớp, đồng thời tạo mối quan hệ giao tiếp giữa trẻ với nhau và giữa trẻ với
cô giáo. Để áp dụng tốt phương pháp dạy học tích cực trong giáo dục mầm non,
trước hết, giáo viên cần [8]:
- Dựa vào vốn kinh nghiệm của trẻ, khai thác khả năng hoạt động của trẻ,
tạo mọi cơ hội để trẻ phát triển khả năng tự khám phá, tìm tòi, trải nghiệm… đối
tượng nhận thức;
- Kích thích động cơ bên trong của trẻ, gây hứng thú, lôi cuốn trẻ vào các
hoạt động; tạo các tình huống có vấn đề cho trẻ hoạt động, đặc biệt là hoạt động
nhận thức;
- Phát hiện những biểu hiện tích cực hoạt động của trẻ để tạo tình huống,
cơ hội và kích thích trẻ tham gia hoạt động;
- Khuyến khích trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động và trải nghiệm, tự

hoàn thiện. Tôn trọng sự suy nghĩ sáng tạo của trẻ, chống gò ép, áp đặt, áp đặt
làm cho trẻ thụ động;
Chương trình đổi mới hình thức các hoạt động giáo dục trẻ là một
chương trình có nhiều ưu điểm, cụ thể là:
- Chương trình với hướng tiếp cận chủ đề đã tạo ra sự tác động đồng bộ
đến trẻ;
- Nội dung giáo dục sẽ được lặp đi, lặp lại thông qua chủ đề, vì vậy sẽ tác
động đến trẻ, hình thành ở trẻ khả năng nhận thức và những kĩ năng bền vững;
- Giảm tải các nội dung đưa vào các hoạt động nhằm phát huy được tính
tích cực hoạt động chủ đạo của trẻ;
- Chương trình tạo điều kiện cho giáo viên được học hỏi và trau dồi kinh
nghiệm, hình thành những kĩ năng cần thiết cho việc tổ chức các hoạt động giáo
dục ở trường mầm non, từ đó giáo viên sẽ trở nên linh hoạt và sáng tạo hơn.
Chương trình chính là khâu đổi mới cơ bản, đổi mới thực hiện từ những
năm 2000 đến năm 2009, tạo điều kiện cho đổi mới một cách đồng bộ toàn bộ
chương trình, là một bước đệm quan trọng để chuyển sang chương trình Giáo
dục mầm non mới
. 4. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Chương trình Giáo dục mầm non mới [5] được biên soạn trên cơ sở quy
định của Luật Giáo dục và đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo kí ban
hành theo Thông tư số 17/2009/TTBGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009.
Chương trình được ban hành xuất phát từ những lí do: Thực hiện chủ
trương đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và giáo dục
mầm non nói riêng của Đảng và Nhà nước; Sự đổi mới chương trình của các
17


cấp học, đặc biệt là tiểu học; Những bất cập, hạn chế của Chương trình cải cách
được ban hành từ năm 1994, 1995 như chương trình chủ yếu tập trung đề cập
nội dung giáo dục mà chưa thể hiện đầy đủ các thành tố khác của chương trình,

nội dung trong các hoạt động giáo dục chưa mang tính tích hợp, chưa tạo được
sự gắn kết, nội dung các hoạt động học tập còn nặng về cung cấp kiến thức
riêng lẻ, chưa coi trọng việc hình thành và phát triển các năng lực, kĩ năng sống
cho trẻ; Những ưu điểm của Đổi mới hình thức thực hiện từ năm 2000; Những
nhu cầu và sự phát triển của trẻ trong những năm gần đây có sự thay đổi; Những
xu hướng đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng trên thế
giới và trong nước.
Chương trình GDMN được tiến hành nghiên cứu xây dựng từ năm 2002
theo quy trình khoa học với sự tham gia của các nhà khoa học, nhà sư phạm,
cán bộ quản lí, giáo viên mầm non. Chương trình ban hành là chương trình
khung có kế thừa những ưu việt của các chương trình chăm sóc giáo dục trẻ
trước đây. Chương trình GDMN mới đã tiếp thu những tinh hoa của chương
trình GDMN trong và ngoài nước. Tư tưởng cốt lõi của chương trình được thể
hiện một cách nhất quán theo các quan điểm sau:
a. Chương trình mầm non hướng đến sự phát triển toàn diện của trẻ;
b. Chương trình tạo điều kiện cho trẻ phát triển liên tục;
c. Chương trình đảm bảo đáp ứng sự đa dạng của các vùng miền, các đối
tượng trẻ.
4.1. Cấu trúc của chương trình giáo dục mầm non
Cấu trúc của chương trình giáo dục mầm non gồm ba nội dung lớn (3
phần):
- Phần một: Những vấn đề chung;
- Phần hai: Chương trình giáo dục nhà trẻ;
- Phần ba: Chương trình giáo dục mẫu giáo.
Những vấn đề chung, bao gồm các nội dung: Mục tiêu giáo dục mầm
non; Quan điểm xây dựng và phát triển chương trình; Yêu cầu về nội dung,
phương pháp giáo dục mầm non và đánh giá trẻ; Cấu trúc chương trình; Quy
định về hướng dẫn thực hiện chương trình.
Chương trình giáo dục nhà trẻ và Chương trình giáo dục mẫu giáo đều
bao gồm:

- Mục tiêu: Phần này đề cập mục tiêu phát triển toàn diện cuối độ tuổi về
thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm – xã hội và thẩm mĩ;

18


- Kế hoạch thực hiện: Phần này đề cập phân phối thời gian trong năm học
và chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở các cơ sở Giáo dục mầm non.
- Nội dung:
+ Nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe: Phần này đề cập việc tổ chức ăn
uống, ngủ, vệ sinh, sức khỏe và an toàn cho trẻ;
+ Giáo dục: Nội dung giáo dục được xây dựng theo các lĩnh vực phát
triển và theo độ tuổi.
Nội dung giáo dục nhà trẻ được chia thành 4 lĩnh vực: giáo dục phát triển
thể chất, giáo dục phát triển nhận thức, giáo dục phát triển ngôn ngữ, giáo dục
phát triển tình cảm – xã hội và thẩm mĩ.
Nội dung giáo dục mẫu giáo được chia thành 5 lĩnh vực: giáo dục phát
triển thể chất, giáo dục phát triển nhận thức, giáo dục phát triển ngôn ngữ, giáo
dục phát triển tình cảm – xã hội và giáo dục phát triển thẩm mĩ.
- Kết quả mong đợi: Phần này mô tả những gì trẻ trong độ tuổi cần và có
thể thực hiện nhằm định hướng cho giáo viên tổ chức hướng dẫn có hiệu quả
các hoạt động giáo dục phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm – xã
hội, thẩm mĩ, chuẩn bị tốt cho trẻ khi nhập học ở trường phổ thông.
- Các hoạt động giáo dục, hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục:
Phần này đề cập các hoạt động giáo dục cơ bản, các hình thức tổ chức và
phương pháp giáo dục trẻ.
- Đánh giáo sự phát triển của trẻ: Phần này đề cập mục đích, nội dung,
phương pháp, thời điểm, cách đánh giá trẻ hàng ngày và đánh giá sự phát triển
của trẻ theo giai đoạn.
4.2. Những điểm mới của chương trình

Chương trình giáo dục trẻ nhà trẻ và trẻ mẫu giáo được cấu trúc thành
một chương trình chung với tên gọi: Chương trình giáo dục mầm non.
Chương trình giáo dục mầm non cấp quốc gia mang tính chất khung [6]:
+ Nội dung chương trình gồm những nội dung cốt lõi, cơ bản phù hợp
theo từng độ tuổi
; + Chương trình có độ mở, cho phép linh hoạt nhằm tăng cường tính chủ
động của giáo viên trong việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể phù hợp
với kinh nghiệm sống và khả năng của trẻ, điều kiện thực tế của địa phương;
+ Các hoạt động giáo dục, hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục;
đánh giá sự phát triển của trẻ được đưa vào như là một thành tố của chương
trình;
19


+ Kết quả mong đợi được đưa vào chương trình nhằm định hướng cho
giáo viên tổ chức, hướng dẫn có hiệu quả các hoạt động giáo dục phát triển thể
chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội, thẩm mĩ, chuẩn bị tốt cho trẻ khi
vào học ở trường phổ thông.
- Mục tiêu:
+ Mục tiêu được xây dựng cho trẻ cuối độ tuổi nhà trẻ và cuối độ tuổi
mẫu giáo theo lĩnh vực phát triển của trẻ nhằm hướng đến phát triển toàn diện
về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội, thẩm mĩ;
+ Chú trọng hình thành ở trẻ những chức năng tâm lí, năng lực chung của
con người. Phát triển tối đa tiềm năng vốn có, hình thành những kĩ năng sống
cần thiết cho trẻ và phù hợp với yêu cầu của gia đình, cộng đồng, xã hội;
+ Chuẩn bị tốt cho trẻ vào học giai đoạn sau;
- Nội dung giáo dục:
+ Nội dung giáo dục xây dựng theo các lĩnh vực phát triển của trẻ: 4 lĩnh
vực phát triển với chương trình nhà trẻ và 5 lĩnh vực phát triển với chương trình
mẫu giáo. Nội dung chăm sóc giáo dục trẻ được đổi mới theo hướng đảm bảo

tính tích hợp giữa nội dung nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe với giáo dục phát
triển, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm
non hiện nay. Bổ sung một số nội dung thiết thực đảm bảo giáo dục trẻ toàn
diện và gắn với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ. Hệ thống các chủ đề hoặc các
vấn đề giáo dục được thiết kế theo sơ đồ hình “mạng lưới” với hình thức mạng
mở. Mỗi chủ đề lớn được xây dựng hướng tới thực hiện mục tiêu cụ thể. Mạng
hoạt động tích hợp cho phép giáo viên tổ chức, phối hợp các hoạt động giáo dục
trong mối liên hệ hỗ trợ tác động qua lại, lẫn nhau giữa hoạt động trọng tâm với
các hoạt động có tính chất bổ trợ, nhằm mở rộng và thực hiện nội dung chủ đề
có hiệu quả. Các hoạt động và phương tiện giáo dục được tổ chức lồng ghép,
đan cài và mang tính tích hợp được lựa chọn phù hợp với chủ đề giáo dục đáp
ứng nhu cầu hứng thú và phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa phương và nhóm
lớp.
- Phương pháp giáo dục:
+ Tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động với các hình thức đa dạng,
phong phú, đáp ứng nhu cầu, hứng thú và hoạt động tích cực của trẻ;
+ Tạo cơ hội cho trẻ hoạt động, trải nghiệm, khám phá bằng vận động
thân thể và các giác quan dưới nhiều hình thức;
+ Chú trọng tổ chức hoạt động chủ đạo của từng lứa tuổi;

20


+ Chú trọng đến việc trẻ “học như thế nào” hơn là “học cái gì”, coi trọng
quá trình hơn là kết quả hoạt động; học một cách tích cực qua tìm hiểu, trải
nghiệm, học thông qua sự hợp tác giữa trẻ với người lớn và giữa trẻ với trẻ;
+ Coi trọng tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động: tạo môi trường kích
thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo và phát triển phù hợp với từng cá nhân trẻ;
xây dựng các khu vực hoạt động; tận dụng các điều kiện, hoàn cảnh sẵn có của
địa phương; sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương;

+ Chú trọng việc giao tiếp, gắn bó giữa người lớn với trẻ và trẻ với trẻ;
+ Phối hợp các phương pháp hợp lí nhằm tăng cường ở trẻ tính chủ động,
tích cực hoạt động, đảm bảo trẻ “học mà chơi, chơi mà học”;
+ Coi trọng tiếp cận cá nhân trong chăm sóc, giáo dục trẻ
. - Đánh giá sự phát triển của trẻ:
+ Có sự phối hợp nhiều phương pháp, hình thức đánh giá;
+ Chú trọng đánh giá sự tiến bộ của từng trẻ, trên cơ sở đó giúp giáo viên
điều chỉnh kế hoạch giáo dục, tổ chức các hoạt động giáo dục tiếp theo cho phù
hợp với hoạt động thực tế và với trẻ;
+ Coi trọng đánh giá trẻ thường xuyên qua quan sát hoạt động hàng
ngày. Những điểm mới trong cấu trúc cũng như nội dung của chương trình cho
thấy chương trình được xây dựng theo hướng đổi mới đã giúp giáo viên có cái
nhìn tổng thể về nội dung chương trình, những gì trẻ cần phát triển, cần được
phát triển đồng bộ phù hợp với độ tuổi để trẻ phát triển một cách toàn diện. Nội
dung giáo dục trong chương trình được thể hiện và cấu trúc theo mạng chương
trình và theo các mức độ phù hợp các độ tuổi. Qua đó, giúp giáo viên, các nhà
quản lí nhận thấy được các mức độ nội dung khác nhau theo các độ tuổi, giáo
viên sẽ chủ động, linh hoạt hơn trong việc thực hiện nội dung chương trình, lựa
chọn tích hợp nội dung giáo dục phù hợp với chủ đề và phù hợp với độ tuổi của
trẻ. Để thực hiện chương trình này, đòi hỏi giáo viên phải luôn tìm ra cái mới để
đáp ứng nhu cầu và hứng thú tìm tòi trải nghiệm của trẻ, giúp trẻ phát triển tốt
theo yêu cầu của chương trình; đặc biệt, chương trình còn có thêm phần hướng
dẫn dành cho trẻ khuyết tật, nội dung phối hợp với gia đình nhà trường và cộng
đồng, các kiến thức về chăm sóc và nuôi dưỡng.
Như vậy, chương trình giáo dục mầm non mới là một chương trình mềm
dẻo và linh hoạt, có độ mở, giúp giáo viên linh hoạt lựa chọn nội dung, phương
pháp để phù hợp với khả năng của trẻ và tình hình thực tế của địa phương.
Chương trình giúp giáo viên liên tục được học hỏi và trau dồi kinh nghiệm, từ
đó trở thành cá nhân năng động, tích cực, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát
triển giáo dục của nước nhà.


21


Đổi mới giáo dục mầm non và đổi mới chương trình giáo dục mầm non
là tất yếu trong xu hướng đổi mới của giáo dục và đào tạo nói chung. Đây là xu
hướng tất yếu phù hợp với điều kiện của đất nước và trình độ của giáo viên, góp
phần nâng cao chất lượng của công tác giáo dục.

22



×