Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội, và quan điểm của đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.21 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI TIỂU LUẬN
Chủ đề: “Quá trình đổi mới nhận thức về
giải quyết các vấn đề xã hội, và quan điểm
của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội
trong thời kì đổi mới? Để giải quyết tốt các
vấn đề xã hội cần phải tập trung giải quyết
vấn đề gì trước?” (chứng minh)

GVHD: Đinh Thị Điều
Môn: Đường lối cách mạng của ĐCS Việt Nam

1


I. Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội:
I.1 Trước thời kì đổi mới
a.) Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội
- Giai đoạn 1945 - 1954: Sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến
chống Pháp, chính sách xã hội của Đảng được thực hiện theo tinh thần:
+ Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có
học hành. Và với chủ trương: làm cho người nghèo thì đủ ăn, ngươi đủ ăn thì
khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm. Chủ trương này đã nhanh chóng đi vào
cuộc sống và đạt được những hiệu quả thiết thực.
+ Các vấn đề xã hội trong giai đoạn này giải quyết trong điều kiện xây dựng Nhà
nước dân chủ nhân dân. Chính phủ có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp
nhân dân chủ động và tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình;
chính sách tăng gia sản xuất (tự túc, tự cấp), chủ trương tiết kiệm, khuyến khích
mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần xã hội phát triển kinh tế. Thực hiện
chính sách điều hoà lợi ích giữa chủ và thợ.


- Giai đoạn 1954 - 1975: Các vấn đề xã hội được giải quyết theo mô hình xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối cũ, trong hoàn cảnh đất nước có chiến
tranh. Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và
tập thể đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội, bằng chế độ bao cấp và dựa vào
viện trợ của nước ngoài.
- Giai đoạn 1975 - 1985: Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, đất nước
bị bao vây, cô lập và cấm vận.
b) Hạn chế và nguyên nhân
Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể
trong cách giải quyết, các vấn đề xã hội; chế độ phân phối trên thực tế là bình
quân - cào bằng, không khuyên khích được những đơn vị và cá nhân làm
2


tốt, làm giỏi: đã hình thành nên một xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng động
chậm phát triển về mọi mặt.
Nguyên nhân cơ bản của hạn chế trển là do chúng ta đặt chưa đúng tầm
chính sách xã hội trong quan hệ với các chính sách thuộc các lĩnh vực khác, đồng
thời lại áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp.
I.2 Trong thời kì đổi mới
Chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội vì con người, đặt
con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và lấy
việc nâng cao chất lượng cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Đảng ta
luôn nhấn mạnh phát triển kinh tế phải đi liền với việc giải quyết tốt các vấn đề
xã hội. Phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng đòi hỏi phải
giải quyết tốt những vấn đề xã hội. Bởi lẽ phát triển kinh tế phải là sự phát triển
bền vững dựa trên những yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,…. Bền vững

về mặt xã hội là bảo đảm vừa đạt được tăng trưởng kinh tế, vừa giữ được ổn
định xã hội, không có những xáo trộn xung đột, nổi loạn làm ảnh hưởng đến việc
huy động các nguồn lực cho sự phát triển. Trong phát triển bền vững, yếu tố
kinh tế và yếu tố xã hội quyện vào nhau, hoà nhập vào nhau. Mục tiêu phát triển
kinh tế phải bao gồm cả mục tiêu giải quyết những vấn đề xã hội như vấn đề việc
làm, xoá đói giảm nghèo….. thoả mãn nhu cầu cơ bản của nhân dân, công bằng
xã hội. Ngược lại, mục tiêu phát triển xã hội cũng nhằm tạo động lực phát triển
kinh tế. Đó chính là sự khác nhau căn bản về mục tiêu phát triển giữa con đường
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn.
Vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới toàn
diện. Đại hội Đảng lần thứ VI (12- 1986) xác định quyết tâm: “ Đảng phải đổi
mới về nhiều mặt... đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời đại,
đối phó thắng lợi với mọi thử thách, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của
nhân dân… đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn
đề có ý nghĩa sống còn ”. Một nguyên tắc căn bản của công cuộc đổi mới được
xác định là: “Xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là lý
tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội
chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những
3


quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam diễn ra
trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nhưng nhìn một cách khái quát được thể
hiện tập trung trên 4 lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội - thực chất
là 4 phân hệ lĩnh vực trụ cột của phát triển xã hội Việt Nam theo định hướng
XHCN.
Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng ta nêu lên khái niệm “ Chính sách xã hội”. Đây
là sự đổi mới tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể
đường lối phát triển của đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa chính
sách kinh tế và chính sách xã hội. Đại hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế là

điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội
lại là mục đích của các hoạt động kinh tế. Do đó, cần có chính sách xã hội cơ bản,
lâu dài, phù hợp với yêu cầu và khả năng trong chặng đường đầu tiên của thời
kì quá độ.
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở
chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát triển kinh tế là
cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các
chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Từ những quan điểm
nêu trên, Đại hội VI đã đề ra chủ trương về giải quyết các vấn đề xã hội như:
Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số, coi đây là một điều kiện quan trọng để
tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người, để thực hiện các mục tiêu kinh tế
- xã hội.
• Đảm bảo việc làm cho người lao động là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng đầu.
Nhà nước cố gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để người lao động tự tạo
ra việc làm bằng cách khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, khai thác mọi
tiềm năng của các thành phần kinh tế khác, kể cả thành phần kinh tế tư bản tư
nhân.
• Ban hành và thực hiện Luật lao động. Đảm bảo cho người lao động có thu
nhập thoả đáng phụ thuộc trực tiếp vào kết quả lao động, có tác dụng khuyến
khích nhiệt tình lao động.
• Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân. Trước mắt là tập
trung sức nâng cao chất lượng các hoạt động y tế và đạt được những tiến bộ rõ
rệt trong việc chăm sóc sức khoẻ của nhân dân.


4


Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội XHCN đối với toàn dân, theo
phương châm “ nhà nước và nhân dân cùng làm ”, tạo lập nhiều hệ thống và

hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những
người gặp khó khăn.
• Điều chỉnh, bổ sung các chính sách, nhất là các vấn đề liên quan tới lợi ích
của mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội.


 Như vậy, chủ trương của Đại hội VI về lĩnh vực xã hội, tập trung vào các vấn
đề: lao động và việc làm; ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; thực hiện kế
hoạch hoá gia đình, chăm lo người có công với cách mạng, phòng chống các tệ
nạn xã hội... Trong đó, tư duy mới của Đảng thể hiện thông qua các chủ trương:
giải quyết chính sách xã hội là nhiệm vụ gắn bó hữu cơ với đổi mới kinh tế; vấn
đề lao động, việc làm được giải quyết gắn với phát triển nhiều thành phần kinh
tế; nâng cao đời sống của nhân dân gắn với thực hiện ba chương trình kinh tế
lớn.
Thực tế cho thấy, chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội được đề ra ở Đại
hội VII và các hội nghị Trung ương Đảng Khóa VII, một mặt, tiếp tục khẳng định
mục tiêu của chính sách xã hội là thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế và
đều phục vụ mục tiêu phát triển con người, phát triển xã hội. Phát triển kinh tế
là cơ sở để thực hiện các chính sách xã hội và việc thực hiện tốt các chính sách xã
hội chính là động lực phát triển kinh tế, đó là những nhân tố đảm bảo cho sự
phát triển bền vững.
Mặt khác, thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng trong việc giải quyết những
vấn đề xã hội phát sinh từ việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế mới như:
Xác lập nguyên tắc chi trả tiền lương, tiền công theo kết quả lao động là
chủ yếu.
 Xác định giải quyết việc làm là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi
thành phần kinh tế...


Đại hội VIII của Đảng (6/1996) chủ trương, hệ thống chính sách xã hội phải

được hoạch định theo những quan điểm:
 Tăng

trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể
hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất cũng như phân phối kết quả
5


sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng
tốt năng lực của mình.
 Thực hiện nhiều hình thức phân phối.
 Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.
 Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.
 Các quan điểm cơ bản nêu trên đã định hình tổng thể tư duy lý luận của Đảng
về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa thích ứng với nhu
cầu tạo động lực cho sự phát triển bền vững, vừa hướng tới giá trị công bằng và
tiến bộ xã hội. Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đại hội VIII, các chính sách xã
hội có sự đổi mới. Chính sách lao động và việc làm đã gắn kết với quá trình
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, phát triển sản xuất. Chính sách xoá đói giảm
nghèo được đặc biệt coi trọng với việc hình thành Chương trình quốc gia theo
Quyết định 133 của Thủ tướng chính phủ (23-7-1998). Ưu đãi người có công
được luật hoá bằng Pháp lệnh do Quốc hội ban lệnh với những chế độ trợ cấp ưu
đãi đặc biệt. Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được đảm bảo bằng mở
rộng mạng lưới y tế đến cộng đồng dân cư, thực hiện chế độ bảo hiểm y tế.
Phòng và chống tệ nạn xã hội được đảm bảo bằng luật pháp. Mở rộng các hoạt
động đền ơn đáp nghĩa những có công với nước, đảm bảo cho người có công và
gia đình có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của xã, phường nơi cư
trú..
Đại hội IX( 4/2001) chủ trương, các chính sách xã hội phải hướng vào phát

triển và làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo
động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện
bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
Đại hội X (4/2006) chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các
mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương. Hội nghị
Trung ương 4 khóa X (1/2007) nhấn mạnh :
 Giải

quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam
kết với WTO.
 Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kỳ về tác động của việc gia
nhập WTO đối với lĩnh vực xã hội để có biện pháp xử lý chủ động, đúng đắn, kịp
thời.
6


 Đại

hội lần thứ X của Đảng (4-2006), trong khi khẳng định những thành
tựu đạt được là cơ bản, đồng thời cũng chỉ rõ những hạn chế trong việc tổ chức
thực hiện một số chính sách xã hội như: Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật
vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn; khoảng cách chênh lệch về thu nhập; nhu
cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt; tội phạm và tệ
nạn xã hội có chiều hướng tăng... Để khắc phục tình trạng trên, Đại hội X đề ra
chủ trương “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng buớc và
từng chính sách phát triển”.
Những vấn đề xã hội đã được Đại hội Đảng lần thứ X nhận thức và giải
quyết toàn diện cả ở góc độ mục tiêu và hệ thống giải pháp trong tổng thể các
chính sách phát triển, mà ở đó con người thực sự là trung tâm, là động lực và
mục tiêu của phát triển xã hội bền vững.

Đại hội XI của Đảng chủ trương phát triển toàn diện, mạnh mẽ các lĩnh vực
văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế.
II. Quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi
mới.
II.1Một là kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực
xã hội có liên quan trực tiếp
 Mục tiêu phát triển phải tính đến tác động và hậu quả xã hội có thể xảy ra
để chủ động xử lí
 Phải tạo đực sự thống nhất ,đồng bộ giữa các chính sách kinh tế và chính
sách xã hội
 Sự kết hợp hai mục tiêu này phải được quán triệt ở tất cả các cấp, các
ngành,các địa phương ,ở tùng đơn vị cơ cấu kinh tế ở cơ sở


II.2 Hai là xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ, công bằng xã hộ trong từng chính sách phát triển
 Trong

từng chính sách phát triển ( của chính phủ, ngành, trung ương, địa
phương) cần đặt rõ và sử lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội
7


 Nhiệm

vụ gắn kết này không dừng lại như một khẩu hiệu mà được pháp
chế hóa thành các thể chế có tính cưỡng chế , buộc chủ thể phải thi hành
 Cơ quan , các hoach định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt

quan điểm phát triển bền vững , phát triển hải hòa,.... không chạy theo số lượng
tăng trưởng bằng mọi giá
II.3 Ba là chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế gắn bó
hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ




Chính sách xã hội cá vị trí vai trò độc lập tương đối so với kinh tế, nhưng không
thể tách rời trình đọ phát triển kinh tế , cũng không thể dựa vào viện trợ như
thời bao cấp
Trong chính sách xã hội phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ , giữa cống hiến
và hưởng thụ. Đó là một yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội; xóa bỏ
quản điểm bao cấp cào bằng; chấp dứt cơ chế xin-cho trong chính sách xã hội
II.4 Bốn là coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đàu người gắn với chi tiêu phát
triển con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội
Quan điểm này thể hiện mục tiêu cuối cùng và cao nhất trong sự phát triển
phải là vì con người vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,văn
minh. Phát triển bền vững không chạy theo tăng trưởng
II.5 Năm là coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đàu người gắn với chi tiêu phát
triển con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội
Quan điểm này thể hiện mục tiêu cuối cùng và cao nhất trong sự phát triển
phải là vì con người vì một xã hội dân giàu, nước mạnh ,công bằng , dân chủ
,văn minh. Phát triển bền vững không chạy theo tăng trưởng.

III. Những vấn đề cần giải quyết trước để giải quyết tốt các vấn đề xã hội
Đại hội IX của Đảng không nhắc lại các quan điểm chỉ đạo của Đại hội VIII,
nhưng nhấn mạnh “Thực hiện các chính sách xã hội, hướng vào phát triển và lành
mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát
triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan

8


hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp” và “Các chính sách xã hội
được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao tinh thần trách nhiệm của chính
quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân, các tổ chức xã hội” .
Đồng thời Đại hội IX cũng chỉ ra những nhiệm vụ, mục tiêu của từng lĩnh vực
cụ thể cần tập trung giải quyết trong những năm tới là: giải quyết việc làm là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính sách xã hội; Tiền lương và thu nhập; xoá
đói, giảm nghèo; đền ơn đáp nghĩa; uống nước nhớ nguồn; xây dựng cơ sở hạ tầng
xã hội; chính sách dân số; chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân; chính
sách chăm sóc và bảo vệ trẻ em; phong trào toàn dân tập luyện thể dục, thể thao;
phong trào toàn dân đấu tranh phòng chống tội phạm...
Trên cơ sở khái quát những thành tựu và hạn chế của 20 năm đổi mới, trong
đó có thành tựu và hạn chế của việc xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội, Đại
hội X của Đảng khẳng định quan điểm: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục
tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện
tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ,
cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển
kinh tế xã hội…. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”.
Do vậy để giải quyết tốt vấn đề hội nhập cần phải tập trung giải quyết các
vấn đề xã hội trước. Bởi, nếu giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nó sẽ phản ánh một
cách đầy đủ bản chất của một chế độ của con người, do con người và vì con người,
một thuộc tính cơ bản của CNXH, từ đó đề cao vai trò của Nhà nước, góp phần
thúc đẩy quá trình hội nhập của nước ta với các nước trên thế giới một cách nhanh
chóng và khăng khít, lâu dài.

9



Tất nhiên, để giải quyết tốt các vấn đề xã hội cần phải đề ra các chính sách xã
hội cụ thể để giải quyết các vấn đề thực tiễn trong đời sống. Để hoàn thiện được
vai trò đó, các chính sách xã hội phải có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách
kinh tế, bởi : trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính
sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế.
Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực
tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố quan trọng để
phát triển sản xuất. Do đó, cần phải có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác
định được những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng. Điều quan
trọng nhất, cần phải thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà
nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái
độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây
dựng, cần phải xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và hiệu quả các
chính sách xã hội. Vì vậy, để thực hiện tốt chính sách xã hội, phải tiến tới xóa bỏ
cơ sở kinh tế - xã hội của sự bất công xã hội, phải đấu tranh kiên quyết chống
những hiện tượng tiêu cực, làm cho những nguyên tắc công bằng xã hội và lối sống
lành mạnh được khẳng định trong cuộc sống hằng ngày của xã hội.


Nhà nước và Đảng cần tập trung vào các vấn đề : lao động và việc làm, ổn

định nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chăm lo người
có công với cách mạng, phòng chống các tệ nạn xã hội,….. Cụ thể :
 Khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả
các chính sách xoá đói giảm nghèo. Giảm khoảng cách phân hóa giàu nghèo và bất
công xã hội. Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực
phát triển.
 Tạo động lực làm giàu trong đông đảo cư dân bằng tài năng, sáng tạo của
bản thân trong khuân khổ của pháp luật và đạo đức cho phép

o Chính sách tài chính khiến khích các hộ cư dân , các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh làm giàu cho đất nước.
10


o

Tăng cường quản lí nguồn thu cải cách hành chính , đẩy mạnh công khai tài

chính và phát huy dân chủ cơ sở .
o Thực hành tiết kiệm chống lãng phí , chống tham nhũng , phân cách ngân
sách ,tăng quyền chủ động đối với các chính quyền địa phương.
 Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công
cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm
và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng văn hóa thông tin, thể dục thể thao.
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiếm y tế toàn dân. Đa dạng hóa các loại hình cứu
trợ xã hội... Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập.
 Phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân đều
được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.
 Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người
Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi.
 Áp lực gia tăng dân số và chất lượng dân số đang là cản trở lớn đối với mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy cần phải thực
hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
 Chú trọng chính sách ưu đãi xã hội. Vận động toàn dân tham gia các hoạt
động "đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn" đối với các lão thành cách mạng,
với những người có công với nước, người hưởng chỉnh sách xã hội. Chăm sóc lối
sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô dơn không nơi
nương tựa. Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang

thang.


Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng

phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công cộng, nâng
cao năng lực quản lý của Nhà nước.
 Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, phải nâng cao trình độ dân trí cho
người dân để người dân có tri thức. Đồng thời cũng phải thường xuyên nâng cao
chất lượng hệ thống giáo dục, đưa giáo dục và đào tạo tới khắp mọi miền đất nước.
Vì giáo dục là cách cơ bản để con người theo kịp xã hội.
11




Mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.

Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời
thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
 Đảm bảo việc làm cho người lao động là nhiệm vụ kinh tế-xã hội hàng đầu.
 Tạo việc làm và có chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm bằng
cách khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, khai thác mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế khác.
 Ban hành và thực hiện luật Lao động đảm bảo cho người lao động có thu
nhập thỏa đáng phụ thuộc trực tiếp vào kết quả lao động, có tác dụng khuyến khích
nhiệt tình lao động.
 Chăm sóc , bảo vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân. Trước mắt là tập
trung sức nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế và đạt được những tiến bộ rõ
rệt trong việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân

 Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ XHCN đối với toàn dân, tạo lập
nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách
mạng và những người gặp khó khăn.
 Điều chỉnh và bổ sung các chính sách, nhất là các vấn đề quan hệ tới lợi ích
thiết thân của mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội.
 Xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công
bằng xã hội trong từng chính sách phát triển .Cần đặt rõ và xử lí hợp lí việc gắn kết
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. không dừng lại ở khẩu
hiệu mà phải pháp chế hóa thành các thể chế có tính cưỡng chế buộc chủ thể phải
thi hành.
 Trong chính sách xã hội phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa công
hiến và hưởng thụ xóa bỏ quan điểm bao cấp, chấm dứt cơ chế xin- cho trong
chính sách xã hội.
 Đổi mới cơ chế quản lí và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
Phải giải quyết dứt khoát và cấp thiết chính sách xã hội bởi vì nó là nhiệm vụ
gắn bó hữu cơ với đổi mới kinh tế, vấn đề lao động, việc làm được giải quyết gắn
12


với phát triển nhiều thành phần kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân gắn với
thực hiện ba chương trình kinh tế lớn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB Chính

2.

trị Quốc gia

/>
3.
4.

quyt-cc-vn-x-hi-thi-k-i-mi
/> />
5.

giai-quyet-cac-van-de-xa-hoi-pdf.htm
/>
13


MỤC LỤC
I. Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội: .............2
I.1 Trước thời kì đổi mới ..................................................................................................... 2
a.) Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội.......................................2
b) Hạn chế và nguyên nhân................................................................................................. 2
I.2 Trong thời kì đổi mới....................................................................................................... 3
II. Quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi
mới................................................................................................................................................ 7

14


III. Những vấn đề cần giải quyết trước để giải quyết tốt các vấn đề xã hội của
nước ta..............................................................................................................8
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................13
MỤC LỤC .....................................................................................................14


15



×