Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Quá trình đổi mới nhận thức và quan điểm của đảng về việc giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới giáo dục – vấn đề trước mắt và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.54 KB, 18 trang )

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC – VẤN ĐỀ TRƯỚC MẮT VÀ GIẢI PHÁP
0
Page 1 of 17
CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VIỆC
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VIỆC


GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1 Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội
1.1.1 Đại hội VI
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-
12-1986 đã nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách với những nội dung bao trùm
mọi mặt của cuộc sống con người. Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh
đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là
một đoạn đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó
khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V đề ra. Đại hội cũng
nhận định rõ: Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng
chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất
cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm
được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn.
Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong những năm qua
việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có
nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến nhiều sai lầm “trong việc xác định mục tiêu và bước đi
về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế”. Đại hội
thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về


chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt
là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng:
• Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Page 2 of 17
• Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
• Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới.
• Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm
khuyết điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội
đề ra đường lối đổi mới, đó là:
• Đầu tiên, Đảng ta xác định cần đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp;
cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công
nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện).
• Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm;
chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
• Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế.
Qua đó, có thể thấy Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI đã tìm thấy lối thoát cho
cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, thống
nhất với mục tiêu phát triển kinh tế nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người, đặt
nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những
chủ trương, chính sách mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển,
giải phóng năng lực sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất.
1.1.2 Đại hội VII

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VII diễn ra trong bối cảnh đất nước đang thực
hiện công cuộc Đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI và đạt được
những thắng lợi bước đầu, được nhân dân và quốc tế ủng hộ. tình hình quốc tế và trong
nước lúc bấy giờ có nhiều biến chuyển, nhất là sự sụp đổ của khối Đông Âu và cuộc
khủng hỏang trầm trọng của Liên Xô.
Đại hội đã tổng kết đánh giá việc thực hiện đừơng lối đổi mới của đại hội VI, đề ra
chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được: chủ
trương tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội ngay trong từng bước và trong
Page 3 of 17
suốt quá trình phát triển; thực hiện nhiều hình thức phân phối khác nhau đảm bảo công
bằng xã hội khi phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện
cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình để làm giàu hợp
pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo; khắc phục khó khăn, yếu kém mắc phải
trong bước đầu đổi mới; ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó; điều
chỉnh bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất
nước tiến lên. Nội dung của Đại hội như sau:
• Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội: Bản
cương lĩnh này được thông qua tại Đại hội VII. Đây chính là tổng thể những điểm chủ yếu
về mục đích, đường lối, nhiệm vụ cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kì tiếp
tục đi lên đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường.
• Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: Do đổi mới đang
bước đầu thực hiện dù đã đạt nhiều thành tựu nhưng làn sóng đổi mới thái quá trên một số
lĩnh vực gây ra nguy cơ chệch hướng đi lên xã hội chủ nghĩa và sự cầm quyền của Đảng.
Trước làn sóng bất ổn kinh tế chính trị tại Đông Âu và Liên Xô, sự sụp đổ của Hệ thống
Xã hội chủ nghĩa và những bất ổn mới phát sinh trong quá trình đổi mới, Đại hội VII đã
thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 nhằm bình ổn
xã hội, phát triển đất nước đưa đất nước thóat ra khỏi khó khăn.
• Kế hoạch 5 năm 1991 – 1995 được đề ra xuất phát từ đặc điểm, tình hình, căn cứ
vào mục tiêu của chặng đường đầu thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VII đề ra
Kế hoạch 5 năm 1991 – 1995 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã

hội của Kế hoạch bao gồm:
Đẩy lùi và kiểm soát lạm phát
Ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội
Bước đầu ổn định và từng bước cải thiện đời sống văn hóa,, vật chất và văn hóa
của nhân dân lao động
Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ kinh tế
• Thông qua Báo cáo chính trị. Bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 146 ủy
viên chính thức và không có ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Đỗ Mười làm Tổng Bí thư
Page 4 of 17
Đây là kì Đại hội đầu tiên được diễn ra sau khi đất nước đã tiến hành đổi mới. Kế
hoạch 5 năm (1991 – 1995) do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của
sự nghiệp đổi mới.
1.1.3 Đại hội IX
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IX là đại hội đầu tiên trong thế kỉ XXI của Đảng,
diễn ra trong bối cảnh đất nước đã trải qua việc thực hiện công cuộc Đổi mới được đề ra
từ Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI hơn 15 năm và đạt được những thắng lợi to lớn,
được nhân dân và quốc tế ủng hộ.
Đại hội đã tổng kết đánh giá, kiểm điểm 15 năm thực hiện đừơng lối đổi mới của đại
hội VI và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội 8, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế
thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; điều chỉnh bổ sung, phát triển
đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên trong thời đại
mới. Xúât phát từ đặc điểm tình hình đất nước và quốc tế, Đại hội khẳng định tiếp tục
nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời đưa ra yêu cầu các chính sách xã
hội cần hướng vào phát triển và làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong
phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực
hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Bên
cạnh đó, Đại hội cũng đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 – 2010)
trong đó có kế hoạch 5 năm giai đoạn 2001 – 2005.



Kế hoạch 5 năm 2001 – 2005: Xuất phát từ đặc điểm, tình hình trong và ngoài
nước Đại hội IX đề ra Kế họach 5 năm 2001-2005 và quyết định:
Đưa đất nước thóat khỏi tình trạng kém phát triển.
Nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần nhân dân
Tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Thông qua Báo cáo chính trị. Bầu Ban chấp hành Trung ương (BCH TW) mới gồm
150 ủy viên chính thức và không có ủy viên dự khuyết, bầu Nông Đức Mạnh làm Tổng Bí
thư . Bầu Bộ chính trị gồm 15 thành viên và hủy bỏ chức danh Cố vấn BCH TW. Kế
họach 5 năm 2001-2005 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của sự
nghiệp đổi mới, bên cạnh đó, phát triển kinh tế vẫn giữ được nhịp độ cao, những mục tiêu
Page 5 of 17
chủ yếu của kế họach hòan thành vượt mức, kinh tế đối ngoại phát triển, khoa học công
nghệ, văn hóa xã hội phát triển, chính trị xã hội, quốc phòng an ninh cũng được củng cố,
quan hệ đối ngoại được mở rộng.
1.1.4 Đại hội X
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 18 đến
ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội gồm có những nội dung chính như sau:


Tập trung đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội IX của Đảng (2001-2005),
đồng thời nhìn lại những thành tựu và bài học trong 20 năm đổi mới.


Đại hội sẽ xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp lớn để phát triển
đất nước trong năm năm 2006-2010 trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại và xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững
mạnh cả về tư tưởng lẫn tổ chức và gắn bó sâu sắc hơn với nhân dân, có phương thức lãnh

đạo khoa học, xứng đáng với vai trò lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới.


Đại hội sẽ xem xét sửa đổi bổ sung một số điều của điều lệ Đảng, bầu ra BCHTƯ
khóa 10 nhiệm kỳ 2006-2010.


Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X: Hội nghị đã tập
trung thảo luận một số vấn đề chính: về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh
tế sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); về
Chiến lược biển; về phương hướng chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa XII; tiếp tục sắp xếp,
kiện toàn bộ máy tổ chức các ban đảng và cơ quan nhà nước. Liên quan đến vấn đề Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế
nước ta phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới”. Nghị quyết bao gồm 3 nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, những cơ hội và thách thức: Việc nước ta trở thành thành viên thứ 150
của WTO trước hết tạo ra cho đất nước ta cơ hội để phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn.
Đồng thời cũng đặt ra những thách thức rất gay gắt, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc của toàn
dân tộc để vượt qua.
Thứ hai, một số chủ trương, chính sách: Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng
ta về hội nhập kinh tế quốc tế là giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hội nhập
Page 6 of 17
vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên cơ sở hội nhập, cần thực hiện một
số chủ trương, chính sách lớn: tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức trong
toàn Ðảng toàn dân, toàn quân.
Thứ ba, tổ chức thực hiện: Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, Ban
Tư tưởng – Văn hoá Trung ương, văn phòng Trung ương Đảng và các tổ chức liên quan
phối hợp tổ chức thực hiện, bàn về Đề án Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Hội

nghị đã ra Nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Thành công của
Đại hội lần thứ X đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng mở ra giai đoạn phát triển
mạnh vaò đi vào chiều sâu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2 Quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội
1.2.1 Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
Về mối quan hệ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế, Đảng xác định: trình
độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những
mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế. Ngay trong khuôn khổ của hoạt
động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm, là một nhân tố quan trọng để phát triển sản xuất. Do đó, cần có chính sách xã
hội cơ bản, lâu dài và xác định được những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả
năng trong chặng đường đầu tiên. Đồng thời Đại hội đề ra yêu cầu: Cần thể hiện đầy đủ
trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế
và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố
con người trong sự nghiệp xây dựng nhấn mạnh cần phải xây dựng và tổ chức thực hiện
một cách thiết thực và có hiệu quả các chính sách xã hội. Để thực hiện tốt chính sách xã
hội, phải tiến tới xoá bỏ cơ sở kinh tế - xã hội của sự bất công xã hội, phải đấu tranh kiên
quyết chống những hiện tượng tiêu cực, làm cho những nguyên tắc công bằng xã hội và
lối sống lành mạnh được khẳng định trong cuộc sống hằng ngày của xã hội.
Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội có
liên quan trực tiếp và mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến các tác động và hậu quả xã
hội có thể xảy ra để chủ động xử lý. Phải tạo được sự thống nhất và đồng bộ giữa chính
Page 7 of 17
sách kinh tế và chính sách xã hội. Sự kết hợp giữa hai loại mục tiêu này phải được quán
triệt ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, ở từng đơn vị kinh tế cơ sở.
1.2.2 xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết với tăng trưởng kinh tế với tiến bộ,
công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển.
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội đang
là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Đặc biệt Việt

Nam là nước đang phát triển, chịu tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức thì mối quan hệ này càng trở nên
cấp thiết hơn bao giờ hết.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã xác định phải kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ xã hội. Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta về kết hợp hài hoà giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội được khẳng định trong hầu hết các văn
kiện đại hội Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Đại hội VIII của Đảng đã xác định:
“Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
và trong suốt quá trình phát triển”. Tiếp đến Đại hội X tái khẳng định quan điểm: “Kết
hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực,
địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển”.
• Trong từng bước và từng chính sách phát triển (của chính phủ,của ngành, của trung
ương hay địa phương), cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội.
• Nhiệm vụ “gắn kết” này phải được pháp chế hoá thành các thể chế có tính cưỡng
chế, buộc các chủ thể phải thi hành.
• Nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội trong vấn đề giải quyết bất công xã hội. “Có
chính sách điều tiết hợp lý đối với những người giàu; động viên các doanh nghiệp; các tổ
chức, cá nhân tự nguyện tham gia các hoạt động nhân đạo, ái hữu, từ thiện, giúp đỡ những
nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai, những người tàn tật, già cả, neo đơn,
không có khả năng lao động”.
Page 8 of 17
1.2.3 chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ
giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.
Chính sách xã hội có vai trò, vị trí độc lập tương đối so với kinh tế nhưng không thể
tách rời trình độ phát triển kinh tế, cũng không thể dựa vào viện trợ như thời bao cấp.
Trong chính sách xã hội, phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và
hưởng thụ. Đó là một yêu cầu công bằng xã hội và tiến bộ xã hội, xó bỏ quan điểm bao
cấp, cào bằng, chấm dứt cơ chế xin-cho trong chính sách xã hội.

1.2.4 GDP và HDI
Coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người với chỉ tiêu phát triển con người (HDI),
và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.
1.3 Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội
Từ những quan điểm nêu trên, Đại hội VI đã đề ra chủ trương về giải quyết các vấn
đề xã hội như: Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số, coi đây là một điều kiện quan trọng để
tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người, để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội;
Đảm bảo việc làm cho người lao động là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng đầu. Nhà nước cố
gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm bằng cách
khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh
tế khác, kể cả thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Ban hành và thực hiện Luật lao động;
Đảm bảo cho người lao động có thu nhập thoả đáng phụ thuộc trực tiếp vào kết quả lao
động, có tác dụng khuyến khích nhiệt tình lao động; Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức
khoẻ của nhân dân. Trước mắt là tập trung sức nâng cao chất lượng các hoạt động y tế và
đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc chăm sóc sức khoẻ của nhân dân; Từng bước xây
dựng chính sách bảo trợ xã hội XHCN đối với toàn dân, theo phương châm “nhà nước và
nhân dân cùng làm”, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người
có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Điều chỉnh, bổ sung các chính
sách, nhất là các vấn đề quan hệ tới lợi ích thiết thực của mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội,
cụ thể:
• Một là khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả
xóa đói giảm nghèo:
Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển.
Page 9 of 17
Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư bằng tài năng, sáng tạo của bản thân,
trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép.
Xây dựng và thực hiện có kết quả cao chương trình xóa đói giảm nghèo, đề phòng
tái đói,tái nghèo , nâng cao dần chuẩn đói nghèo khi mức sống chung tăng lên.
• Hai là bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo
việc làm và thu nhập, chăm lo sức khỏe cộng đồng



Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm.


Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nước và đẩy
mạnh xuất khẩu lao động.


Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và đổi mới chính sách tiền lương, phân phối
thu nhập xã hội công bằng, hợp lý hơn.


Ba là phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống y tế cơ
sở, quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối với các đối tượng chính sách , phát triển các dịch
vụ y tế cồn nghệ cao, các dịch vụ y tế ngoài công lập


Bốn là xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện giống nòi
bằng các biện pháp như quan tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản, giảm nhanh tỉ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng. Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, kiên trì phòng chống HIV/AIDS và các
tệ nạn xã hội.


Năm là thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình: Giảm tốc độ
tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý, xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bảo đảm bình đẳng giới, chống nạn bạo hành trong quan hệ gia
đình.



Sáu là chú trọng tới các chính sách ưu đãi xã hội


Bảy là đổi mới cơ chế quản lý và phương thức quản lý và phương thức cung ứng
các dịch vụ công cộng.
1.4 Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
1.4.1 Kết quả và ý nghĩa
Sau 20 năm đổi mới chính sách xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã thu được
những kết quả có ý nghĩa bước ngoặt, đó là:
• Từ tâm lí thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, vào tập thể, trông chờ vào viện trợ từ bên
ngoài đã được thay thế bằng sự chủ động, năng động và tích cực tham gia của tất cả các
tầng lớp dân cư.
Page 10 of 17
• Từ chỗ quá đề cao lợi ích tập thể một cách chung chung, trừu tượng, trên danh
nghĩa thi hành chính sách phân phối theo lao động nhưng thực tế là bình quân – cào bằng
đã từng bước chuyển sang thực hiện phân phối chủ yếu theo lao động và hiệu quả kinh tế,
đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất – kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội.
• Từ chỗ đặt không đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ
tương tác với các chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính
sách xã hội. Công bằng xã hội ngày càng được thể hiện rõ hơn; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội đã được thực hiện ngay trong từng bước phát
triển.
• Các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm thay cho sự
bao cấp của nhà nước trong việc giải quyết việc làm.
• Từ chỗ không chấp nhận phân hóa giàu nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người
dân làm giàu hợp pháp, đồng thời tích cực xóa đói giảm nghèo, coi việc có một bộ phận
dân cư làm giàu là cần thiết cho việc phát triển và được nhân dân đồng tình, được quốc tế
thừa nhận và nêu gương.
• Từ chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội “thuần nhất”, trong xã hội

chỉ còn có: giai cấp công nhân, nông dân tập thể và tầng lớp tri thức đã đi đến quan niệm
xây dựng được một cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư
đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng đất nước
Việt Nam giàu mạnh.
• Giáo dục – Đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng
đầu để phát triển. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân tạo điều kiện để ai cũng được học hành, chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế
cho người nghèo được thực hiện.
Qua đó, có thể thấy rằng sau hơn 20 năm đổi mới, lĩnh vực phát triển xã hội đã đạt
được nhiều thành tựu. Tính năng động xã hội khác hẳn thời kì bao cấp. Một xã hội mở
đang dần dần hình thành với những con người không chờ bao cấp, dám nghĩ, dám chịu
trách nhiệm, rủi ro, không chấp nhận đói nghèo, lạc hậu, biết làm giàu, biết cạnh tranh và
hành động vì cộng đồng, vì Tổ quốc.
1.4.2 Hạn chế
Page 11 of 17
• Áp lực gia tăng dân số còn lớn, chất lượng dân số còn thấp và là nhân tố cản trở
lớn đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh đó
vấn đề giải quyết việc làm vẫn còn bức xúc và nan giải.
• Sự phân hóa giàu – nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại.
• Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến rất phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an
sinh xã hội.
• Môi trường sinh thái bị ô nhiễm tiếp tục tăng thêm; tài nguyên thiên nhiên bị tàn
phá và khai thac bừa bãi.
• Hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập; an sinh xã hội chưa
được đảm bảo.
1.4.3 Nguyên nhân
Những mặt hạn chế trên đây là xuất phát từ các yếu tố:
• Tăng trưởng kinh tế vẫn tách rời mục tiêu và chính sách xã hội, chạy theo số
lượng, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững xã hội.
• Quản lí xã hội còn nhiều bất cập, không theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội.

Như vậy, sau 20 năm đổi mới chính sách xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã
thu được những kết quả có ý nghĩa bước ngoặc. Đặc biệt, những vấn đề xã hội đã
được Đại hội X nhận thức và giải quyết toàn diện hơn cả ở góc độ mục tiêu và hệ
thống giải pháp trong tổng thể các chính sách phát triển, mà ở đó con người thực sự
là trung tâm, là động lực và mục tiêu của sự phát triển. Thật vậy, đứng trước thời
đại khoa học – công nghệ đổi mới không ngừng, con người - Nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng XHCN cần phải được đào tạo trong một nền giáo dục
tiên tiến. Tầm quan trọng của giáo dục trong chiến lược phát triển xã hội của Đảng
trong thời kì đổi mới như thế nào, xin mời cô và các bạn theo dõi phần trình bày của
bạn Minh Trí.
CHƯƠNG II
GIÁO DỤC – VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG HÀNG ĐẦU CẦN GIẢI QUYẾT
2.1 Tầm quan trọng của giáo dục
Page 12 of 17
Giáo dục là một trong những vấn đề xã hội cần được quan tâm và đặt lên
hàng đầu. Quan điểm của Đảng trong việc ban hành các chính sách liên quan đến vấn đề
giáo dục được thể hiện ở mệnh đề: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.”( Văn kiện đại hội X)
Sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong quá trình chuyển đổi mô hình phát triển của đất
nước đóng vai trò hết sức quan trọng vì mục đích trực tiếp của giáo dục, đào tạo là tạo ra
nguồn lực lao động và quản lý phù hợp với yêu cầu của quá trình phát triển, … Nhà nước
nhận định rõ vấn đề chất lượng nguồn lực lao động và quản lý là khâu trung tâm có ý
nghĩa đột phá của công cuộc đổi mới hiện nay:


Thứ nhất, nước ta cần một lực lượng lao động có trình độ cao để sử dụng tài sản
nhân tạo và kỹ thuật sản xuất mới một cách hiệu quả. Và giáo dục chính là một công cụ
hữu hiệu để thực hiện điều này.



Thứ hai, mở mang ngoại thương tại Việt Nam sẽ dẫn đến việc phát triển các
phương pháp sản xuất hay mặt hàng tương đối dùng nhiều lao động chân tay. Để tránh
tình trạng như thế về lâu về dài, Việt Nam phải đầu tư nhiều vào việc giáo dục các thế hệ
sắp gia nhập lực lượng lao động.


Thứ ba, giáo dục và đào tạo tại Việt Nam đã trở thành lỗi thời so với các quốc gia
tiên tiến trên thế giới, chậm tiến và không thích hợp cho sản xuất trong khu vực tư. Vấn
đề cải tổ giáo dục rất cấp thiết.


Thứ tư, phát triển nhân lực qua giáo dục không chỉ là một phương tiện mà còn là
cứu cánh. Giáo dục sẽ giúp dân chúng Việt Nam hiểu biết hơn về các vấn đề như nhiệm
vụ đóng thuế, kiểm soát sinh đẻ và bảo vệ môi sinh để dẫn đến phát triển bền vững.
Với tư cách là những thành tố cơ bản của nền văn hoá, giáo dục - đào tạo có một vị
trí đặc biệt trong chiến lược phát triển đất nước. Nhận thức toàn diện và sâu sắc về vai trò,
nhiệm vụ, nội dung, qui luật vận động của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết, nhằm phát huy vai
trò là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của giáo
dục - đào tạo và KHCN ở nước ta hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng
Page 13 of 17
nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí,
phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước,
xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với
phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo
là đầu tư phát triển”.
Giáo dục ngày càng có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển nền sản xuất vật
chất của xã hội. Giáo dục - đào tạo hiện nay được đánh giá không phải là yếu tố phi sản

xuất, tách rời sản xuất mà là yếu tố bên trong, yếu tố cấu thành của nền sản xuất xã hội.
Không thể phát triển được lực lượng sản xuất nếu không đầu tư cho giáo dục - đào tạo và
khoa học – công nghệ, đầu tư vào nhân tố con người, nhân tố quyết định của lực lượng
sản xuất. Không thể xây dựng được quan hệ sản xuất lành mạnh nếu không nâng cao giác
ngộ lý tưởng chính trị, nâng cao trình độ học vấn, trình độ tổ chức và quản lý kinh tế - xã
hội cho đội ngũ lao động và quản lý lao động. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục - đào tạo và
khoa học – công nghệ là đầu tư cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư ngắn nhất và
tiết kiệm nhất để hiện đại hóa nền sản xuất xã hội và hiện đại hóa dân tộc.
Giáo dục – đào tạo không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất,
mà còn là cơ sở để xây dựng nền văn hoá tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa. Giáo dục
– đào tạo có tác dụng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng lối sống, đạo đức và
nhân cách mới của toàn bộ xã hội Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII nêu rõ: "Muốn tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát
huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững". Như vậy, phát triển giáo dục - đào tạo phải được coi là nền tảng và
động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi.
Tóm lại, ngày nay nhiều tri thức và công nghệ mới ra đời đòi hỏi quá trình giáo
dục phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, suốt đời đểmọi người có thể thích nghi
được với những biến đổi mới, thích ứng với nhịp độ và tốc độ của xã hội công nghiệp và
hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2 Nghị quyết và quyết định xây dựng ngành giáo dục qua từng thời kì trong tiến
trình đổi mới của Đảng
Page 14 of 17
Giai đoạn trước đổi mới, Đảng ta chưa ban hành nghị quyết trung ương nào có tính
chuyên đề về giáo dục và đào tạo. Ngày 11-1-1079 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 14-
NQ/TW về cải cách giáo dục, đặt nền móng cho công cuộc cải cách giáo dục của đất nước
trong những năm 80 của thế kỉ XX.
Nghị quyết đại hội VI đã xác định: giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách XHCN của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kĩ thuật đồng

bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của xã hội. Sự nghiệp giáo
dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên nghiệp, trực tiếp góp phần vào đổi mới công tác
quản lí kinh tế, xã hội.
Đến Nghị quyết Đại hội VII nêu rõ: mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và
có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng,
tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Ngày 14-1-1993, Đảng ban hành Nghị quyết số 04- NQ/HNTW “Về tiếp tục đổi
mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”, tập trung xem xét sâu rộng vấn đề giáo dục và đào
tạo và ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nghị quyết nêu rõ
tư tưởng mới hết sức quan trọng : đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Vì vậy, Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định: “Tăng dần tỉ trọng chi cho
ngành ngân sách cho giáo dục và đào tạo, huy động các nguồn đầu tư trong nhân dân,
viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay vốn của nước ngoài để phát triển giáo dục”.
Ngày 14-1-1993, Đảng ban hành Nghị quyết số 04- NQ/HNTW “Về tiếp tục đổi
mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”, tập trung xem xét sâu rộng vấn đề giáo dục và đào
tạo và ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nghị quyết nêu rõ
tư tưởng mới hết sức quan trọng : đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Vì vậy, Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định: “Tăng dần tỉ trọng chi cho
ngành ngân sách cho giáo dục và đào tạo, huy động các nguồn đầu tư trong nhân dân,
viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay vốn của nước ngoài để phát triển giáo dục”.
Đến đại hội VIII, Nghị quyết nhấn mạnh với nội dung chủ yếu: cùng với khoa học
và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
Page 15 of 17
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng
và phát huy hiệu quả.
Ngày 28-12-2000, Bộ chính trị ra Chỉ thị số 61-CT/TW “Về việc phổ cập trung học
cơ sở” yêu cầu: nhanh chóng xây dựng và thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trung học
cơ sở gắn với việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng cập
nhật những thành tựu mới nhất của khoa học – công nghệ, với yêu cầu phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước trong thời kì mở cửa, hội nhập, toàn cầu hóa, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tại đại hội IX, Nghị quyết nêu rõ: “…Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lí
giáo dục; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”.
Tại Đại hội X, Đảng chủ chương: đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cao. Có những điểm cần chú ý:
• Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lí,
nội dung, phương pháp dạy và học.
• Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở.
• Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.
• Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp.
• Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học.
• Đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học,
bậc học.
• Thực hiện xã hội hóa giáo dục.
• Đổi mới cơ chế quản lí giáo dục
• Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Bộ Chính trị định hướng chiến
lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các định
nhiệm vụ và mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2000: Tiến hành xây dựng chiến lược
giáo dục – đào tạo cho thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ban hành Luật giáo dục.
Ngày 5-3-2009, Bộ Chính trị (khóa X) đề ra phương hướng phát triển giáo dục –
đào tạo đến năm 2020 với mục tiêu nước ta có một nền giáo dục tiên tiến, đạm đà bản sắc
dân tộc, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế, cần thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục sau đây:
Page 16 of 17
• Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối
sống cho học sinh, sinh viên.
• Đổi mới mạnh mẽ quản lí nhà nước đối với giáo dục.

• Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu
cầu về chất lượng
• Tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục
• Tăng cường nguồn lực cho giáo dục
• Đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục
• Tăng cường hợp tác quốc tế và giáo dục – đào tạo
Qua đó ta thấy được sự quan tâm hàng đầu của Đảng về sự nghiệp đổi mới giáo
dục quốc gia. Các Nghị quyết lần lượt xác định nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục trong mỗi
thời kì, luôn chỉnh sửa kịp thời và không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục –
đào tạo.
Page 17 of 17

×