Tải bản đầy đủ (.pdf) (217 trang)

Quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 217 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ ĐỨC CẢNH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÁC TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI, 2016
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ ĐỨC CẢNH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÁC TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 62 34 04 03


LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS Vũ Trọng Hách
2. PGS.TS Trương Quốc Chính

HÀ NỘI, 2016
2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa
học nào. Những nội dung trong luận án có sử dụng tài liệu
tham khảo đều được trích dẫn nguồn một cách đầy đủ và
chính xác./.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Đức Cảnh

3


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

1.


An ninh trật tự

: ANTT

2.

Bộ Công an

: BCA

3.

Bộ Giáo dục và Đào tạo

: BGD&ĐT

4.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

: BLĐ,TB&XH

5.

Bộ luật hình sự

: BLHS

6.


Bộ luật tố tụng hình sự

: BLTTHS

7.

Công an

: CA

8.

Công an nhân dân

: CAND

9.

Công tác xã hội

: CTXH

10.

Học sinh

: HS

11.


Người chưa thành niên

: NCTN

12.

Quản lý nhà nước

: QLNN

13.

Tòa án nhân dân

: TAND

14.

Tổng cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp

: Tổng cục

15.

Trường giáo dưỡng

: TGD

16.


Ủy ban nhân dân

: UBND

17.

Vi phạm pháp luật

: VPPL

18.

Xử lý hành chính

: XLHC

19.

Xử lý vi phạm hành chính

: XLVPHC

4


MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.3. Nhận xét, đánh giá và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI CÁC TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
2.1. Một số khái niệm
2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
2.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng ở một số
quốc gia và bài học kinh nghiệm tham chiếu cho Việt Nam
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC
TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát về quá trình thành lập và phát triển của trường giáo dưỡng và
thực trạng học sinh ở các trường giáo dưỡng
3.2. Thực trạng thực hiện quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng
4.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

10
10
20
25

5

29
29
43
47
53
60
68
68
74
93
111
111
114
148


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Người chưa thành niên (NCTN) là niềm hy vọng của mỗi gia đình, là
chủ nhân tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đại đa số là người chưa thành niên tốt cũng có
không ít người chưa thành niên có biểu hiện suy đồi về lối sống, lệch chuẩn
về đạo đức, cá biệt có một bộ phận không nhỏ bước chân vào con đường vi
phạm pháp luật (VPPL). Tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật
ngày càng diễn biến phức tạp, đặc biệt số vụ phạm tội nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng gia tăng hàng năm và chiếm tỷ lệ cao
trong cơ cấu tội phạm, tính chất nguy hiểm, hậu quả gây ra cho xã hội ngày
càng lớn. Đáng chú ý là tình hình người chưa thành niên tụ tập thành băng
nhóm sử dụng dao, lê, mã tấu, kiếm…đâm chém, giết người, hiếp dâm, cướp
tài sản …, nhiều vụ gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nếu như trước đây
chủ yếu chỉ tại một số đô thị lớn mới tập trung, xảy ra nhiều trường hợp người
chưa thành niên vi phạm pháp luật thì đến nay đã lan rộng ra hầu hết các địa
bàn từ thành thị đến nông thôn. Hậu quả của việc người chưa thành niên vi
phạm pháp luật là rất nghiêm trọng, kéo dài và làm băng hoại các giá trị đạo
đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, do họ là những người chưa phát triển
toàn diện về thể chất và tinh thần, và phần lớn không nhận thức được hành vi
do họ gây ra; sau khi phạm tội, họ rất dễ bị mặc cảm, khó hòa nhập lại được
như ban đầu với bạn bè, gia đình và xã hội và nguy hiểm hơn là họ sẽ dễ dàng
hòa nhập, tìm được sự đồng cảm ở môi trường xấu, dễ dàng bị kích động, lôi
kéo phạm tội trở lại và với một tương lai dài ở phía trước thì gây ra hậu quả rất
nặng nề với bản thân, gia đình và xã hội.
Trước thực trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật như trên,
Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối, chính sách để quản lý,
6


giáo dục với mục đích giúp các em trở thành những công dân tốt cho xã hội.
Một trong những biện pháp để quản lý, giáo dục người chưa thành niên vi

phạm pháp luật là đưa vào trường giáo dưỡng (TGD). Trong các giai đoạn
lịch sử khác nhau, tên gọi của trường giáo dưỡng cũng khác nhau, ban đầu gọi
là trường Kim Đồng, sau đó đổi tên thành trường phổ thông công nông nghiệp
và hiện nay gọi là trường giáo dưỡng. Dù với tên gọi nào thì trường giáo
dưỡng cũng đã phát huy vai trò to lớn trong việc quản lý, giáo dục người chưa
thành niên vi phạm pháp luật và phòng ngừa tội phạm. Có thời điểm, các
trường giáo dưỡng phải tổ chức quản lý, giáo dục khoảng 3.500 học sinh
(HS). Tuy nhiên, sau khi áp dụng Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC)
thì số học sinh trường giáo dưỡng giảm đột ngột, năm 2015 chỉ còn khoảng
300 học sinh trong tất cả các trường giáo dưỡng. Trong khi đó, tội phạm và vi
phạm pháp luật đang ngày càng trẻ hóa, việc tìm cho được một mô hình nào
quản lý, giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên để không tiếp tục vi
phạm pháp luật nữa là một yêu cầu cấp bách không chỉ trong phạm vi một gia
đình, một thôn xóm, một làng bản, một khu phố, một địa phương mà là vấn đề
của cả quốc gia. Điều này đòi hỏi phải có sự trăn trở, sự cộng đồng trách
nhiệm cao của cả hệ thống chính trị, của tất cả người dân, những người có
trách nhiệm đối với xã hội, có trách nhiệm với một thế hệ mầm non tương lai
của đất nước nhưng chúng ta đang khủng hoảng trong cách quản lý, giáo dục.
Chúng ta không thể thờ ơ hay chạy theo những khẩu hiệu hô hào vô trách
nhiệm mà để cả một số lượng không nhỏ người chưa thành niên ngày càng đi
xuống ngược lại với xu hướng phát triển đất nước với việc xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Những quy định về quản lý nhà nước (QLNN) đối với trường giáo
dưỡng còn nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc quy định chi tiết thi
hành đó là, vấn đề luật hóa Hiến pháp năm 2013 vào các quy định trong quản
7


lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng; hoàn thiện các văn bản quy định
chi tiết Luật Xử lý vi phạm hành chính; sửa đổi các quy định tại các văn bản

luật khác nhau để thống nhất; sửa đổi, bổ sung thêm các quy định còn chưa phù
hợp trong tổ chức thực hiện biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng chưa được kiện toàn, chưa
chuyên nghiệp; gần như chỉ có BCA (BCA) thực hiện quản lý nhà nước đối với
các trường giáo dưỡng, các cơ quan hữu quan khác được Chính phủ giao phối
hợp với BCA dường như đang đứng ngoài cuộc, chưa có sự quan tâm đúng
mức dẫn đến mục tiêu của biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng chưa cao. Cán
bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng thì thiếu về số
lượng, phải kiêm nhiệm nhiều chức danh công việc khác, chưa có điều kiện tập
trung chuyên sâu vào mảng công tác này; chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức nghiệp vụ về lĩnh vực này, còn yếu về năng lực chuyên môn. Nội dung
chương trình quản lý, giáo dục học sinh tại trường giáo dưỡng còn chưa đáp
ứng được yêu cầu. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, hợp tác quốc tế chưa được
quan tâm đúng mức. Việc đầu tư và thu hút các nguồn lực cho hoạt động của
các trường giáo dưỡng để tổ chức quản lý, giáo dục học sinh còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra.
Về mặt lý luận, vấn đề liên quan đến trường giáo dưỡng cũng đã được
nghiên cứu nhiều nhưng với các cách tiếp cận chủ yếu là tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm, khoa học giáo dục như nghiên cứu nguyên nhân vi
phạm pháp luật, nâng cao chất lượng công tác quản lý, giáo dục học sinh...
Dưới góc độ khoa học về quản lý nhà nước từ trước đến nay chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này đặc biệt ở cấp độ tiến sĩ.
Với những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận án Tiến sĩ chuyên
ngành quản lý công.
8


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án nghiên cứu lý luận, thực tiễn quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng, tìm kiếm, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với trường giáo dưỡng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả tập trung làm tốt các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án để xác định những mặt thành công, mức độ thành công; những quan
điểm, luận điểm đã được thừa nhận rộng rãi; cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu đã được sử dụng; những vấn đề còn tồn tại, chưa được giải quyết
của những công trình khoa học đã được công bố liên quan mật thiết đến đề tài
luận án hoặc liên quan mật thiết đến các vấn đề cần được đề cập trong luận
án. Xác định những vấn đề Luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
+ Hệ thống hóa những lý luận cơ bản liên quan đến quản lý nhà nước
đối với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam.
+ Điều tra, khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, tìm ra ưu, nhược
điểm và nguyên nhân của những bất cập trong hoạt động quản lý nhà nước đối
với các trường giáo dưỡng thời gian qua, từ năm 2002 đến nay.
+ Xác định phương hướng, đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước
đối với trường giáo dưỡng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động quản lý nhà nước đối với
các trường giáo dưỡng.
9


3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý nhà
nước đối với trường giáo dưỡng trong thời gian qua.
Về không gian: Tất cả các trường giáo dưỡng trên phạm vi toàn quốc.

Về thời gian: Phần đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối
với trường giáo dưỡng, Luận án khảo sát từ năm 2002 (từ thời điểm Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số
44/2002/UBTVQH10) đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý, giáo dục, phòng ngừa; bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thông qua các phương pháp như
phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa các tri thức đã có
trong các tài liệu về quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng; nghiên
cứu các công trình khoa học liên quan đến đề tài trong và ngoài nước gắn với
những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa ra các luận cứ lý luận của
vấn đề nghiên cứu; nghiên cứu, đánh giá các báo cáo tổng kết trong công tác
quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng để làm sáng tỏ phần thực trạng.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu các báo cáo tổng kết của
các đơn vị chức năng, các trường giáo dưỡng để làm rõ thực trạng hoạt động
quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng trong thời gian qua.
10


- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Thiết kế các phiếu điều tra để thu thập thông tin làm rõ thực trạng hoạt
động quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng đồng thời có đánh giá bước
đầu về tính khả thi, hiệu quả của các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước trong thời gian tới.
- Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia: Trực tiếp tham khảo ý

kiến của chuyên gia có nhiều kinh nghiệm đang công tác trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng và tại các trường giáo
dưỡng; các nhà khoa học về quản lý nhà nước và giáo dục lại.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng là
gì? Những yếu tố nào tác động đến quản lý nhà nước đối với các trường giáo
dưỡng ở Việt Nam hiện nay?
- Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
như thế nào? Những kết quả đạt được, những vấn đề nào còn hạn chế, nguyên
nhân của những kết quả đạt được và của những hạn chế là gì?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Trường giáo dưỡng có vai trò không thể thiếu ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trường giáo
dưỡng chưa đầy đủ và còn nhiều bất cập.
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước chưa được kiện toàn.
- Cơ sở vật chất và hoạt động hợp tác quốc tế chưa được quan tâm đúng mức.

11


- Hoạt động thanh tra, kiểm tra còn bị buông lỏng.
- Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước phải tiếp tục tăng cường quản lý
đối với các trường giáo dưỡng.
6. Những đóng góp mới của đề tài luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn
diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng. Kết quả nghiên cứu đã có những đóng góp mới sau:
6.1. Về mặt lý luận

- Tiếp cận từ góc độ quyền con người, quyền công dân, quyền trẻ em,
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em kết hợp với tiếp cận từ góc độ thực thi
chế tài pháp luật hình sự và pháp luật hành chính, luận án nghiên cứu một
cách toàn diện các vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với trường giáo
dưỡng, một loại trường chuyên biệt có nhiệm vụ quản lý, giáo dục người chưa
thành niên vi phạm pháp luật. Trên cơ sở phân tích về mặt khoa học, pháp lý,
thực tiễn và chọn lọc tiếp thu quan điểm các công trình đã được công bố, luận
án đã đưa ra khái niệm trường giáo dưỡng, đặc điểm trường giáo dưỡng và lần
đầu tiên xây dựng một khái niệm toàn diện về quản lý nhà nước đối với
trường giáo dưỡng, chỉ ra, phân tích thấu đáo các đặc điểm quản lý nhà nước
đối với các trường giáo dưỡng.
- Luận án luận giải một cách có hệ thống sự cần thiết phải quản lý nhà
nước đối với các trường giáo dưỡng, nội dung, chủ thể, những yếu tố tác động
đến quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng. Luận án đã nghiên cứu
kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về quản lý, giáo dục trẻ em vi
phạm pháp luật và rút ra bài học kinh nghiệm có thể vận dụng cho Việt Nam.
6.2. Về mặt thực tiễn
12


- Căn cứ vào nội dung quản lý nhà nước và các yếu tố tác động đến
quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng ở Chương 2, luận án đã phân
tích, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ về thực trạng hoạt động quản lý nhà
nước đối với các trường giáo dưỡng hiện nay, qua đó xác định rõ những kết
quả đã đạt được, đặc biệt là chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của
những ưu điểm cũng như hạn chế, bất cập trong quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng. Đây chính là cơ sở thực tiễn để luận án đề xuất giải pháp
nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam.
- Xác định phương hướng phát triển của quản lý nhà nước đối với
trường giáo dưỡng và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường quản

lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, hoàn
thiện lý thuyết quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về thi hành án hình sự,
quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có ý nghĩa
quan trọng đối với xây dựng chính sách, pháp luật phù hợp nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng ở Việt
Nam trong thời gian tới.
- Về thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các chương trình cử nhân, sau đại học trong các cơ sở đào tạo luật, hành chính và
Công an nhân dân (CAND). Kết quả của luận án còn là tài liệu tham khảo bổ
ích trong lĩnh vực hoạt động thực tiễn như bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em,
giáo dục, xử lý trẻ em vi phạm pháp luật.
8. Kết cấu của luận án

13


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án có kết cấu 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với các trường
giáo dưỡng ở Việt Nam
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
ở Việt Nam hiện nay
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

14



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.1. Những công trình khoa học trong nước có liên quan đến đề tài
luận án
1.1.1.1. Những công trình khoa học về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em
Kết quả nghiên cứu được trình bày tại cuốn sách chuyên khảo “Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em trong thời kỳ mới” [40] đã đưa ra khái niệm và
phân loại trẻ em làm trái pháp luật là một dạng của trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn; đã đánh giá thực trạng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,
đó là những những trẻ em dễ có nguy cơ vi phạm pháp luật như trẻ em lang
thang, cơ nhỡ, trẻ em nghiện ma túy cũng như đánh giá thực trạng trẻ em
VPPL…; điều kiện hoàn cảnh, công tác giáo dục, chăm sóc sức khỏe và
nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan dẫn đến tình hình trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn. Nghiên cứu các mô hình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn ở Việt Nam, tuy nhiên đề tài đã không nghiên cứu và không
đưa ra mô hình chăm sóc, giáo dục trẻ em VPPL. Đề tài cũng làm rõ kinh
nghiệm của các nước trên thế giới trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ
em, trong đó đáng chú ý là kinh nghiệm của Trung Quốc trong vấn đề xử lý,

15


quản lý, giáo dục trẻ em VPPL, kết quả nghiên cứu cho thấy phần nhiều trẻ
em làm trái pháp luật tại Trung Quốc được giáo dục trong hệ thống TGD.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng đã đưa ra các phương pháp tiếp cận

và giải quyết những vấn đề đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thể
hiện ở một số định hướng là: Phòng ngừa là chính; gắn mục tiêu bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội; gắn phát triển nguồn nhân lực với công tác chăm sóc, bảo vệ
và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, coi trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn là một bộ phận của phát triển nguồn nhân lực; xã hội hóa
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;
nâng cao vai trò quản lý của các cấp chính quyền, nhất là cấp cơ sở, trong
việc chỉ đạo, xác định mục tiêu, kế hoạch, bố trí nguồn lực, tạo môi trường
thuận lợi cho cộng đồng, các cấp, các ngành thực hiện mục tiêu bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; thực hiện bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại gia đình và
cộng đồng là chính. Đây là những định hướng có giá trị tham khảo rất cao cho
luận án trong việc đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với các TGD.
Trên cơ sở những định hướng như trên, đề tài đã xây dựng các mục
tiêu và các giải pháp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, trong đó liên quan đến Luận án đáng chú ý là giải pháp “Tăng
cường pháp chế và các biện pháp đặc biệt”, đó là tăng cường hiệu lực của các
luật đã ban hành; có quy định trách nhiệm gánh chịu của cha, mẹ đối với trẻ
em làm trái pháp luật, trẻ em nghiện ma túy…: Cha, mẹ chịu XPHC hoặc phải
chịu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi của con mình, hoặc nghỉ việc
ở nhà để dạy con… Tuy nhiên đây chỉ là những quan điểm mang tính chất
kiến nghị, gợi ý, còn để triển khai trong thực tiễn thì còn nhiều vấn đề phải
bàn, nghiên cứu do các giải pháp trên chỉ mang tính chất giải quyết chính sách
16


xã hội, tham chiếu với các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành thì còn
nhiều điểm chưa phù hợp. Mặc dù đề tài không đi sâu nghiên cứu các giải
pháp quản lý, giáo dục trẻ em VPPL nhưng cũng đã đưa ra bức tranh thực tiễn

tổng thể về mô hình bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn ở nước ta, đây chính là hệ thống phòng ngừa trẻ em VPPL quan
trọng ở nước ta hiện nay.
Bài viết chuyên đề “Kinh nghiệm của một số nước về hệ thống bảo vệ
trẻ em” [13], khảo sát thực tế ở Australia, Thuỵ Điển, Hồng Kông cho thấy
việc hình thành hệ thống bảo vệ trẻ em liên quan rất nhiều đến các quy định
của pháp luật và chính sách hiện hành. Trong việc xây dựng hệ thống luật
pháp chính sách liên quan đến phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em, Luật pháp
không chỉ quy định quyền của trẻ em, trách nhiệm của các cơ quan tổ chức, cá
nhân trong việc thực hiện mà còn quy định rất cụ thể về các biện pháp thúc
đẩy thực hiện quyền được bảo vệ, quyền sinh tồn của trẻ em. Luật pháp cũng
xác định địa vị pháp lí, trách nhiệm và quyền hạn của nhân viên công tác xã
hội rất rõ ràng, mọi vấn đề liên quan đến trẻ em đều phải có tiếng nói của cán
bộ CTXH. Trong các trường hợp tách con ra khỏi cha mẹ, người chăm sóc
hoặc xử lí trẻ em VPPL, tiếng nói của nhân viên CTXH thường giữ vai trò
quyết định. Tương tự như vậy trong hệ thống luật pháp, chính sách về trẻ em
hay quyền trẻ em các quốc gia này đều quy định cụ thể về việc hình thành và
trách nhiệm của các Trung tâm CTXH với việc bảo vệ chăm sóc trẻ em, nhất
là nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và nhóm trẻ em có nguy cơ bị tổn hại;
quy định về các hình thức chăm sóc thay thế, chính sách trợ giúp các gia đình,
cá nhân nhận chăm sóc thay thế, quy trình nhận chăm sóc thay thế, trách
nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc thực hiện các quyền của trẻ
em…Những kinh nghiệm trên cần được nghiên cứu để vận dụng phù hợp vào
điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Một nội dung khác cũng được hệ thống luật
17


pháp, chính sách quy định rất cụ thể đó là tư pháp thân thiện với trẻ em, ví dụ
như khi trẻ em VPPL thì áp dụng các hình thức điều tra, xét hỏi, xử lí tại toà
án như thế nào để không gây tổn hại cho trẻ em hay trong trường hợp trẻ em

là nạn nhân của các hành vi bạo lực, xâm hại. Một số nước có phòng điều tra
xét hỏi riêng, toà án gia đình và trẻ em riêng để chuyên điều tra, xét hỏi và
phán quyết đối với trẻ em phạm tội hoặc trẻ em là nạn nhân của các hành vi
xâm hại, bạo lực.
1.1.1.2. Những công trình khoa học liên quan đến quản lý, giáo dục học
sinh trường giáo dưỡng
- Luận án Tiến sĩ “Nguồn gốc xã hội của việc VPPL ở NCTN hiện nay”
(nghiên cứu trường hợp NCTN VPPL tại ba TGD số 1, số 2 và số 4 thuộc
BCA) [41]. Luận án đã nghiên cứu với số mẫu là 300 em từ đủ 14 đến dưới
18 tuổi VPPL và buộc phải đưa vào TGD, tìm hiểu ảnh hưởng của gia đình,
nhà trường và cộng đồng (nơi cư trú) tới hành vi VPPL ở NCTN. Tác giả đã
khảo sát, đánh giá về thực trạng VPPL của NCTN trong đó đã làm rõ về tình
trạng VPPL của NCTN và đặc điểm xã hội của NCTN VPPL. Trên cơ sở kết
quả điều tra xã hội học, tác giả đã phân tích, đánh giá chính xác tác động của
các nhân tố xã hội (gia đình, nhà trường và cộng đồng) đến hành vi VPPL của
NCTN. Luận án cũng đã có 02 khuyến nghị nhằm hạn chế nguyên nhân dẫn
đến hành vi VPPL của NCTN. Khuyến nghị thứ nhất về “Hoàn thiện và tổ
chức thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội hệ thống pháp luật”, đối với
hoạt động lập pháp, tác giả đã kiến nghị bổ sung, hoàn thiện các quy định của
pháp luật nhằm đảm bảo các quyền và phúc lợi cho NCTN, phòng ngừa các
hành vi đối xử tàn nhẫn, lạm dụng, bóc lột và sử dụng NCTN vào các hoạt
động VPPL; về mặt hành pháp, tác giả đề nghị thành lập, mở rộng các trung
tâm hướng nghiệp, dạy nghề cho NCTN nói chung, NCTN có nguy cơ và
NCTN đã có hành vi VPPL, tăng cường vai trò QLNN trong việc giải quyết
18


tình trạng trẻ em lang thang, tạo công ăn việc làm…; đối với hoạt động tư
pháp, tác giả kiến nghị cần hoàn thiện kiến thức về chăm sóc giáo dục trẻ em
đối với cán bộ thi hành pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố,

xét xử để xử lý nghiêm các hành vi VPPL của trẻ em để làm gương cho
những người khác. Khuyến nghị thứ 2 về “Nâng cao hơn nữa vai trò chăm sóc
giáo dục NCTN”, tác giả đã đề cập đến trách nhiệm của 03 yếu tố xã hội được
nghiên cứu trong Luận án ảnh hưởng đến hành vi VPPL của NCTN là gia
đình, nhà trường và cộng đồng, trong đó đề cập đến việc kết hợp cả 03 yếu tố
trên như là một điều kiện tiên quyết để phát hiện, xóa bỏ nguyên nhân dẫn
đến hành vi VPPL của NCTN. Những khuyến nghị này góp phần gợi mở
những giải pháp trong luận án liên quan đến đối tượng đưa vào TGD, quản lý,
giáo dục, dạy nghề cho HS TGD và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong các TGD.
- Luận án Tiến sĩ “Vận dụng lý luận của A.S. Makarenko vào công tác
giáo dục tại các TGD” [29]. Luận án đã nghiên cứu lý luận của A.S.
Makarenko về 03 góc độ là chủ nghĩa nhân đạo, giáo dục tập thể, giáo dục lao
động; tổ chức khảo sát sự tiếp cận lý luận giáo dục của A.S. Makarenko trong
các TGD cho thấy việc nghiên cứu, áp dụng lý luận giáo dục của A.S.
Makarenko vào công tác giáo dục tại các TGD đã được Đảng, Nhà nước ta
quan tâm từ rất sớm và được thể chế hóa thành Quyết định số 217/TTg-NC
ngày 18/12/1967, làm cơ sở pháp lý để BCA tổ chức các lớp tập huấn, bồi
dưỡng. Các TGD vận dụng lý luận lý luận giáo dục của Makarenko thể hiện ở
những biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục gồm: Xây dựng tổ chức và cơ
chế hoạt động tự quản của HS TGD; biện pháp kết hợp đúng đắn lòng tin và
sự tôn trọng đối với HS trong quá trình giáo dục; biện pháp tiến hành giáo dục
đồng bộ (dạy văn hóa, vui chơi, thể dục thể thao, văn nghệ); biện pháp chuẩn
bị cho học sinh hòa nhập xã hội. Luận án cũng kiến nghị, đề xuất những vấn
19


đề cụ thể đối với TGD, BCA và với các Bộ, Ngành liên quan nhằm xây dựng
đội ngũ giáo viên, đầu tư cơ sở vật chất, mở rộng nghiên cứu về lý thuyết giáo
dục lại nói chung và lý luận giáo dục của A.S. Makarenko nói riêng. Những

giải pháp này có giá trị tham khảo quan trọng trong việc đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với các TGD trong thời gian tới ở Việt
Nam nhất là trong lĩnh vực xây dựng đội ngũ giáo viên và sửa đổi các chương
trình giáo dục cho HS TGD.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Giải pháp quản lý, giáo dục NCTN phạm
pháp đã sử dụng chất ma túy học tại TGD số 4” [12]. Tác giả đề tài đã đánh
giá sâu sắc, chính xác về thực trạng NCTN phạm pháp đã sử dụng chất ma túy
học tại TGD số 4, tính đến ngày 30/10/1997 gồm các đặc điểm liên quan như
độ tuổi, trình độ văn hóa, tính chất vi phạm, hành vi sử dụng chất ma túy,
nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, diễn biến trong quá trình hoạt động, học tập,
rèn luyện. Từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa ngăn chặn gồm: 1) Nâng cao
nhận thức của cán bộ giáo viên về vấn đề ma túy và giáo dục phòng chống ma
túy; 2) Đa dạng các hình thức quản lý đối với NCTN phạm pháp đã sử dụng
chất ma túy học tại TGD số 4; 3) Đề ra các biện pháp, nội dung giáo dục đối
với NCTN phạm pháp đã sử dụng chất ma túy học tại TGD số 4 (hiểu biết,
nhận biết người đã sử dụng ma túy để có biện pháp kiềm chế, cắt cơn nghiện,
điều trị và ngăn chặn các hành vi sai phạm); 4) Giáo dục đạo đức và pháp luật
về vấn đề ma túy ở các lớp văn hóa. Đề tài cũng kiến nghị cần thiết sớm đưa
NCTN sử dụng may túy vào TGD để quản lý, giáo dục. Những kết quả nghiên
cứu của đề tài là những luận cứ khoa học quan trọng để đề xuất sửa đổi đối
tượng đưa vào TGD.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Một số đặc điểm tâm lý và phương pháp
giáo dục vị thành niên phạm pháp đang học tại TGD số 4” [65]. Đề tài đã làm
rõ những vấn đề lý luận về tâm lý NCTN, tâm lý tội phạm làm cơ sở để đánh
20


giá, nghiên cứu đặc điểm tâm lý HS đang học tập tại TGD số 4, đó là động cơ,
nhu cầu sai lệnh, xu hướng nhân cách giảm sút, năng lực phát triển theo chiều
hướng có hại, tính cách phi đạo đức, thiếu tình cảm lành mạnh, thị hiếu thẩm

mỹ lệnh lạc. Trên cơ sở đặc điểm tâm lý của HS, đề tài đề ra một số phương
pháp giáo dục cơ bản gồm các nhóm giải pháp thuyết phục, nhóm giải pháp tổ
chức hoạt động, nhóm giải pháp khen thưởng và xử phạt và phương pháp giáo
dục trong tập thể. Đây là một căn cứ để luận án tiếp tục nghiên cứu đề xuất
hoàn hiện chương trình giáo dục cho HS TGD.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Vấn đề giáo dục đạo đức và pháp luật cho
NCTN phạm pháp tại TGD số 4” [23]; đã nghiên cứu thực trạng NCTN phạm
pháp và đề ra giải pháp giáo dục thích hợp nhằm đáp ứng với yêu cầu giáo
dục trong tình hình hiện nay, HS tăng nhanh, tính chất hành VPPL hết sức đa
dạng nghiêm trọng và phức tạp. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp thích hợp
để thực hiện những nội dung công tác tổ chức giáo dục; làm rõ những cơ sở lý
luận và thực tiễn về việc nghiên cứu đối tượng NCTN phạm pháp góp phần
vào đấu tranh phòng ngừa tội phạm và xây dựng lý luận nghiệp vụ ngành
Công an. Đề tài đã khẳng định tác dụng, vai trò phòng ngừa VPPL của các
chương trình giáo dục pháp luật, đạo đức mà BCA và BGD&ĐT phối hợp
ban hành.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Tổng kết 2 năm (1996-1997) thực hiện
Pháp lệnh XLVPHC và Nghị định số 33/CP về quản lý giáo dục NCTN phạm
pháp tại TGD số 4” [66]. Đề tài đã đi sâu làm rõ những kết quả đã đạt được và
cũng nêu lên những thiếu sót, tồn tại cần khắc phục trong tổ chức quản lý,
giáo dục HS tại TGD số 4 theo tinh thần Pháp lệnh xử xử vi phạm hành chính
năm 2005 và Nghị định số 33/CP ngày 14/4/1997 của Chính phủ ban hành
Quy chế về TGD. Đề tài đã xác định rõ mục đích của quản lý, giáo dục
NCTN VPPL là chính sách quan trọng và lâu dài của nước ta, vừa cải tạo
21


những NCTN VPPL trở thành những công dân tốt, đồng thời còn là biện pháp
phòng ngừa tội phạm phục vụ yêu cầu đấu tranh bảo vệ trật tự an toàn xã hội.
Xuất phát từ mục đích trên, đề tài đã đưa ra một số kiến nghị có liên quan trực

tiếp đến việc cải tiến công tác nhà trường, liên quan đến việc sửa đổi pháp
luật (chế tài áp dụng với 02 loại HS là loại có tiến bộ và loại không chấp
hành, thường xuyên vi phạm kỷ luật, lôi kéo bạn bè cùng vi phạm) và những
yêu cầu về mặt đầu tư của Nhà nước. Đề tài một lần nữa khẳng định chính
sách đưa NCTN VPPL vào TGD để quản lý, giáo dục đạt được 02 mục đích
là giúp NCTN thành công dân lương thiện và phòng ngừa tội phạm.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Biện pháp tái hòa nhập cộng đồng cho
NCTN đã qua TGD ở thành phố Hồ Chí Minh” [39]. Đề tài nghiên cứu, làm
rõ về các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng cho NCTN sau khi chấp hành
xong quyết định đưa vào TGD trở về địa phương tại thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2005-2009 của lực lượng Công an (trực tiếp là Cảnh sát khu vực); làm
rõ những vấn đề lý luận – pháp lý về công tác tái hòa nhập cộng đồng cho
NCTN đã qua TGD, đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp tái hòa nhập
cộng đồng cho NCTN đã qua TGD ở thành phố Hồ Chí Minh, từ đó có những
nhận xét đánh giá. Trên cơ sở đánh giá những tồn tại, hạn chế của các biện
pháp; dự báo tình hình, đặc điểm có liên quan đến NCTN đã qua TGD tái hòa
nhập cộng đồng ở thành phố Hồ Chí Minh, đề ra các biện pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng cho NCTN đã qua TGD ở
thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới gồm: Tăng cường công tác đánh
giá những tồn tại, hạn chế của các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng; tăng
cường công tác vận động quần chúng nhân dân, giáo dục đối tượng tham gia
quản lý, giáo dục giúp đỡ NCTN đã qua TGD trở về địa phương tái hòa nhập
cộng đồng; Cảnh sát khu vực cần tham mưu cho cấp ủy Đảng, cùng địa
phương, đề xuất các ngành, các cấp tạo điều kiện để bố trí sắp xếp việc làm
22


cho đối tượng là NCTN đã qua TGD trở về địa phương nhanh chóng tái hòa
nhập cộng đồng; chú trọng công tác xây dựng, củng cố và hoàn thiện lực
lượng Công an Phường mà trước hết là lực lượng Cảnh sát khu vực; tăng

cường mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát khu vực - CA phường
với lực lượng trinh sát CA quận, thành phố trong quản lý, giáo dục NCTN đã
qua TGD tái hòa nhập cộng đồng; tổ chức kĩ năng sống cho NCTN đã qua
TGD (xây dựng các chủ đề về kĩ năng sống cốt lõi cần thiết đối với NCTN đã
qua TGD, xây dựng các hoạt động gắn với chủ đề, phương pháp tổ chức hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho NCTN… (có phụ lục kèm theo). Tác giả
cũng đề xuất một số kiến nghị như: Nhà nước cần lập quỹ xã hội giúp NCTN
đã qua TGD, ban hành pháp lệnh hoặc Nghị định về tái hòa nhập cộng đồng
cho đối tượng tù, HS TGD, cơ sở giáo dục trở về địa phương. Mặc dù đề tài
không liên quan trực tiếp đến những vấn đề luận án nghiên cứu nhưng những
kết quả nghiên cứu của đề tài đặc biệt là những hạn chế của công tác tái hòa
nhập cộng đồng là một cơ sở để đánh giá những hạn chế của công tác giáo
dục trong các trường giáo dưỡng cũng như hạn chế của công tác phối hợp
giữa BCA và các ban ngành, địa phương trong việc tái hòa nhập cộng đồng
cho HS sau khi ra trường.
Sách chuyên khảo “Phòng ngừa thanh, thiếu niên phạm tội – Trách
nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội” [72] đã trình bầy những vấn đề cơ
bản như tình hình, nguyên nhân và kết quả đấu tranh, phương hướng và các
giải pháp phòng chống tội phạm thanh, thiếu niên, đấu tranh phòng, chống tội
phạm do NCTN gây ra, tội phạm và tệ nạn xã hội trong nhà trường… Cuốn
sách cũng đã có luận bàn về “Công tác quản lý, giáo dục trẻ em hư, phạm
pháp ở các TGD”. Sau khi đánh giá khái quát một số vấn đề về đặc điểm nhân
thân của các em HS TGD; kết quả các mặt công tác trong việc quản lý, giáo
dục HS của các TGD cả những mặt đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế,
23


đặc biệt tác giả đã có những nhận xét rất chuyên sâu như hoạt động của các
trường còn có tính biệt lập, chưa huy động được sự tham gia tích cực của toàn
xã hội và kết quả giáo dục ở trường không được thường xuyên củng cố khi

các em ra trường trở về với cuộc sống, nên tỷ lệ tái phạm còn cao (33,4%) do
nhiều nguyên nhân như: Gia đình ghét bỏ, xã hội thành kiến và có đến 81%
không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định. Tác giả cũng đã đề
xuất 04 kiến nghị nhằm tổ chức phòng ngừa, quản lý, giáo dục NCTN VPPL
gồm: 1) Thành lập hội đồng phòng ngừa thanh, thiếu niên phạm tội do Chính
phủ chủ trì; 2) Trẻ em từ 12 đến 16 tuổi VPPL cần được giáo dục trong một
hệ thống trường riêng do BCA quản lý; 3) Trẻ em hư từ 12 tuổi trở xuống cần
giáo dục tại địa phương do UBND phường, xã chủ trì; 4) Trẻ em lang thang,
không nơi nương tựa thì tổ chức thành trường hoặc làng do ngành Lao động,
thương binh và Xã hội quản lý. Những kết quả nghiên cứu trên có giá trị quan
trọng trong việc đề xuất thành lập các TGD cũng như quyết định cách thức
quản lý, giáo dục HS TGD, việc đầu tư và thu hút nguồn lực vào công tác
quản lý, giáo dục NCTN VPPL.
1.1.2. Những công trình khoa học liên quan đến quản lý nhà nước
đối với các trường giáo dưỡng
Giáo trình môn học QLNN về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
(dùng cho hệ Cao học Luật, chuyên ngành Tội phạm học và điều tra tội
phạm), Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2010. Trong đó, giáo trình đã
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về QLNN về an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội như: Khái niệm QLNN về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội;
mục tiêu, nội dung, đặc điểm QLNN về an ninh trật tự; tính chất, hình thức,
phương pháp QLNN về an ninh trật tự; nguyên tắc QLNN về an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội; những quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước
về bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Giáo trình cũng đã phân
24


tích khái niệm và các nội dung của QLNN về an ninh quốc gia, QLNN về trật
tự an toàn xã hội; trong đó các nội dung về QLNN về phòng chống tội phạm,
QLNN về phòng, chống tệ nạn xã hội, QLNN về giáo dục cải tạo phạm nhân.

Sách chuyên khảo “Bước đầu tìm hiểu QLNN về ANTT” [26] đã
nghiên cứu QLNN về ANTT trên 06 nội dung: Khái niệm, mục tiêu, nhiệm vụ
QLNN về ANTT; Đặc điểm và những nội dung cơ bản QLNN về ANTT; Chủ
thể, khách thể và đối tượng của QLNN về ANTT; Cơ sở pháp luật và một số
vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động QLNN về ANTT hiện nay; Một
số vấn đề thực tiễn bức xúc và Tăng cường hiệu quả QLNN về ANTT trong
tình hình mới. Cuốn sách chỉ tập trung giải quyết một số vấn đề có tính cơ
bản, mấu chốt của lý luận QLNN về ANTT, đồng thời phác học những nét cơ
bản nhất của thực trạng QLNN về ANTT. Phạm vi chủ yếu cũng chỉ tập trung
xem xét các vấn đề QLNN về ANTT đối với hoạt động của các lực lượng
trong Công an nhân dân, chủ thể nòng cốt, trực tiếp nhất được Nhà nước giao
nhiệm vụ trên lĩnh vực này.
Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số BC-1997-V26-197 “QLNN về công tác
thi hành án phạt tù” [30], mặc dù nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án phạt tù
những cũng có liên quan nhất định là là tài liệu tham khảo quý báu trong quá
trình nghiên cứu Luận án của Tác giả vì đối tượng bị áp dụng hình phạt thi
hành án phạt tù và đưa vào TGD đều là những người VPPL về ANTT; chủ thể
trực tiếp tiến hành hoạt động QLNN đều là Cục Cảnh sát Trại giam trước đây
và Tổng cục - BCA hiện nay thực hiện.
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
NCTN VPPL là một hiện tượng xã hội mà ở đất nước nào trên thế giới
cũng có. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề xã hội này là nhiệm vụ của tất cả các
quốc gia. Vấn đề quản lý, giáo dục NCTN VPPL được các nước, với chế độ
25


×