Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam hiện nay (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.04 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ ĐỨC CẢNH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÁC TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 62 34 04 03

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI, 2016

1


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên địa bàn cả nước, thời gian qua, tình trạng người chưa thành niên
(NCTN) vi phạm pháp luật (VPPL) ngày càng diễn biến phức tạp, có xu
hướng gia tăng, tính chất nguy hiểm, phức tạp ngày càng cao, hậu quả gây ra
cho xã hội ngày càng lớn. Nếu như trước đây người chưa thành niên vi phạm
pháp luật chủ yếu chỉ xảy ra tại một số đô thị lớn mới tập trung thì đến nay đã
lan rộng ra hầu hết các địa bàn từ thành thị đến nông thôn. Đảng, Nhà nước ta
đã có nhiều chủ trương, đường lối, chính sách để quản lý, giáo dục, phòng
ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật mà một trong những biện pháp
đó là đưa vào trường giáo dưỡng (TGD). Tuy nhiên, những quy định về quản
lý nhà nước (QLNN) đối với trường giáo dưỡng còn nhiều bất cập cần phải sửa


đổi, bổ sung, thay thế. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với trường giáo
dưỡng chưa được kiện toàn, chưa chuyên nghiệp. Cán bộ làm công tác quản lý
nhà nước đối với trường giáo dưỡng chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung chương
trình quản lý, giáo dục học sinh tại trường giáo dưỡng còn chưa đa dạng, chưa
mang lại hiệu quả như mong muốn, chưa sát với tình hình thực tế diễn biến có
sự thay đổi nhanh chóng. Hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa được quan tâm
đúng mức. Đầu tư và thu hút nguồn lực chưa đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra.
Về mặt lý luận, vấn đề trên cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ, thống
nhất. Đặc biệt, dưới góc độ khoa học về quản lý nhà nước từ trước đến nay
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này.
Với những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận án Tiến sĩ chuyên
ngành quản lý công.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những lý luận cơ bản liên quan đến quản lý nhà nước đối
với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam; đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước

2


đối với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam thời gian qua và đề xuất giải pháp
nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án. Xác định những vấn đề Luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết;
Nghiên cứu, hệ thống lại những vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà
nước đối với các trường giáo dưỡng là lý luận về khoa học quản lý, về tổ chức
thực hiện pháp luật, về khoa học giáo dục, tâm lý. Điều tra, khảo sát, phân
tích, đánh giá thực trạng, tìm ra ưu, nhược điểm và nguyên nhân của những

bất cập trong hoạt động quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng thời
gian từ năm 2002 đến nay. Đề xuất những vấn đề mang tính định hướng và giải
pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt
động quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn
hoạt động quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng trong thời gian
qua; khảo sát từ năm 2002 đến nay đối với tất cả các trường trên cả nước.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quản
lý, giáo dục người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp tổng kết thực tiễn;
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và Phương pháp tham khảo ý kiến
chuyên gia.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học

3


5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng là
gì? Những yếu tố nào tác động đến quản lý nhà nước đối với các trường giáo
dưỡng ở Việt Nam hiện nay?
- Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
như thế nào? Những kết quả đạt được, những vấn đề nào còn hạn chế, nguyên
nhân của những kết quả đạt được và của những hạn chế là gì?

5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Trường giáo dưỡng có vai trò không thể thiếu ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước chưa được kiện toàn.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trường giáo
dưỡng chưa đầy đủ và còn nhiều bất cập.
- Cơ sở vật chất và hoạt động hợp tác quốc tế chưa được quan tâm đúng mức.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra còn bị buông lỏng.
- Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước phải tiếp tục tăng cường quản lý
đối với các trường giáo dưỡng.
6. Những đóng góp mới của đề tài luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn
diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng. Kết quả nghiên cứu đã có những đóng góp mới sau:
6.1. Về mặt lý luận
- Tiếp cận từ góc độ quyền con người, quyền công dân, quyền trẻ em,
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em kết hợp với tiếp cận từ góc độ thực thi
chế tài pháp luật hình sự và pháp luật hành chính, luận án nghiên cứu một
cách toàn diện các vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với trường giáo
dưỡng, một loại trường chuyên biệt có nhiệm vụ quản lý, giáo dục người chưa

4


thành niên vi phạm pháp luật. Trên cơ sở phân tích về mặt khoa học, pháp lý,
thực tiễn và chọn lọc tiếp thu quan điểm các công trình đã được công bố, luận
án đã đưa ra khái niệm trường giáo dưỡng, đặc điểm trường giáo dưỡng và lần
đầu tiên xây dựng một khái niệm toàn diện về quản lý nhà nước đối với
trường giáo dưỡng, chỉ ra, phân tích thấu đáo các đặc điểm quản lý nhà nước
đối với các trường giáo dưỡng.

- Luận án luận giải một cách có hệ thống sự cần thiết phải quản lý nhà
nước đối với các trường giáo dưỡng, nội dung, chủ thể, những yếu tố tác động
đến quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng. Luận án đã nghiên cứu
kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về quản lý, giáo dục trẻ em vi
phạm pháp luật và rút ra bài học kinh nghiệm có thể vận dụng cho Việt Nam.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Căn cứ vào nội dung quản lý nhà nước và các yếu tố tác động đến
quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng ở Chương 2, luận án đã phân
tích, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ về thực trạng hoạt động quản lý nhà
nước đối với các trường giáo dưỡng hiện nay, qua đó xác định rõ những kết
quả đã đạt được, đặc biệt là chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của
những ưu điểm cũng như hạn chế, bất cập trong quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng. Đây chính là cơ sở thực tiễn để luận án đề xuất giải pháp
nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam.
- Xác định phương hướng phát triển của quản lý nhà nước đối với
trường giáo dưỡng và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường quản
lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, hoàn
thiện lý thuyết quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về thi hành án hình sự,

5


quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có ý nghĩa
quan trọng đối với xây dựng chính sách, pháp luật phù hợp nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng ở Việt
Nam trong thời gian tới.
- Về thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho

các chương trình cử nhân, sau đại học trong các cơ sở đào tạo luật, hành chính và
Công an nhân dân (CAND). Kết quả của luận án còn là tài liệu tham khảo bổ
ích trong lĩnh vực hoạt động thực tiễn như bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em,
giáo dục, xử lý trẻ em vi phạm pháp luật.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án có kết cấu 4 chương:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án có kết cấu 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với các trường
giáo dưỡng ở Việt Nam
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
ở Việt Nam hiện nay
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

6


Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.1. Những công trình khoa học trong nước có liên quan đến đề tài
luận án
1.1.1.1. Những công trình khoa học về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
1.1.1.2. Những công trình khoa học liên quan đến quản lý, giáo dục học
sinh trường giáo dưỡng
1.1.2. Những công trình khoa học liên quan đến quản lý nhà nước
đối với các trường giáo dưỡng
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

1.2.1. Những kết quả nghiên cứu liên quan đến quản lý, giáo dục
người chưa thành niên vi phạm pháp luật bị buộc phải học tập tại trường
giáo dưỡng
1.2.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước
đối với các trường giáo dưỡng
1.3. Nhận xét, đánh giá và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
1.3.1.Nhận xét chung
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu trên cho thấy luận án là công trình
khoa học về quản lý công đầu tiên nghiên cứu QLNN đối với các TGD, vì vậy
cần phải tiếp tục nghiên cứu những vấn đề sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận về QLNN đối với TGD
Tiến hành luận giải các khái niệm có liên quan để đưa ra được khái
niệm QLNN đối với các TGD đồng thời phải chỉ ra và phân tích những đặc
điểm, lý do phải tiến hành QLNN đối với TGD.
Trên cơ sở đó, luận án tập trung phân tích làm rõ các nội dung QLNN
đối với các TGD như: xây dựng chính sách, quy hoạch TGD; xây dựng và

7


hoàn thiện pháp luật trong hoạt động QLNN đối với TGD; tổ chức bộ máy và
nguồn nhân lực; đầu tư và thu hút nguồn lực và công tác thanh tra, kiểm tra.
Làm rõ những yếu tố tác động đến QLNN đối với TGD cũng như kinh
nghiệm của các nước trên thế giới trong QLNN đối với loại hình này.
Thứ hai, khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của hoạt động QLNN
đối với TGD ở Việt Nam hiện nay.
Dựa trên cơ sở lý luận của QLNN đối với các TGD, luận án sẽ phải
khảo sát, phân tích thực trạng QLNN đối với các TGD theo các nội dung của
QLNN đối với các TGD. Đồng thời, luận án phải tiến hành đánh giá để rút ra

những kết luận về thực trạng QLNN đối với TGD ở Việt Nam, chỉ ra những
kết quả đạt được, những hạn chế trong hoạt động QLNN đối với các TGD và
tìm ra nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như nguyên nhân của
những hạn chế đó.
Thứ ba, xây dựng phương hướng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện
QLNN đối với TGD ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trước khi đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
QLNN đối với các TGD, luận án phải xác định được phương hướng QLNN
đối với các TGD dựa trên cơ sở các quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước.
Trên cơ sở các phương hướng được xác định, các luận cứ khoa học, kết
quả đánh giá thực trạng hoạt động QLNN đối với TGD, luận án đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN đối với TGD. Các giải
pháp cần cụ thể, đồng bộ, toàn diện, có tính khả thi theo các nội dung của hoạt
động QLNN.

8


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua phân tích tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước cho thấy,
đề tài về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, NCTN nói riêng, đặc
biệt là quản lý, giáo dục đối với NCTN VPPL, đã được xem xét, nghiên cứu ở
các góc độ và phạm vi khác nhau. Ở Việt Nam đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu liên quan đến đề tài, trong đó những công trình phần nào đã
làm rõ được cơ sở lý luận, thực trạng quản lý, giáo dục NCTN VPPL; một số
nghiên cứu cũng đã có sự thống nhất ở mức độ nhất định khi đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục NCTN VPPL, quản lý, giáo dục với
HS trong các TGD. Ở nước ngoài, các nghiên cứu được thực hiện khá công
phu, tập trung vào những nội dung cơ bản trẻ em VPPL, các cơ chế quản lý,

giáo dục trẻ em VPPL.
Tuy nhiên, có những vấn đề liên quan đến đề tài luận án mà các công
trình nghiên cứu đã công bố chưa đề cập đến một cách chuyên sâu, toàn diện,
trong một thể thống nhất, cụ thể là khái niệm, đặc điểm của TGD; khái niệm,
đặc điểm của QLNN đối với các TGD; nội dung, chủ thể, các yếu tố tác động
đến QLNN đối với TGD ở Việt Nam. Ở Việt Nam mới có những công trình
nghiên cứu chuyên biệt đối với trẻ em hoặc NCTN VPPL; quản lý, giáo dục
HS trong các TGD, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu ở góc độ
QLNN đối với các TGD. Bên cạnh đó, nhiều công trình cũng đã đánh giá về
thực trạng, rút ra nguyên nhân và kiến nghị về giải pháp nâng cao hiệu quả
giáo dục NCTN VPPL nhưng chưa gắn với những mô hình quản lý, giáo dục
chuyên biệt đối với các loại đối tượng này như quy định của Luật XLVPHC,
Luật Giáo dục. Đây cũng chính là nội đung cơ bản mà luận án tập trung xem
xét, giải quyết những vấn đề lý luận, thực tiễn QLNN đối với các TGD trong
điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp
quyền.

9


Chương 2: Cơ sở lý luận của QLNN đối với các TGD ở Việt Nam
2.1. Những vấn đề lý luận chung
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhiệm vụ của trường giáo dưỡng
2.1.1.1. Khái niệm trường giáo dưỡng
TGD là loại hình trường chuyên biệt, nơi quản lý, giáo dục tập trung
NCTN có hành vi VPPL bị áp dụng biện pháp tư pháp hoặc biện pháp XLHC
đưa vào TGD, trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội.
2.1.1.2. Đặc điểm của TGD
- Trường giáo dưỡng là loại hình trường chuyên biệt, giáo dục trong
trường giáo dưỡng là hoạt động giáo dục lại.

- Học sinh TGD có đặc điểm khác học sinh các cơ sở giáo dục khác.
- Trường giáo dưỡng ngoài tổ chức dạy văn hóa, còn giáo dục về đạo
đức, lối sống, pháp luật, định hướng nghề nghiệp và dạy nghề cho học sinh.
- Trường giáo dưỡng tổ chức quản lý tập trung học sinh.
- Trường giáo dưỡng phải phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội, tạo
thành khâu đồng bộ, khép kín để quản lý, giáo dục học sinh hiệu quả.
2.1.2. Khái niệm và đặc điểm của quản lý nhà nước đối với các
trường giáo dưỡng
2.1.2.1. Khái niệm
QLNN đối với các TGD là việc BCA chủ trì, phối hợp với các cơ quan
hữu quan tác động đồng bộ, liên tục đến các TGD nhằm tổ chức quản lý, giáo
dục học sinh trở thành những công dân lương thiện, có ích cho xã hội và phòng
ngừa tội phạm.
2.1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với các TGD
- QLNN đối với các TGD mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức
cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước, tính cưỡng chế hành chính
bắt buộc thi hành.

10


- QLNN đối với các TGD vừa theo lãnh thổ hành chính, vừa theo
ngành, lĩnh vực chuyên môn
- QLNN đối với các TGD vừa thực hiện chức năng phòng, chống tội
phạm vừa thực hiện chức năng xã hội của nhà nước
- QLNN đối với các TGD có tính lịch sử, không phổ biến, không áp
dụng ở tất cả các quốc gia trên thế giới
2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
2.2.1. Nhằm bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên
2.2.2. Giáo dục người chưa thành niên vi phạm pháp luật trở thành

những công dân lương thiện, có ích cho xã hội
2.2.3. Phòng ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật
2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
2.3.1. Xây dựng chính sách và quy hoạch đối với các trường giáo dưỡng
2.3.2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đối với trường giáo dưỡng
2.3.3. Tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực
2.3.4. Đầu tư và huy động nguồn lực
2.3.5. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm các quy định đối với trường giáo dưỡng
2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với các trường
giáo dưỡng
2.4.1. Mức độ hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
2.4.2. Môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội
2.4.3. Hội nhập quốc tế
2.4.4. Sự quan tâm của Nhà nước và xã hội đến người chưa thành
niên vi phạm pháp luật
2.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng ở
một số quốc gia và bài học kinh nghiệm tham chiếu cho Việt Nam

11


2.5.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng ở
một số quốc gia
2.5.1.1. Cộng hòa Liên bang Nga
2.5.1.2. Trung Quốc
2.5.1.3. Cộng hòa Pháp
2.5.1.4. Mỹ
2.5.1.5. Hà Lan
2.5.2. Bài học kinh nghiệm tham chiếu cho Việt Nam

Thứ nhất: Mô hình TGD vẫn cần thiết cho Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay cũng như trong thời gian tới.
Thứ hai: Quy hoạch các TGD có thể theo địa giới hành chính. Quy mô
của các TGD nên nhỏ hơn quy định hiện nay; khi thành lập các TGD theo các
tỉnh hoặc khu vực địa lý phù hợp với quy mô nhỏ; địa điểm thành lập các
TGD không nên xa khu dân cư và gia đình họ.
Thứ ba: Cần nghiên cứu cho thành lập các “TGD tư” để tham gia quản
lý, giáo dục NCTN VPPL vừa phù hợp với chủ trương xã hội hóa các lĩnh vực
mà Nhà nước không nhất thiết phải quản lý.
Thứ tư: Chương trình giáo dục ở các TGD hiện nay cần được cải tiến
để phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, phù hợp với lứa tuổi HS.
Thứ năm: Đổi mới phương pháp quản lý HS theo hướng kết hợp hợp lý
giữa giam giữ “mở” và giam giữ “đóng”, nghiên cứu có thể cho học sinh về
thăm gia đình vào dịp cuối tuần khi được bố mẹ bảo lãnh.
Thứ sáu: Biên chế đội ngũ cán bộ, giáo viên TGD với cơ cấu hợp lý, đủ
số lượng và có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ TGD.
Thứ bảy: Nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc trong
việc quy định chủ thể có quyền đề xuất đưa vào TGD (cơ quan CA kết hợp
với gia đình, gia đình hoặc chỉ cơ quan CA) và sử dụng biện pháp tái hòa
nhập cộng đồng sau khi HS ra trường (có thể tham gia lực lượng quân đội).

12


TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
TGD là một mô hình trường giáo dục chuyên biệt, nơi tiếp nhận và
quản lý, giáo dục NCTN VPPL hình sự và pháp luật hành chính. TGD có
nhiệm vụ giáo dục NCTN VPPL để các đối tượng này rèn luyện, phát triển
lành mạnh, trở thành người lương thiện, có khả năng tái hòa nhập vào đời
sống xã hội. HS trong các TGD là đối tượng VPPL bị áp dụng biện pháp bắt

buộc đưa vào TGD, vì vậy, việc quản lý, giáo dục HS trong TGD khác với
các loại hình trường khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.
QLNN đối với TGD do BCA trực tiếp thực hiện trên cơ sở phối hợp
với nhiều bộ, ngành chức năng khác và chính quyền địa phương. QLNN đối
với các TGD là một dạng của QLNN, nên nó có những đặc điểm chung của
QLNN về ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, do đặc thù của đối tượng và khách thể
quản lý nên nó còn bị chi phối bởi các đặc điểm đặc thù khác như: mang tính
cưỡng chế cao; do BCA trực tiếp quản lý; vừa thực hiện chức năng bảo vệ
pháp luật vừa thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước, mang tính nhân văn
cao; là lĩnh vực QLNN không phổ biến, chỉ có ở một số quốc gia; có tính xã
hội hóa cao. QLNN đối với TGD là cần thiết vì mục đích cao nhất của quản lý
là nhằm bảo đảm tốt hơn cho việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhất
là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt - trẻ em VPPL, nhằm giúp họ rèn luyện, trở
thành người lương thiện, đủ điều kiện tái hòa nhập với đời sống xã hội.

13


Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các trường giáo
dưỡng ở Việt Nam
3.1. Khái quát về quá trình thành lập và phát triển của trường giáo
dưỡng và thực trạng học sinh ở các trường giáo dưỡng
3.1.1. Khái quát về quá trình thành lập và phát triển của trường giáo
dưỡng ở Việt Nam
3.1.2.Thực trạng học sinh ở các trường giáo dưỡng
Giai đoạn 2006 - 2010: 5 năm đã phát hiện 49.235 vụ gồm 75.594 em
vi phạm pháp luật; tăng 3.070 vụ = 6,7%. Giai đoạn 2011-2015 phát hiện
34.685 vụ gồm 59.562 đối tượng tham gia so với 5 năm cùng kỳ (2006- 2010)
giảm 12.965 vụ (18,5%), tuy nhiên số vụ án nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng có chiều hướng gia tăng.

Cùng với sự gia tăng về số lượng NCTN VPPL, số NCTN bị áp dụng
biện pháp đưa vào TGD cũng tăng lên. Từ năm 2002 đến tháng 6 năm 2013,
các TGD đã tiếp nhận 22.936 NCTN VPPL; năm 2014 tiếp nhận 417 học
sinh; năm 2015 tiếp nhận 187 học sinh). Năm 2015 số lượng học sinh trong
các TGD chỉ còn 251 học sinh.
Đặc điểm nổi bật của học sinh TGD là nhận thức hạn chế, có lối sống
tự do, buông thả, vô kỷ luật, thiếu sự quản lý, giáo dục của gia đình, sa vào tệ
nạn xã hội và nhiều thói quen xấu… khi vào TGD thường xuyên vi phạm nội
quy, chống phá, đánh nhau, trốn trường.
3.2. Thực trạng thực hiện quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
3.2.1. Xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chính sách và các văn
bản quy phạm pháp luật đối với các trường giáo dưỡng
3.2.1.1. Cơ quan quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
BCA thống nhất quản lý các TGD và tổ chức chỉ đạo Công an các đơn
vị, địa phương, các TGD trong phạm vi cả nước thực hiện biện pháp đưa vào

14


TGD. Ngoài ra, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
có trách nhiệm phối hợp với BCA trong quản lý TGD.
3.2.1.2. Đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tư pháp và đối tượng bị áp dụng biện
pháp XLHC đưa vào TGD. Những NCTN này thực ra đã có hành vi phạm tội
(nếu những người đã thành niên thực hiện các hành vi trên thì sẽ bị xử lý hình
sự, bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt). Việc không bị coi là tội phạm,
không phải chịu trách nhiệm hình sự vì Nhà nước có chính sách ưu tiên riêng
đối với NCTN.
3.2.1.3. Trình tự, thủ tục và thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng

Thẩm quyền: Thuộc TAND cấp huyện
Trình tự, thủ tục: Trong biện pháp tư pháp đưa vào TGD, việc lập hồ
sơ, khởi tố, truy tố NCTN thực hiện theo thủ tụng tố tụng hình sự do Cơ quan
điều tra trong Công an nhân dân và Viện Kiểm sát tiến hành theo thủ tục tổ
tụng hình sự. Trong biện pháp XLHC đưa vào TGD, trải qua 7 khâu thủ tục
kể từ khi cơ quan lập hồ sơ hoàn thiện hồ sơ thì NCTN bị áp dụng biện pháp
XLHC sẽ được đưa vào TGD.
3.2.1.4. Quy mô quản lý, giáo dục và phân vùng tiếp nhận học sinh của
các trường giáo dưỡng
TGD số 2 là 800 học sinh; TGD số 3 là 600 học sinh; TGD số 4 là 800
học sinh; TGD số 5 là 800 học sinh (đến ngày 26/5/2015, TGD số 5 bị giải
thể, học sinh được chuyển về TGD số 4 để tiếp tục quản lý, giáo dục). TGD
số 2 quản lý HS các tỉnh phía Bắc; TGD số 3 quản lý HS các tỉnh từ Quảng
Bình đến Gia Lai, Phú Yên; TGD số 4 quản lý HS các tỉnh từ Đắc Lắc, Khánh
Hòa trở vào và các tỉnh Đông Nam Bộ; TGD số 5 quản lý HS các tỉnh Tây
Nam Bộ. Sau khi giải thể TGD số 5, địa bàn tiếp nhận HS của TGD số 4 được

15


mở rộng, từ Đắc Lắc, Khánh Hòa trở vào hết các tỉnh phía Nam nhưng quy
mô của TGD số 4 vẫn giữ nguyên.
3.2.1.5. Giáo dục học sinh tại trường giáo dưỡng
Giáo dục học sinh trong TGD chính là tổ chức cho học sinh học tập văn
hóa, học nghề, sinh hoạt văn hóa, tinh thần… để NCTN được phát triển toàn
diện. HS được học văn hóa theo chương trình của BGD&ĐT. Việc học văn
hóa đối với học sinh chưa phổ cập giáo dục là bắt buộc. Đối với những học
sinh khác thì tùy theo khả năng và điều kiện thực tế của trường mà tổ chức
học tập. Về việc dạy nghề cho học sinh: Các nghề thường được tổ chức dạy
cho học sinh tại các TGD là Cơ khí, xây dựng, mộc, cắt may, cắt tóc, uốn sấy

tóc, sửa chữa xe máy, kỹ thuật hàn, điện dân dụng, nghề cắt tóc, điện tử…
3.2.1.6. Quản lý học sinh tại trường giáo dưỡng
HS phải học tập, lao động và sinh hoạt dưới sự quản lý, giám sát của
TGD. Căn cứ vào quy mô của từng lớp trong TGD, thời hạn chấp hành quyết
định, đặc điểm nhân thân, tính chất, mức độ vi phạm, tình trạng sức khoẻ, giới
tính, độ tuổi, trình độ học vấn của từng HS, Hiệu trưởng TGD sắp xếp họ vào
đội, lớp, tổ, nhóm cho phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục.
3.2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực
3.2.2.1. Tổ chức bộ máy
Tổng cục có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng BCA thực hiện công
tác QLNN thống nhất quản lý, chỉ đạo các TGD. Tổng cục đã được thành lập
các cục nghiệp vụ để giúp Tổng cục trưởng quản lý đối với các TGD. TGD do
Hiệu trưởng phụ trách, có 03 Phó Hiệu trưởng; ngoài ra ở mỗi phân hiệu có
01 Phó Hiệu trưởng. TGD là đơn vị dự toán cấp 3, có con dấu và tài khoản
riêng.
3.2.2.2. Nguồn nhân lực
Trong thời gian qua, các TGD đã có nhiều chuyển biến tích cực, vượt
qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Công tác quản lý, giáo dục được tập

16


trung nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động; nhận thức và hành động thực tiễn
của đội ngũ cán bộ, giáo viên đã có những tiến triển tích cực, toàn diện.
3.2.3. Đầu tư và thu hút nguồn lực
3.2.3.1. Đầu tư từ nguồn ngân sách hàng năm của Bộ Công an
BCA và lãnh đạo Tổng cục hiện nay đã quan tâm đầu tư, chỉ đạo các
đơn vị chức năng hỗ trợ để các TGD từng bước củng cố và nâng cao điều kiện
cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồng thời đảm bảo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt vật
chất cho cán bộ, chiến sĩ, HS đang công tác, học tập tại trường.

3.2.3.2. Thu hút nguồn lực
Đã kết hợp tốt các nguồn lực đầu tư trong nước, nội lực của các TGD
với tăng cường mở rộng quan hệ, hợp tác với các tổ chức quốc tế tại Việt
Nam nhằm tìm kiếm các nguồn lực hỗ trợ xây dựng, phát triển, đa dạng hóa,
hiện đại hóa các nội dung, chương trình công tác chăm sóc, giáo dục có chất
lượng, hiệu quả phù hợp với HS TGD cũng như đòi hỏi của xã hội.
3.2.4. Thực trạng các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo đối với các trường giáo dưỡng
Từ năm 2009 đến nay, sau khi triển khai Nghị định số 77/2009/NĐ-CP
ngày 15/9/2009 của Chính phủ (đã được thay thế bằng Nghị định
106/2014/NĐ-CP), thực tế không có đơn vị nào thuộc Tổng cục được chính
thức giao theo dõi, quản lý các TGD nên công tác kiểm tra bị sao nhãng. Theo
báo cáo của Cục Quản lý giáo dục và hòa nhập cộng đồng thì gần như từ năm
2009 đến nay không có đoàn công tác chính thức nào của Tổng cục đi kiểm
tra việc thực thi các quy định của pháp luật và BCA tại các TGD; việc quản lý
chủ yếu thông qua các báo cáo của các TGD.
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
3.3.1. Kết quả
Nhìn chung, trong thời gian qua, BCA đã thực hiện tốt chức năng
QLNN đối với các TGD.

17


3.3.2. Hạn chế
Một là, về xây dựng chính sách và quy hoạch đối với các TGD
Về cơ bản, chưa có chính sách mang tính đặc thù đối với TGD mặc dù
pháp luật đã xác định rất rõ TGD là loại hình trường chuyên biệt.
Công tác quy hoạch đối với các TGD đã quá cũ, được thực hiện theo
mô hình từ năm 1996 đến nay vẫn chưa có sự thay đổi

Hai là, trong việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật
Các văn bản pháp luật quy định về công tác TGD trong thời gian qua
liên tục thay đổi, sửa đổi, bổ sung nhiều lần nên thiếu tính ổn định.
Chương trình dạy văn hóa và chương trình giáo dục công dân vẫn còn
có một số khó khăn, vướng mắc. Chương trình đào tạo kỹ năng sống mới chỉ
là hoạt động mang tính ngoại khóa và được thực hiện theo giai đoạn nhất
định, phụ thuộc vào sự tài trợ của các tổ chức ngoài xã hội.
Nhiều đối tượng cần thiết nhưng không được quy định đưa vào các
TGD. Thủ tục quá rườm rà, không cần thiết, không phát huy vai trò và tính
chịu trách nhiệm của các cơ quan đã được giao thẩm quyền, nhất là những cơ
quan giữ vai trò quyết định.
Mô hình quản lý học sinh hiện nay thực hiện theo phương thức “đóng”,
chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Biên chế số
lượng học sinh trong 01 đội như vậy là nhiều, không phù hợp với tâm lý lứa
tuổi của các em là thích có không gian riêng.
Ba là, về tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực
Hiện nay vẫn chưa có cơ quan chuyên trách, độc lập tham mưu cho cấp
có thẩm quyền thực hiện chức năng QLNN đối với các TGD.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên của trường giáo dưỡng còn thiếu và chưa
được đào tạo kịp thời, chuyên sâu.
Bốn là, về đầu tư và thu hút nguồn lực

18


Kinh phí, nhà xưởng, trang thiết bị dạy nghề còn thiếu thốn, lạc hậu;
kinh phí cho việc ăn, ở, sinh hoạt, giáo dục, học tập, y tế còn thấp so với mức
sống chung của xã hội. Vấn đề xã hội hóa công tác của TGD mặc dù đã được
Đảng, Nhà nước có chủ trương, BCA cũng nhiều lần đặt nêu ra tại các kỳ

tổng kết, các hội nghị nhưng cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu, triển
khai trên thực tế.
Năm là, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được quan tâm đúng mức,
chưa được tiến hành thường xuyên. Công tác thanh tra, kiểm tra của BCA đối
với các TGD cũng chưa được quan tâm đúng mức.
3.3.3. Nguyên nhân
3.3.3.1. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
3.3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân khách quan

19


TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Mô hình TGD sau gần 40 năm được thành lập và phát triển đã chứng
minh qua thực tiễn là một loại trường chuyên biệt có ý nghĩa quan trọng trong
việc quản lý, giáo dục NCTN VPPL. Trường đã quản lý, giáo dục hàng chục
ngàn NCTN VPPL, giúp họ rèn luyện, hướng thiện, trở thành những công dân
có ích cho xã hội. TGD cũng đã góp phần trong phòng ngừa NCTN VPPL,
thực hiện mục tiêu của Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.
QLNN đối với TGD đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Thể chế
QLNN đối với các TGD từng bước được hoàn thiện, từng bước đáp ứng các
yêu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật, yêu cầu cải cách hành chính, cải
cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. Bộ máy
QLNN đối với các TGD từng bước được kiện toàn và nhiệm vụ, quyền hạn
ngày càng được quy định cụ thể hơn. Việc tổ chức quản lý, giáo dục HS trong
các TGD ngày càng hiệu quả hơn, thể hiện trách nhiệm cao của cán bộ, chiến
sĩ CAND công tác trong các TGD. Mức độ xã hội hóa trong giáo dục HS
trong các TGD cũng được chú ý hơn trong thu hút các nguồn lực xã hội khác,

kể cả nguồn lực từ các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước, để giúp HS
các TGD về tinh thần và vật chất, giúp họ có các điều kiện để tái hòa nhập
cộng đồng.
Tuy nhiên, QLNN đối với các TGD vẫn còn nhiều hạn chế về thể chế
QLNN, nhiều quy định của pháp luật đối với TGD luôn thay đổi, thiếu sự ổn
định; vấn đề quản lý, giáo dục văn hóa, nghề nghiệp cho HS vẫn còn nhiều
bất cập về chương trình, về đội ngũ giáo viên...tình trạng HS vi phạm nội quy
của TGD vẫn chưa giảm; vấn đề phối hợp quản lý, giáo dục giữa gia đình, nhà
trường và xã hội đối với HS trong các TGD cũng chưa hiệu quả.

20


Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với trường giáo dưỡng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
4.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với trường
giáo dưỡng
Thứ nhất, tiếp tục phát huy vai trò của các trường giáo dưỡng; quy
hoạch lại hệ thống trường giáo dưỡng để phát huy được hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công
tác quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng chuyên nghiệp đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ tư duy, mạnh dạn áp dụng kinh nghiệm của
các nước trên thế giới, tiến hành xã hội hóa công tác quản lý, giáo dục người
chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó lấy việc bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục người chưa thành niên vi phạm pháp luật trở thành công dân
lương thiện làm mục tiêu trung tâm.
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ giữa việc giáo dục người chưa thành niên vi
phạm pháp luật với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho xã hội.

4.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trường giáo dưỡng
4.2.1. Hoàn thiện chính sách, đổi mới quy hoạch đối với hệ thống các
trường giáo dưỡng
4.2.1.1. Hoàn thiện chính sách đối với các trường giáo dưỡng
Cần thiết quan tâm xây dựng và áp dụng chính sách riêng đối với loại hình
trường chuyên biệt là TGD, nhất là những chính sách mang tính cấp thiết, thiết
thực, phù hợp với đối tượng đặc thù là HS của TGD.
4.2.1.2. Đổi mới quy hoạch đối với hệ thống các trường giáo dưỡng
Thành lập ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương một trường
hoặc một trung tâm giáo dưỡng (ở địa phương nào có ít NCTN VPPL) cùng
với các TGD theo khu vực hiện nay.

21


4.2.2. Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với trường giáo dưỡng
4.2.2.1. Hoàn thiện quy định về chủ thể quản lý và mối quan hệ phối
hợp giữa các cơ quan chức năng
Bổ sung quy định “BCA quản lý các TGD” cho Luật XLVPHC để đảm
bảo tính thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt không thể
thiếu được trong một văn bản luật mang tính văn bản gốc trong lĩnh vực xử lý
vi phạm hành chính như Luật XLVPHC. Ngoài ra, Chính phủ cần ban hành cơ
chế, chính sách cụ thể cho các ngành, địa phương và gia đình học sinh trong
việc phối hợp thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong công tác quản lý, giáo dục
học sinh TGD.
4.2.2.2. Sửa đổi quy định về thủ tục và đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng
* Về thủ tục: Giảm bớt các thủ tục trung gian như hiện nay.
* Về thời gian: Cần thiết rút ngắn hơn.
* Về thẩm quyền đề nghị: bổ sung 03 đối tượng được đề nghị Tòa án

xem xét đưa vào hoặc kéo dài thời gian áp dụng biện pháp đưa vào TGD.
* Về đối tượng đưa vào TGD: Bổ sung 02 đối tượng đưa vào TGD theo
thủ tục hành chính.
4.2.2.3. Sửa đổi quy định của pháp luật về độ tuổi của trẻ em
Đề nghị sửa đổi quy định về độ tuổi của trẻ em là nâng lên dưới 18 tuổi.
4.2.2.4. Hoàn thiện chương trình giáo dục cho học sinh trường giáo dưỡng
Sửa đổi các chương trình dạy văn hóa và giáo dục công dân; bổ sung
chương trình đào tạo kỹ năng sống và kỹ năng mềm; các chương trình đào tạo
ngoại khóa và chương trình năng khiếu cần được tăng cường.
4.2.2.5. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý học sinh tại các
trường giáo dưỡng
HS TGD cần được quản lý theo cơ chế “mở”.

22


4.2.3. Tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực
4.2.3.1. Thành lập Phòng công tác trường giáo dưỡng là đơn vị độc
lập, chuyên trách, chủ trì giúp lãnh đạo các cấp thống nhất, quản lý các
trường giáo dưỡng
4.2.3.2. Xác định rõ nhu cầu biên chế trên cơ sở vị trí việc làm, xây
dựng khung năng lực cho từng vị trí để tuyển chọn, bố trí đội ngũ cán bộ
quản lý chuyên trách
4.2.3.3. Giao Tổng cục Chính trị Công an nhân dân – Bộ Công an thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục đối với các trường giáo dưỡng
4.2.3.4. Xác định, bố trí đủ biên chế cán bộ, giáo viên các trường giáo
dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên hiện có
4.2.4. Tăng cường đầu tư và thu hút nguồn lực
4.2.4.1. Đầu tư cơ sở vật chất cho các trường giáo dưỡng
Tập trung chỉ đạo công tác quy hoạch, tăng cường đầu tư cơ sở vật

chất, đề xuất chỉnh sửa mô hình các công trình xây dựng phù hợp với tính
chất, yêu cầu công tác TGD.
4.2.4.2. Nâng cao chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên
và học sinh trường giáo dưỡng
4.2.4.3. Tiến hành xã hội hóa hoạt động quản lý, giáo dục người chưa
thành niên vi phạm pháp luật
4.2.4.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý, giáo dục trẻ em vi
phạm pháp luật để học hỏi kinh nghiệm và thu hút nguồn lực
4.2.5. Tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo vi phạm tại trường giáo dưỡng
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện ở các
TGD, theo hướng nâng cao sự phối hợp sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám
sát giữa các đơn vị chức năng của Tổng cục đối với các TGD, tránh chồng
chéo, bỏ sót, bỏ lọt nhiệm vụ.

23


KẾT LUẬN
NCTN là tương lai của đất nước, được nhà nước ta đặc biệt quan tâm
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt, VPPL.
Việc phòng ngừa NCTN VPPL luôn được xem là một nội dung quan trọng
trong Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm. Đây cũng là vấn đề có
khá nhiều công trình khoa học đề cập, nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi
khác nhau với những cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước
ta chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách hệ thống và
toàn diện về vấn đề TGD, QLNN đối với các TGD. Vì vậy, “Quản lý nhà
nước đối với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam hiện nay” là công trình khoa
học đầu tiên nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực
tiễn. Luận án đã rút ra một số kết luận sau:

Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về NCTN VPPL và
hướng mục tiêu phòng ngừa NCTN VPPL, bảo vệ những quyền lợi chính
đáng của các em. Trong một số công trình khoa học nước ngoài cũng đề cập
đến việc thành lập một mô hình quản lý, giáo dục NCTN VPPL. Ở nước ta, lý
luận về QLNN đối với các TGD không phải là vấn đề hoàn toàn mới nhưng
chưa được phổ quát, nhiều nội dung còn chưa được nghiên cứu thấu đáo,
thuyết phục, chưa được thống nhất. Chưa có công trình nghiên cứu một cách
toàn diện về QLNN đối với các TGD đầy đủ các vấn đề như: khái niệm, đặc
điểm, nội dung, các yếu tố tác động, kinh nghiệm của nước ngoài.
Trong nhiều năm qua, tình hình NCTN VPPL diễn biến phức tạp, có
chiều hướng gia tăng, xảy ra ở hầu hết các địa bàn, gây bức xúc cho xã hội,
ảnh hưởng đến ANTT. Từ thực tế đó, ngay trong những ngày cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ đang đi vào thời điểm ác liệt nhất, Chính phủ đã cho
thành lập Trường Kim Đồng (sau này là Trường phổ thông công nông nghiệp,
hiện nay là TGD) để quản lý, giáo dục các em nhằm giúp các em tránh xa

24


những cám dỗ của đời thường, sớm sửa chữa lỗi lầm, học tập văn hóa, học
nghề để có đủ các điều kiện tái hòa nhập với đời sống xã hội. Qua hơn 40 năm
thành lập và phát triển, TGD đã thể hiện là một mô hình trường chuyên biệt
quản lý, giáo dục NCTN VPPL phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Nhà
nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
của TGD và QLNN đối với các TGD. QLNN đối với các TGD đã khẳng định
chức năng nhà nước và chức năng xã hội của bộ máy hành chính nhà nước.
Đã khẳng định sự cần thiết Nhà nước phải quản lý đối với các TGD. Trước
hết là để bảo vệ, chăm sóc NCTN VPPL tốt hơn, tạo điều kiện để các em thực
hiện được các quyền chính đáng đã được pháp luật quốc gia và quốc tế quy
định. Sau đó là quản lý, giáo dục để giúp NCTN VPPL sửa chữa lỗi lầm, trở

thành người lương thiện, có đủ điều kiện để tái hòa nhập với đời sống xã hội.
Tiếp nữa, là góp phần phòng ngừa, làm giảm tỷ lệ NCTN VPPL.
QLNN đối với các TGD đã đạt được nhiều kết quả, như: từng bước
hoàn thiện thể chế QLNN đối với các TGD; từng bước kiện toàn tổ chức bộ
máy QLNN đối với TGD; đã quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, thu hút nguồn
lực cho các TGD… Tuy nhiên, bên cạnh đó QLNN đối với các TGD cũng đã
bộc lộ nhiều hạn chế, như: chính sách đặc thù chuyên biệt đối với trường giáo
dưỡng chưa đầy đủ, quy hoạch đối với các TGD đã quá cũ; hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về TGD chưa đầy đủ, thiếu ổn định; bộ máy QLNN đối
với TGD chưa thật chuyên trách, chuyên nghiệp, chưa ổn định; đội ngũ cán
bộ, chiến sĩ làm công tác quản lý, giáo dục HS trong các TGD vừa thiếu, vừa
chưa đáp ứng được đòi hỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; cơ sở vật chất của các
trường giáo dưỡng còn nhiều khó khăn, kinh phí xây dựng cơ sở vật chất còn
chưa được quan tâm; vấn đề xã hội hóa công tác của trường giáo dưỡng chưa
được nghiên cứu, triển khai trên thực tế; công tác thanh tra, kiểm tra của BCA
đối với các TGD cũng chưa được quan tâm đúng mức.

25


×