Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực hiện chính sách phòng, chống ma túy từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THÙY LINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
MA TÚY TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI, năm 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám
đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học Xã hội đã tận tình và
tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến PGS. TS. Bùi Nguyên Khánh, người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài
cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn của mình đến lãnh đạo Quận ủy, Ủy
ban nhân dân quận, Công an quận Thanh Khê, bạn bè, đồng nghiệp, luôn quan
tâm, tạo điều kiện, chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên


cứu luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý
thầy, cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Chính sách công “Thực hiện chính sách phòng, chống ma túy từ thực tiễn quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các
đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Vũ Thùy Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÒNG, CHỐNG MA TÚY Ở VIỆT NAM .......................................................... 7
1.1. Khái niệm ma túy và phòng, chống ma túy ............................................................. 7
1.2. Khái niệm chính sách phòng, chống ma túy ........................................................... 9
1.3. Thực hiện chính sách phòng, chống ma túy: Khái niệm, ý nghĩa tầm quan trọng
của việc thực hiện chính sách phòng, chống ma túy ................................................. 11
1.4. Các bước tổ chức thực hiện chính sách phòng, chống ma túy ........................... 13
1.5. Những yêu cầu cơ bản đối với việc tổ chức thực hiện chính sách phòng, chống
ma túy ............................................................................................................................ 17
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chính sách phòng, chống ma

túy .................................................................................................................................. 20
1.7. Tổ chức bộ máy để thực hiện chính sách phòng, chống ma túy ........................ 22
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
MA TÚY Ở QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................... 25
2.1. Vấn đề chính sách phòng, chống ma túy tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng ... 25
2.2. Thực trạng chính sách phòng, chống ma túy tại quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng ............................................................................................................................... 30
2.3. Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách phòng, chống ma túy tại quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng ........................................................................................................ 41
CHƯƠNG 3. TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
MA TÚY Ở QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI
GIAN TỚI .................................................................................................................... 60
3.1. Nhu cầu, định hướng, mục tiêu tăng cường thực hiện chính sách phòng, chống
ma túy tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng ......................................................... 60
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phòng, chống ma túy tại quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng ................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT

: An ninh trật tự

CAND

: Công an nhân dân

CDTP


: Chất dạng thuốc phiện

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CSĐT

: Cảnh sát điều tra

CSXH

: Chính sách xã hội

CTXH

: Chính trị xã hội

GDĐT

: Giáo dục Đào tạo

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KTXH

: Kinh tế xã hội


NN&PTNT

: Nông nghiệp và phát triển nông thôn

NSNN

: Ngân sách nhà nước

PCMT

: Phòng chống ma túy

QPAN

: Quốc phòng an ninh

QLNN

: Quản lý nhà nước

TNXH

: Tệ nạn xã hội

UBND

: Ủy ban nhân dân

UNDCP


: Liên hợp quốc

VHTT

: Văn hóa Thông tin

UBMTTQVN

: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

WHO

: Tổ chức Y tế thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.

2.2.
2.3.
2.4.

2.5.


2.6.

2.7.

Bảng kê số lượng, đặc điểm nhân thân người nghiện ma túy
trên địa bàn quận
Bảng kê số lượng, đặc điểm nhân thân đối tượng tái nghiện cư
trú trên địa bàn quận
Bảng kê kết quả khảo sát 300 người nghiện trên địa bàn
Bảng kê số người mắc bệnh có nguyên nhân từ sử dụng trái
phép ma túy cư trú tại quận Thanh Khê
Bảng kê thành phần tội danh, địa điểm phạm tội và tang vật
thu giữ
Bảng kê đặc điểm, tình hình biên chế của công an các phường
tính đến cuối năm 2015
Bảng kê về kết quả điều tra, xử lý theo tố tụng hình sự vụ án
ma túy

Trang

26

27
28
28

29

40


49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang đứng trước nhiều thảm họa nguy hiểm, trong đó có vấn đề
nghiện ma túy và đồng hành với nó là căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Ma túy đã và
đang phá hoại sự phát triển bền vững, là một trong những tệ nạn gây ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đồng thời nó cũng là một trong
những nguyên nhân làm phát sinh, phát triển tội phạm, là con đường nhanh nhất lây
truyền HIV/AIDS, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định, phát triển và trường tồn
của dân tộc. Tình trạng nghiện hút, tiêm chích và buôn bán ma túy đang có chiều
hướng gia tăng với tính chất hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động
hơn. Ma túy không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia mà đã trở thành vấn đề
toàn cầu. Đấu tranh phòng, chống ma túy là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu không chỉ của mỗi quốc gia, dân tộc mà còn là nhiệm vụ cao cả của cộng
đồng quốc tế. Thế giới đang tập trung sức người, sức của cho cuộc đấu tranh phòng,
chống hiểm họa này.
Trong bối cảnh đó, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ
trương, chính sách PCMT như Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính
trị (khóa X) về “Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và
kiểm soát ma túy trong tình hình mới”; Chiến lược Quốc gia phòng, chống và kiểm
soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; Bộ luật Hình
sự sửa đổi, bổ sung dành hẳn một chương riêng quy định tội phạm về ma túy
(Chương XVIII); Luật phòng, chống ma túy (kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa X) và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy (kỳ họp lần thứ 3,
Quốc hội khóa XII).
Nhờ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, công tác phòng, chống và kiểm soát
ma túy ở nước ta đã được tăng cường đáng kể, huy động được sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân cùng tham gia. Tuy nhiên, bên

cạnh những kết quả đạt được, công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy ở

1


nước ta vẫn còn một số hạn chế như: Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa tập trung
đúng đối tượng, địa bàn; công tác đấu tranh PCMT còn chưa đồng bộ, kém hiệu
quả; công tác cai nghiện phục hồi chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, tỷ lệ tái nghiện
còn cao, có nhiều địa phương tỷ lệ tái nghiện chiếm trên 85%; công tác quản lý, dạy
nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện chưa được giải quyết tốt; số vụ phạm
pháp hình sự do người nghiện ma túy gây ra còn nhiều; tình trạng lây nhiễm HIV do
tiêm chích ma túy vẫn là vấn nạn lớn trong xã hội.
Thanh Khê là một quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, cùng với Đảng bộ và
chính quyền thành phố, những năm qua quận Thanh Khê đã đề ra nhiều kế hoạch,
chương trình, đề án và các giải pháp tích cực nhằm ngăn chặn, từng bước đẩy lùi loại
tội phạm này, song tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy vẫn diễn biến phức tạp, có
chiều hướng gia tăng. Vì vậy, PCMT là thách thức lớn đối với Đảng bộ và chính
quyền địa phương trong việc thực hiện mục tiêu phát triển KTXH, đảm bảo an ninh
chính tri, trật tự an toàn xã hội.
Việc đề xuất những giải pháp khả thi để thực hiện có hiệu quả chính sách
PCMT ở quận Thanh Khê là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Với lý do đó, tôi chọn
đề tài: "Thực hiện chính sách phòng, chống ma túy từ thực tiễn quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng" làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính
sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, hoạt động PCMT ở Việt Nam đã được quan tâm
nghiên cứu ở nhiều góc độ và những cách tiếp cận phong phú về công tác PCMT.
Có thể điểm qua một số công trình khoa học, đề tài nghiên cứu, bài viết có những
nội dung nghiên cứu tiêu biểu như:
- Sách chuyên khảo “Đặc điểm tâm lý của người phạm tội về ma túy” của Nhà

xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2010, do tập thể tác giả TS Hoàng Thị Bích
Ngọc (chủ biên), TS Nguyễn Như Chiến [11]. Trong cuốn sách này, tác giả đề cập
đến một số nội dung cơ bản của tội phạm về ma túy, tình trạng thực tế; đặc điểm tâm
lý, nhân cách người sử dụng trái phép chất ma túy, tác động của ma túy đến sự phát

2


triển lệch lạc và suy thoái nhân cách cá nhân.
- Sách tham khảo “Một số vấn đề về xây dựng thế trận phòng, chống tội phạm
về ma túy của lực lượng Cảnh sát Điều tra Tội phạm về ma túy” của Đại tá Vũ Hùng
Vương, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội, năm 2000 [40]. Trong công trình này, tác giả
giới thiệu những tư tưởng chỉ đạo trong xây dựng thế trận phòng, chống tội phạm ma
túy; những căn cứ để xây dựng, nội dung thế trận, một số kiến nghị nhằm xây dựng
thế trận phòng, chống tội phạm về ma túy.
- Cuốn sách “Tội phạm về ma túy, thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp
phòng ngừa” của Tiến sỹ Vũ Quang Vinh, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, năm
2005 [38]. Tác giả đã phân tích sâu về tình hình phạm tội sản xuất, buôn bán, vận
chuyển chất ma túy trên thế giới. Đánh giá thực trạng, nguyên nhân tình hình phạm
tội về ma túy ở Việt Nam. Qua đó, tác giả đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động phòng ngừa các tội phạm về ma túy.
- Công trình nghiên cứu “Hiểm họa ma túy và cuộc chiến mới” của GS.TS
Nguyễn Xuân Yêm.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước “Luận cứ khoa học cho những giải pháp nâng
cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về ma túy” của GS.TS Nguyễn
Phùng Hồng, Tạp chí CAND và Đại tá Vũ Hùng Vương, Cục CSĐT tội phạm về
ma túy, năm 2001.
- Luận án “Hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm về ma túy của lực
lượng Công an cấp huyện” của TS Ngô Đức Tuấn, Hà Nội, năm 2006 [31].
- Sách chuyên khảo “Hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm về ma túy”

của TS. Bùi Minh Trung, NXB CAND năm 2010 [29].
- Luận văn Thạc sĩ Luật “Tội sử dụng trái phép chất ma túy theo pháp luật
hình sự Việt Nam” của Th.S Hoàng Văn Vương, Hà Nội, năm 2008 [39].
Đồng thời, còn có nhiều công trình khoa học khác nghiên cứu vấn đề PCMT ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể khẳng định, các công trình nghiên cứu về ma túy
và PCMT ở nước ta rất phong phú. Các tác giả tập trung nghiên cứu đến luận cứ khoa
học và giải pháp phòng ngừa tội phạm ma túy, lĩnh vực đấu tranh phòng, chống và

3


kiểm soát ma túy, hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
và tội phạm ma túy nói riêng.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên, về phần lý luận chỉ mới đề cập
đến lĩnh vực của đấu tranh chống tội phạm ma túy, chưa đề cập đến vấn đề thực
hiện chính sách PCMT dưới góc độ quản lý nhà nước. Riêng đối với quận Thanh
Khê, trong những năm qua, chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá một cách
đầy đủ, toàn diện việc thực hiện chính sách PCMT trên địa bàn quận. Chính vì vậy,
tôi đã lựa chọn hướng nghiên cứu đề tài về những vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách PCMT; thực trạng thực hiện chính sách PCMT từ thực tiễn quận Thanh Khê,
kết quả thực hiện từng chính sách PCMT từ năm 2010 đến năm 2015; đưa ra giải
pháp tăng cường thực hiện chính sách PCMT giai đoạn 2016 - 2020.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách PCMT;
phân tích đánh giá thực trạng thực hiện chính sách PCMT từ thực tiễn quận Thanh
Khê, thành phố Đà Nẵng hiện nay; từ đó phát hiện đúng các vấn đề chính sách và đề
xuất các giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách PCMT ở quận Thanh
Khê, thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn về tổ chức thực hiện chính
sách PCMT;
- Vận dụng lý thuyết về chính sách công để phân tích, khảo sát, đánh giá thực
trạng thực hiện chính sách PCMT từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng;
- Phân tích nhu cầu, định hướng, mục tiêu và đề xuất các giải pháp chủ yếu
nhằm tăng cường thực hiện hiệu quả chính sách PCMT từ thực tiễn quận Thanh
Khê, thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách PCMT là một chính sách rộng lớn, bao trùm nhiều lĩnh vực, vì

4


vậy, người viết chỉ đi sâu nghiên cứu 03 lĩnh vực sau đây:
- Chính sách điều trị cai nghiện ma túy.
- Chính sách quản lý sau cai nghiện.
- Chính sách hình sự đối với tội phạm ma túy.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: trên địa bàn quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và luận văn
triệt để vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy
phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực
hiện và đánh giá chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn
giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và

khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm
các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung
ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, báo cáo, tài liệu thống kê của chính
quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề
PCMT ở nước ta nói chung và TP Đà Nẵng nói riêng. Đồng thời, thu thập tài liệu
của các tổ chức và học giả liên quan đến đề tài trong thời gian qua. Kết hợp cùng
với các phương pháp thống kê, khái quát thực tiễn, phương pháp phân tích định
tính, suy luận logic, diễn giải trong quá trình phân tích, đánh giá chính sách. Câu
hỏi nghiên cứu được đặt ra:
- Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách PCMT ở Việt Nam hiện nay là gì?
- Thực trạng thực hiện chính sách PCMT tại quận Thanh Khê hiện nay?
Những kết quả đạt được đã đáp ứng được mục tiêu chính sách đề ra hay chưa?
- Giải pháp nào đổi mới, tăng cường thực hiện có hiệu quả chính sách PCMT

5


ở quận Thanh Khê trong thời gian tới?
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng, bổ sung lý thuyết khoa học chính sách công để làm rõ vấn đề
khoa học và thực tiễn của một chính sách cụ thể: chính sách PCMT.
Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tư liệu, khảo sát thực tế tại địa bàn quận
Thanh Khê, qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận của khoa học
chính sách công.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực tiễn nghiên cứu việc thực hiện chính sách PCMT ở quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng chỉ ra được những khó khăn, hạn chế trong thực thi chính sách,
đồng thời kết quả nghiên cứu giúp cho lãnh đạo quận, các bộ phận liên quan, các
nhà hoạch định chính sách có cơ sở khoa học và thực tiễn để vận dụng, điều chỉnh

và tổ chức thực hiện chính sách PCMT tại quận Thanh Khê một cách hiệu quả nhất.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc ba
chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phòng, chống ma túy
ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống ma túy ở Quận
Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng.
ơ

Chương 3. Tăng cường thực hiện chính sách phòng, chống ma túy ở Quận Thanh
Khê, Thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÒNG, CHỐNG MA TÚY Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm ma túy và phòng, chống ma túy
1.1.1. Khái niệm ma túy
Thuật ngữ "ma túy" xuất hiện ở Việt Nam ban đầu gắn với một sản phẩm dân
gian là thuốc phiện, về sau còn được dùng để chỉ các sản phẩm có được từ cây cần sa,
cô ca và các loại thuốc tân dược gây nghiện khác. Sở dĩ gọi là "ma túy" vì các chất
này có tác dụng như ma thuật, ma quái, nó làm tăng hưng phấn hoặc ức chế thần
kinh, làm cho con người mê mẩn, ngây ngất không tỉnh táo. Với cách hiểu này, thuật
ngữ "ma túy" được ghép từ các từ ma thuật, ma quái và túy lúy. Trong tiềm thức của
người Việt Nam, "ma túy" đồng nghĩa với sự xấu xa, tội lỗi cần phải ngăn chặn, loại
bỏ khỏi đời sống cộng đồng.
Chương trình kiểm soát ma túy quốc tế của Liên hợp quốc (UNDCP) năm 1991

đã xác định: "Ma túy là những chất độc có tính gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên
hoặc nhân tạo khi xâm nhập vào cơ thể con người thì có tác dụng làm thay đổi tâm
trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc vào chúng gây nên những tổn
thương cho từng cá nhân và cộng đồng". Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), "Ma
túy là bất kỳ chất gì mà khi đưa vào cơ thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều
chức năng sinh lý của cơ thể" [42] [43].
Điều 2 Luật phòng, chống ma túy được Quốc hội (khóa X) kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 09/12/2000 quy định “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được
quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành” [15,tr 9].
Theo Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ ban hành
các danh mục chất ma túy và tiền chất; Nghị định số 133/NĐ-CP ngày 6/11/2003
của Chính phủ bổ sung danh mục chất ma túy và tiền chất; Nghị định số
163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007 của Chính phủ sửa tên, bổ sung, chuyển loại
một số chất ma túy và tiền chất thì hiện nay có 230 chất ma túy và 42 tiền chất ma
túy cần kiểm soát [29, tr 32-33].

7


Vì vậy, có thể quan niệm ma túy là chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp,
khi được đưa vào cơ thể con người, nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và
sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng ma túy, con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó
gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng.
Có nhiều cách phân loại chất ma túy, song có một số loại cơ bản sau :
- Căn cứ vào nguồn gốc của ma túy, ma túy được chia làm ba nhóm: ma túy tự
nhiên, ma túy bán tổng hợp, ma túy tổng hợp.
- Căn cứ vào nguồn gốc của ma túy và cơ chế tác động dược lý, các chuyên gia
của Liên hợp quốc đã phân chia ma túy thành 5 nhóm: Ma túy là các chất từ cây
thuốc phiện; Ma túy là các chất từ cây cần sa; Ma túy là các chất kích thích; Ma túy
là các chất ức chế; Ma túy là các chất gây ảo giác.

Ma túy đã và đang trở thành hiểm họa chung của cả nhân loại, gây ảnh hưởng
nặng nề đối với nền kinh tế của đất nước, hủy hoại sức khoẻ con người; nghiện ma
túy làm mất nhân cách con người, tổn thất hạnh phúc của gia đình, ảnh hưởng đến sự
phát triển nòi giống và nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS; ảnh hưởng nghiêm trọng đến
an ninh trật tự, an toàn xã hội. Ma túy là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc
quyền quản lý. Nhà nước nghiêm cấm việc trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây
khác có chất ma túy; nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận
chuyển, chiếm đoạt, sử dụng chất ma túy cũng như các tiền chất dùng vào việc sản
xuất trái phép chất ma túy. Bộ luật Hình sự nước ta quy định rất nghiêm khắc mức
hình phạt về tội phạm ma túy. Tuy nhiên, tội phạm ma túy vẫn không ngừng phát
triển trong thời gian qua, bởi tính đặc thù của loại tội phạm này khác với các loại tội
phạm khác được quy định trong Bộ luật Hình sự.
1.1.2. Khái niệm phòng, chống ma túy
Tại Khoản 7, Điều 2, Luật phòng, chống ma túy quy định: “Phòng, chống ma
túy là phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma túy và kiểm soát các hoạt
động hợp pháp liên quan đến ma túy” [15,tr 10]. Tuy nhiên, phòng chống là khái
niệm kép, bao gồm 2 yếu tố:
- Phòng tội phạm ma túy và tệ nạn ma túy là áp dụng các biện pháp ngăn chặn,

8


kiềm giảm, phòng ngừa không để xảy ra tình trạng tệ nạn ma túy và các loại tội
phạm về ma túy.
- Chống tội phạm ma túy và tệ nạn ma túy là tiến hành các biện pháp kiên
quyết để đấu tranh chống lại các hành vi liên quan đến ma túy và tệ nạn ma túy.
1.2. Khái niệm chính sách phòng, chống ma túy
Cuộc chiến chống ma túy ở nước ta đã được tiến hành trong nhiều năm, nhất
là từ khi chúng ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau ngày giải phóng,
bằng nhiều biện pháp chúng ta đã kiên quyết loại trừ ma túy ra khỏi đời sống xã hội

ở miền Nam Việt Nam. Các biện pháp cai nghiện cho gần 30.000 người nghiện
heroin và thuốc phiện đã được đồng loạt tiến hành. Các chiến dịch xóa bỏ diện tích
trồng cây thuốc phiện thực hiện rộng khắp ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây
nguyên. Cho đến những năm đầu của thập niên 90 thế kỷ trước, về cơ bản chúng ta
đã xóa bỏ được những diện tích lớn trồng cây thuốc phiên ở vùng núi và ngăn chặn
tương đối có hiệu quả việc buôn bán vận chuyển ma túy vào Việt nam.
Tuy nhiên, từ khoảng năm 1994 trở đi, làn sóng buôn bán, vận chuyển ma túy
đã ập vào các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Điều đó đã làm xuất hiện ở các đô thị, đặc
biệt là các tỉnh, thành phố phía Bắc nhiều thanh niên sử dụng heroin, giai đoạn đầu
là hút hít và sau một thời gian ngắn chuyển qua tiêm chích. Từ đó, kéo theo làn
sóng lây nhiễm HIV trong cộng đồng những người sử dụng ma túy hết sức nghiêm
trọng, đặc biệt là ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và Lạng Sơn.
Trước tình hình như vậy, Đảng ta đã xác định, tệ nạn ma tuý đang là hiểm họa
của quốc gia, dân tộc; là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tội
phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS. Hậu quả, tác hại do ma tuý gây ra ảnh
hưởng nghiêm trọng đến phát triển KTXH và ANTT của đất nước. Bộ Chính trị
(khoá VIII) đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 30/11/1996 về “Tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý” [3].
Tháng 3/2008, trước thực trạng buôn bán, vận chuyển và sử dụng ma túy diễn
biến hết sức phức tạp ở nước ta, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 21-CT/TW về
“Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống ma túy trong tình hình mới”;

9


trong đó, xác định rõ trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và chính quyền về tình hình,
kết quả thực hiện công tác PCMT của địa phương, đơn vị mình; chỉ đạo việc bổ
sung, sửa đổi một số điều của Luật Phòng, chống ma tuý; tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật về PCMT; củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy
cơ quan PCMT từ Trung ương đến cơ sở; tăng cường đầu tư trang thiết bị chuyên

dùng cho các lực lượng chuyên trách PCMT; xây dựng các quy chế phối hợp liên
ngành; đổi mới nội dung và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục PCMT trong
Đảng, cơ quan nhà nước và nhân dân; đẩy mạnh xã hội hóa công tác PCMT; có
chính sách khuyến khích các đoàn thể CTXH, các tổ chức phi chính phủ và cá nhân
tham gia vào công tác PCMT; tăng cường công tác nghiên cứu khoa học và sơ kết,
tổng kết rút kinh nghiệm trong từng thời kỳ, từng khu vực để nâng cao hiệu quả
công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý; mở rộng quan hệ hợp tác với các nước,
các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực PCMT, đặc biệt với các nước có chung đường biên
giới, các nước trong khu vực nhằm kiểm soát, ngăn chặn có hiệu quả nguồn ma tuý
thẩm lậu vào nước ta [4, tr 2-3].
Với quan điểm coi nghiện ma túy là bệnh mãn tính do rối loạn của não bộ;
điều trị nghiện ma túy là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp hỗ trợ
về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của
nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép. Những năm qua, Chính
phủ đã ban hành nhiều văn bản, chính sách nhằm thực hiện đa dạng hóa các biện
pháp và mô hình điều trị cai nghiện, như: Nghị định số 94/NĐ-CP ngày 09/9/2010
về việc tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng
nhằm giảm gánh nặng cho các trung tâm, đồng thời huy động xã hội hóa công tác
cai nghiện; Nghị định số 221/NĐ-CP ngày 30/12/2013 về việc áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và cai nghiện bằng thuốc thay
thế Methadone - đưa người nghiện đến các trung tâm cai nghiện cho họ điều trị cắt
cơn, tham gia các chương trình giáo dục, dạy nghề ở trung tâm; Quyết định
29/2014/QĐ-TTg ngày 26/04/2014 của Thủ tướng Chính phủ sách về ưu đãi vốn vay
cho người sau cai nghiện. Đặc biệt, các tội phạm về ma túy được Nhà nước ta quy

10


định từ rất sớm, nhưng trong từng giai đoạn, căn cứ vào tình hình KTXH cụ thể
mà Nhà nước ban hành những văn bản thích hợp, phù hợp với yêu cầu đấu tranh

phòng, chống tội phạm. Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật
Hình sự 2015, trong đó dành riêng Chương XX (từ Điều 247 đến Điều 259) của
Bộ luật để quy định các tội danh và mức hình phạt đối với tội phạm về ma túy.
Chính sách PCMT là phương tiện, công cụ quản lý có hiệu lực trong lĩnh vực
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cũng như chăm lo cho công tác an
sinh. Thực tế cho thấy, nếu triển khai và áp dụng tốt các biện pháp phòng ngừa
nghiệp vụ và phòng ngừa xã hội thì tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy sẽ khó xảy ra.
Ngược lại, nếu đấu tranh triệt để và kiên quyết với loại tội phạm và tệ nạn này thì
cũng góp phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa tốt, hạn chế được tình trạng tội phạm
ma túy và tệ nạn ma túy trên địa bàn.
Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị nhằm vạch
ra những định hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể quản lý với các vấn đề,
hiện tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy và quản lý sự phát triển nhằm đạt tới
những mục tiêu nhất định cho trước. Khái niệm chính sách công được diễn đạt khái
quát như sau: Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của
nhà nước nhằm chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải
quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu xác định của Đảng chính trị cầm quyền.
Từ sự phân tích trên, dưới góc độ khoa học chính sách công có thể định nghĩa:
“Chính sách phòng, chống ma túy là thái độ, quan điểm, quyết định cách xử sự của
nhà nước đối với tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy với mục tiêu, giải pháp, công cụ
cụ thể nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma túy và kiểm soát các
hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy”.
1.3. Thực hiện chính sách phòng, chống ma túy: Khái niệm, ý nghĩa tầm quan
trọng của việc thực hiện chính sách phòng, chống ma túy
1.3.1. Khái niệm thực hiện chính sách phòng, chống ma túy
Tổ chức thực hiện chính sách PCMT là một khâu quan trọng hợp thành chu
trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách đến

11



đối tượng chính sách, được hiện thực bởi các công cụ chính sách bao gồm họat
động của các chủ thể do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định nhằm đưa chính
sách PCMT vào cuộc sống thông qua các nội dung công việc cụ thể đảm bảo
nguyên tắc, tuân thủ theo một trình tự, thủ tục nhất định nhằm đạt được mục tiêu
của chủ thể chính sách.
1.3.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của tổ chức thực hiện chính sách phòng,
chống ma túy
Tổ chức thực hiện chính sách PCMT có ý nghĩa rất quan trọng, là bước hiện
thực hóa chính sách vào thực tiễn đời sống xã hội. Tổ chức thực hiện chính sách
PCMT là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách thành một hệ thống
hoàn chỉnh; là cầu nối giữa lý luận và thực tiễn trong thực thi chính sách. Việc
hoạch định, xây dựng được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng
triển khai, thực hiện một cách đúng đắn chính sách còn quan trọng hơn. Có chính
sách đúng nếu không được thực hiện sẽ chỉ nằm ở dạng văn bản giấy, trở thành
khẩu hiệu suông, không những không thực hiện được mục tiêu, ý định của chủ thể
ban hành chính sách, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban
hành chính sách. Nếu chính sách tổ chức thực hiện không đến nơi, đến chốn hoặc
thực hiện không đúng, không đầy đủ, sẽ không tác động trực tiếp đến đối tượng thụ
hưởng, dẫn đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng tiêu cực của nhân dân đối với các
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Điều này hoàn toàn bất
lợi về mặt chính trị - xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong công
tác quản lý. Qua việc tổ chức thực hiện, mới biết được chính sách có đúng, phù hợp
và đi vào cuộc sống hay không. Quá trình thực hiện với những hoạt động thực tiễn
sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn,
đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Đồng thời, việc phân tích, đánh giá mức độ tốt, xấu
của một chính sách chỉ có cơ sở đầy đủ, sức thuyết phục sau khi được thực hiện.
Thực tiễn là chân lý, kết quả thực hiện chính sách là thước đo, là cơ sở đánh giá một
cách chính xác, khách quan chất lượng và hiệu quả của chính sách. Việc đưa chính
sách vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình khó khăn, phức tạp, chịu sự tác động


12


của nhiều yếu tố, giúp cho các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách có
kinh nghiệm để đề ra được các giải pháp hữu hiệu trong thực hiện chính sách.
1.4. Các bước tổ chức thực hiện chính sách phòng, chống ma túy
1.4.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Để việc thực hiện một cách hiệu quả chính sách PCMT, cần phải tiến hành xây
dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể, rõ ràng từ kế hoạch tổ chức điều hành, kế hoạch chuẩn
bị các nguồn lực thực hiện, kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách phù hợp
với tình hình thực tế của địa phương; nhưng phải đảm bảo tuân thủ theo đúng quan
điểm, mục tiêu, yêu cầu của chủ thể ban hành. Khi xây dựng kế hoạch, phải quy định
cụ thể thời gian, lộ trình triển khai thực hiện; đồng thời xác định rõ các bên tham gia,
có sự phân công, phân định rõ trách nhiệm cho từng cơ quan, tổ chức, từng cán bộ,
công chức, tránh chồng chéo nhiệm vụ giữa cơ quan này với cơ quan khác; đặc biệt là
phải đảm bảo cung cấp đủ nguồn lực tài chính, con người, cơ sở vật chất, các công
cụ, phương tiện thực hiện, đảm bảo việc triển khai thực hiện diễn ra thuận lợi, mang
lại hiệu quả cao.
1.4.2. Phổ biển, tuyên truyền chính sách phòng, chống ma túy
Phổ biến, tuyên truyền chính sách PCMT là họat động mang tính thông tin, là
hình thức công khai chính thống chính sách cho các cơ quan có thẩm quyền, các đối
tượng chính sách và các bên tham gia hiểu rõ về mục đích, yêu cầu, tính đầy đủ,
tính đúng đắn của chính sách để các bên có liên quan tự giác tham gia thực hiện.
Ngoài hoạt động mang tính thông tin, công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách
còn giúp cho cán bộ, công chức tổ chức thực hiện chính sách nhận thức được đầy đủ
tính chất, mức độ, quy mô, tầm quan trọng của chính sách đối với đời sống xã hội, để
họ chủ động, tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu
chính sách và triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch chính sách.
Phổ biến, tuyên truyền chính sách PCMT được thực hiện bằng nhiều hình thức

như thông qua các buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, báo chí, truyền
thanh, truyền hình, hội diễn, sân khấu hóa, tổ chức Hội nghị, xét xử án lưu động công
khai, hình thức lan truyền cộng đồng (thông tin từ người này sang người khác), hoặc

13


lồng ghép các hình thức tuyên truyền khác. Công tác phổ biến, tuyên truyền đóng vai
trò rất quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chính sách. Nếu việc phổ biến, tuyên
truyền chính sách tiến hành một cách kịp thời và hiệu quả, đúng phạm vi, đối tượng,
có trọng tâm, trọng điểm, các đối tượng chính sách dễ dàng tiếp cận, nhận thức rõ
hiểm họa từ ma túy, tính cấp bách của công tác PCMT hiện nay. Từ đó, tự giác, tích
cực tham gia đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma tuý; hỗ trợ, giúp đỡ người sau cai
nghiện ma tuý tái hoà nhập cộng đồng; các đoàn thể CTXH, các tổ chức phi chính
phủ và cá nhân tích cực tham gia vào công tác PCMT, đặc biệt là công tác cai nghiện,
dạy văn hoá, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện; giúp cho các cơ
quan và cán bộ, công chức nắm vững quy trình, thực thi chính sách tiết kiệm được
thời gian, công sức, giúp cho chính sách được thực hiện một cách khả thi, hiệu quả.
1.4.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phòng, chống ma túy
Phân công, phối hợp thực hiện chính sách PCMT là việc cơ quan tổ chức thực
hiện chính sách xem xét chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cá nhân có liên quan
để phân công, phân nhiệm một cách cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ, khoa học và hợp lý, xác
định cơ quan nào đóng vai trò chủ trì, cơ quan nào có chức năng phối hợp, tránh trường
hợp nêu chung chung, nhằm đảm bảo trong suốt quá trình thực hiện chính sách diễn ra
suôn sẻ, thuận lợi, không bị chồng chéo, thiếu sót hoặc bị tắc nghẽn.
Việc phân công, phối hợp trong thực hiện chính sách là một trong những vấn đề
vướng mắc và yếu ở nước ta hiện nay. Có những chính sách khi ban hành xong không
thể triển khai thực hiện do sự phân công, phân nhiệm cho các cơ quan chủ quản và cơ
quan phối hợp thực hiện không rõ ràng hoặc chồng chéo; không có sự thống nhất giữa
các cơ quan chủ quản và cơ quan phối hợp nên xảy ra tình trạng đùn đẩy, né tránh hoặc

ôm đồm dẫn đến không ai làm hoặc làm nửa vời, thiếu trách nhiệm, không đến nơi, đến
chốn. Vì vậy, để việc tổ chức thực hiện chính sách PCMT thực sự có hiệu quả, trước
tiên phải có sự thống nhất cao về quan điểm, mục tiêu, chương trình, kế hoạch thực
hiện và phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp ủy đảng, hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp, phát huy vai trò nòng
cốt của lực lượng công an nhân dân, trách nhiệm của các ngành, các tổ chức chính trị -

14


xã hội và nhân dân tham gia PCMT; từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đến công
tác tuyên truyền, vận động, công tác cung ứng nguồn lực tài chính, trang thiết bị, cơ sở
vật chất đảm bảo cho việc thực hiện chính sách.
1.4.4. Duy trì chính sách phòng, chống ma túy
Duy trì chính sách là hoạt động nhằm bảo đảm cho chính sách tồn tại được và
phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Việc xây dựng, ban hành và tổ chức
triển khai thực hiện đã là rất khó, nhưng để duy trì chính sách ổn định lâu dài lại
càng khó hơn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động và thay đổi,
cùng với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tác động rất
lớn đến việc duy trì thực hiện chính sách. Việc duy trì thực hiện chính sách PCMT
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, yếu tố chủ quan và khách quan, nhưng chủ yếu là
các yếu tố khách quan cơ bản như yếu tố về sự ổn định chính trị, yếu tố về kinh tế,
yếu tố văn hóa, xã hội... chi phối, ảnh hưởng rất lớn đến việc duy trì thực hiện chính
sách. Nếu những yếu tố cơ bản này biến động theo chiều hướng tích cực, thì sẽ rất
thuận lợi trong việc duy trì thực hiện chính sách; tuy nhiên, nếu những yếu tố cơ
bản này biến động theo hướng tiêu cực, không thuận lợi, thì việc duy trì thực hiện
chính sách sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, các cơ quan và người thực hiện chính
sách phải thường xuyên dự báo tình hình, tham mưu, đề xuất những giải pháp phù
hợp, sử dụng những công cụ quản lý Nhà nước cần thiết tác động kịp thời, giúp cho
chính sách được duy trì ổn định, lâu dài.

1.4.5. Điều chỉnh, bổ sung chính sách phòng, chống ma túy
Điều chỉnh, bổ sung chính sách PCMT là hoạt động được thực hiện bởi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo hướng điều chỉnh chính sách ngày càng phù hợp với yêu
cầu quản lý và tình hình thực tiễn phát triển của xã hội. Theo quy định, cơ quan nào
ban hành chính sách thì cơ quan đó có quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách. Trong
quá trình hoạch định, xây dựng chính sách, khi triển khai áp dụng thực hiện trong thực
tiễn sẽ có những vấn đề bất cập, thiếu sót, chưa phù hợp hoặc phát sinh mới, mà chủ
thể ban hành không thể lường trước được. Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển, đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân nâng cao; quá trình đô thị hóa dẫn đến những

15


biến động dân cư, thay đổi điều kiện sống, chuyển đổi nghề nghiệp… kéo theo đó là
những mặt trái, sự gia tăng của tệ nạn xã hội; đối tượng phạm tội hoạt động tinh vi hơn,
liều lĩnh và manh động hơn, xuất hiện nhiều loại ma túy mới, sự gia tăng số người
nghiện và phạm tội là không thể tránh khỏi. Vì vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần tiến hành điều chỉnh, bổ sung chính sách phù hợp với tình hình thực tế. Tuy
nhiên việc điều chỉnh, bổ sung phải phù hợp, không được làm thay đổi mục tiêu chính
sách, nếu thay đổi mục tiêu chính sách, coi như chính sách thất bại.
1.4.6. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách phòng, chống ma túy
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách PCMT là họat động diễn
ra thường xuyên, liên tục của hệ thống các cơ quan Nhà nước, từ cơ quan có thẩm
quyền ban hành chính sách, các cơ quan tư pháp, đến các cơ quan và cán bộ, công
chức được phân công thực hiện chính sách, kể cả đối tượng chính sách nhằm xem
xét chính sách đã được triển khai tổ chức thực hiện chưa, tiến độ thực hiện đến đâu,
việc tổ chức thực hiện có đảm bảo đúng nguyên tắc, quy trình, kế hoạch đã ban
hành hoặc đã đến tận được với các đối tượng chính sách không. Bên cạnh đó, tiến
hành kiểm tra việc thực hiện chính sách để đánh giá thực trạng người nghiện, công
tác quản lý đối tượng (đang cai nghiện tại gia đình, cộng đồng, trung tâm, cai

nghiện bằng Methadone), công tác quản lý, giúp đỡ đối tượng sau cai nghiện vươn
lên tái hòa nhập cộng đồng; công tác quản lý địa bàn, điều tra, khám phá án, truy tố,
xét xử; cũng như phát hiện các trường hợp cơ quan, cán bộ công chức thiếu trách
nhiệm; quản lý hồ sơ đối tượng không chặt chẽ; quan liêu trong việc hỗ trợ thủ tục,
hồ sơ giúp đối tượng sau cai tiếp cận các nguồn vốn vay giải quyết việc làm; lợi
dụng chức vụ quyền hạn để thông đồng, móc nối với các đối tượng phạm tội mua
bán trái phép chất ma túy nhằm trục lợi, từ đó chấn chỉnh, xử lý kịp thời. Kiểm tra,
theo dõi sát việc thực hiện chính sách góp phần kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính
sách và chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính sách, giúp nâng cao hiệu lực,
hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách PCMT.
1.4.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách
phòng, chống ma túy
Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách PCMT là quá

16


trình xem xét, kết luận về chỉ đạo điều hành và chấp hành chính sách của các cơ quan và
cá nhân liên quan được phân công thực hiện chính sách, cũng như hiệu quả, lợi ích mang
lại cho xã hội, cho đối tượng hưởng lợi từ chính sách.
Tùy theo tính chất, mức độ, quy mô và chu kỳ, niên hạn của chính sách có thể
tiến hành đánh giá, tổng kết. Đối với việc thực hiện chính sách PCMT được xác định
là chính sách thường xuyên và lâu dài, định kỳ hàng năm đều tiến hành đánh giá kết
quả thực hiện lồng ghép trong việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phòng chống
tội phạm và tệ nạn xã hội, 05 năm tiến hành đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm một
lần. Việc đánh giá, tổng kết được thực hiện theo trình tự từ cơ sở đến Trung ương.
Trong đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách PCMT, phải đánh giá một cách toàn
diện tất cả các mặt, các bước từ việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đến
công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, quán triệt; công tác phổ biến tuyên truyền; công
tác phối hợp tổ chức thực hiện... để biểu dương, phát huy những ưu điểm; đồng thời

xem xét, đánh giá một cách khách quan những bất cập, hạn chế, thiếu sót ở mặt nào,
bước nào; những vấn đề mới phát sinh, những vấn đề không còn phù hợp với thực
trạng tình hình; đề ra các biện pháp sát đúng nhất để khắc phục, tổ chức thực hiện tốt
hơn; cũng như tập hợp, kiến nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp điều kiện thực tiễn.
Thước đo đánh giá kết quả thực hiện chính sách là: Tinh thần hưởng ứng với mục
tiêu chính sách; ý thức chấp hành các quy định về cơ chế, biện pháp thực hiện các mục
tiêu chính sách và hiệu quả chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian.
1.5. Những yêu cầu cơ bản đối với việc tổ chức thực hiện chính sách phòng,
chống ma túy
1.5.1. Yêu cầu thực hiện đúng mục tiêu chính sách phòng, chống ma túy
Mục tiêu thực hiện chính sách PCMT là mục tiêu tiên quyết và xuyên suốt của
Đảng và Nhà nước, được thể hiện trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, trong
Hiến pháp và được cụ thể hóa bằng Luật phòng, chống ma túy (sửa đổi, bổ sung năm
2008) [18] và các văn bản dưới luật; vì vậy, cần phải tuân thủ triệt để mục tiêu này.
Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, có thể linh hoạt thay đổi những biện pháp,

17


cách thức thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương, đơn vị, nhưng không
được làm thay đổi mục tiêu của chính sách.
1.5.2. Yêu cầu bảo đảm tính hệ thống trong thực hiện chính sách phòng,
chống ma túy
Tổ chức thực hiện chính sách PCMT đòi hỏi có sự tham gia của nhiều ngành,
nhiều cấp, từ Trung ương đến cơ sở; đồng thời có sự thống nhất chỉ đạo, phối hợp
của các cơ quan, tổ chức liên quan, của cả cộng đồng; trên cơ sở đó hình thành nên
các mối quan hệ đan xen; vì vậy, trong quá trình thực hiện chính sách phải đảm bảo
theo tính hệ thống.
Thứ nhất, là tính thứ bậc trên, dưới theo phân cấp quản lý hành chính. Trong thực

hiện chính sách, cấp dưới phải phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên nhằm đảm
bảo chính sách được thực hiện thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.
Thứ hai, là tính hệ thống theo chiều ngang, có sự phối hợp thực hiện giữa các
ngành, các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội trong cùng cấp; sự tham gia của
các tổ chức, cá nhân trong xã hội, đảm bảo việc thực hiện chính sách được sâu rộng
và chặt chẽ, tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội.
Thứ ba, là tính thống nhất của các loại chính sách trong hệ thống chính sách,
sự thống nhất giữa mục tiêu chính sách với mục tiêu chung, giữa mục tiêu chính
sách và biện pháp chính sách; giữa chính sách với các công cụ quản lý khác. Có như
vậy mới đảm bảo sự vận hành trơn tru, thống nhất cao trong nội bộ hệ thống chính
sách, tránh sự mâu thuẫn, xung đột.
1.5.3. Yêu cầu bảo đảm tính pháp lý, khoa học, hợp lý trong thực hiện chính
sách phòng, chống ma túy
Tính pháp lý trong thực hiện chính sách PCMT là yêu cầu bắt buộc đối với các cơ
quan, tổ chức và cá nhân tham gia thực hiện chính sách; thể hiện trong Hiến Pháp, Luật
phòng, chống ma túy, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản quy phạm
pháp luật được áp dụng trong phạm vi toàn quốc. Tất cả các cơ quan Đảng, Nhà nước, cơ
quan tư pháp từ Trung ương đến cơ sở phải thực hiện đúng, không được làm trái; trong
đó quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân được giao thực hiện

18


chính sách, thủ tục giải quyết các mối quan hệ trong thực hiện chính sách, cưỡng chế
thực hiện chính sách trong những điều kiện cần thiết...
Bên cạnh phải đảm bảo yêu cầu về tính pháp lý, trong thực hiện chính sách PCMT
phải được triển khai tổ chức thực hiện theo nguyên tắc, quy trình chặt chẽ đảm bảo tính
khoa học và hợp lý theo thứ tự các bước từ cao xuống thấp, từ trước đến sau; không thể
tự ý thực hiện một cách tùy tiện, ngẫu hứng theo sự chủ quan, duy ý chí, phá vỡ các
nguyên tắc và các quy định của chính sách. Trong triển khai tổ chức thực hiện phải chuẩn

bị kỹ các điều kiện cần thiết, đảm bảo cho việc thực hiện hiệu quả. Ngoài những chế độ,
chính sách của Trung ương, từng địa phương phải linh động xem xét, tùy theo khả năng,
điều kiện kinh tế của từng địa phương để có chế độ, chính sách hỗ trợ thêm cho phù hợp.
1.5.4. Yêu cầu bảo đảm lợi ích thực sự cho các đối tượng thụ hưởng chính
sách phòng, chống ma túy
Yêu cầu đảm bảo lợi ích thực sự cho các đối tượng thụ hưởng chính sách
PCMT là yêu cầu rất quan trọng trong thực hiện chính sách, đây là đích cuối cùng
của toàn bộ quá trình thực hiện chính sách. Bằng cách này hay cách khác, bằng biện
pháp này hay biện pháp khác, mong muốn và mục đích cuối cùng của chủ thể chính
sách là đưa được chính sách đến tận tay đối tượng thụ hưởng chính sách và đảm bảo
lợi ích một cách thực sự cho các đối tượng này, mục tiêu góp phần giảm tỷ lệ người
nghiện, tái nghiện, phạm tội ma túy; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và tạo
việc làm ổn định, giúp họ vươn lên trong cuộc sống, từ bỏ, tránh xa ma túy. Yêu cầu
của chính sách phải tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức cũng như các
mặt của đời sống của các đối tượng chính sách như về chế độ điều trị cai nghiện,
dạy văn hóa, dạy nghề phù hợp, tư vấn, hỗ trợ giải quyết việc làm; ưu đãi vốn vay
mua sắm, trang bị phương tiện sinh kế cho người sau cai nghiện; đảm bảo tính răn
đe của các bản án đối với đối tượng phạm tội... Đặc biệt, phải đáp ứng nhu cầu về
mặt tinh thần, làm cho các đối tượng chính sách cảm thấy yên tâm, cảm nhận mình
được quan tâm, không có sự kỳ thị, xa lánh của xã hội, xoá bỏ tự ti, mặc cảm; để họ
tự tin nỗ lực, phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Yêu cầu này đòi hỏi sự phấn đấu
nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong cả chu trình chính sách. Thỏa mãn được yêu

19


×