Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

ngai cuu đối với nhu cầu sử dụng của con nguời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 19 trang )

Ngãi cứu rừng
Tên khoa học : Artemisia japonica Thunb.
Đồng danh Artemisia vulgaris var, indica.
Phân bố : Tam Đảo
Bộ phận cho tinh dầu : phần trên mặt đất (0.2%)
Thành phần hóa học : β-cariophilen (24,1%); β-cubeben (12,0%);...
Ngãi cứu nhà
Tên khoa học : Artemisia orientalis Linn
Phân bố : cây mọc khắp nơi
Bộ phận cho tinh dầu : phần trên mặt đất (0.2%)
Thành phần hóa học : α-pinen; β-pinen; camphor; borneol; α-humulen; βcariphilen; β-farnesen;...
Ngãi cứu
Tên khoa học : Artemisia vulgaris Linn
Phân bố : cây mọc hoang ở miền núi, nhưng chủ yếu được trồng để làm thuốc
Bộ phận cho tinh dầu : phần trên mặt đất (0,2 – 0,34%)
Thành phần hóa học : 1,8-cineol; α-tujon; borneol;...
Thông thường, người ta chỉ biết đến công dụng bổ máu, điều kinh và chữa
cảm cúm của cây ngãi cứu. Thực ra, từ xưa ngãi cứu còn được sử dụng để chữa ngứa
và một số bệnh ngoài da. Gần đây, có thêm một số tài liệu củ Nhật Bản nói về tác
dụng dưỡng da và làm đẹp của cây ngãi cứu.
Cây ngãi cứu, một loại dược thảo thiên nhiên rất quen thuộc, có sẵn ở khắp
nơi. Trong ngãi cứu có tới 13 loại thành phần dinh dưỡng và tinh dầu, trong số đó ó
nhiều thành phần dễ dàng được hấp thụ trực tiếp qua da. Do đó phụ nữ Nhật thường
chế ngãi cứu một loại “ Mỹ phẩm thiên nhiên”, sử dụng để dưỡng da hàng ngày.
Trước hết: Trong ngãi cứu có một số chất có tác dụng thúc đẩy sự tuần hoàn
của máu, nhờ đó có thể cải thiện quá trình trao đổi chất, giúp da được nuôi dưỡng tối
hơn và có đủ nước. Ngãi cứu còn có tác dụng kích thích lên da non, giúp cho các vết
thương chóng liền miệng. Do đó, có thể làm cho da xù xì, đẩy những mục nước nhỏ
mau chóng trở lại bình thường, bằng phẳng như trước. Trong ngãi cứu còn có một
thành phần có ích đối với việc làm đẹp da là chất tanin
NGẢI CỨU



Tên gọi khác : Thuốc cứu, Ngải diệp, Nhả ngải (Tày), cỏ Linh ly (Thái), Quá sú
(H’Mông), Ngỏi (Dao).
Tên khoa học : Artemisia vulgaris L.
Họ : Cúc (Asteraceae).
BỘ PHẬN DÙNG


Phần trên mặt đất thu hái khi cây có hoa, dùng tươi hay phơi khô trong râm. Nếu tán nhỏ
rồi rây lấy phần lông trắng thì được ngải nhung.
MÔ TẢ CÂY

Hình 1: dược liệu tươi Ngải cứu
Cây thảo, sống lâu năm, cao 0,40-1m. Thân cành mọc sum sê, có rãnh và lông nhỏ. Lá
mọc so le, chẻ lông chim, phiến men theo cuống đến tận gốc, dính vào thân như có bẹ,
các thùy hình mác hẹp, đầu nhọn, mặt trên màu xanh lục sẫm, nhẵn hoặc có ít lông, mặt
dưới phủ đầy lông nhung màu trắng; những lá ở ngọn có hoa không chẻ.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân và đầu cành thành chùm kép mang nhiều đầu nhỏ, màu vàng
lục nhạt; tổng bao gồm những lá bắc nguyên giống như những vảy có lông; đầu mọc chúc
xuống cùng phía, hình trứng cụt, mang hoa cái hoặc hoa lưỡng tính trên cùng một cụm
hoặc ở những cụm khác nhau; thường hoa cái chiếm nhiều hơn; hoa không có mào lông;
tràng hoa cái có ống mảnh, cụt hoặc có 2 răng ở đầu, tràng hoa lưỡng tính hình phễu, có
5 thùy uống cong ra phía ngoài; nhị 5.
Quả bế, thuôn nhỏ, không có túm lông.
Toàn cây có mùi thơm hắc.
Mùa hoa quả: tháng 10-12.
PHÂN BỔ
- Phân bố:
Ngải cứu có nguồn gốc từ vùng ôn đới ấm châu Âu hoặc châu Á, hiện nay cây được trồng
và trở nên hoang dại hóa ở vùng nhiệt đới Nam Á, Đông – Nam Á và Ấn Độ, Pakistan,

Srilanca, Bangladesh, Lào, Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc …Ở Việt Nam, cây được trồng
từ lâu đời trong nhân dân từ nam đến bắc. Ở độ cao từ khoảng 800m trở lên, có cây ngải
dại mọc tự nhiên rất nhiều ở tỉnh Lào Cai( Sa Pa, Bắc Hà, Bát Xát, Mường Khương, Than
Uyên); Lai Châu ( Phong Thổ, Sìn Hồ, Tuần Giáo, Tủa Chùa); Yên Bái (Mù Cang Chải);
Cao Bằng (Trùng Khánh, Bảo Lạc); Lạng Sơn (Vùng Mẫu Sơn); Hòa Bình (Mai Châu) và Hà
Giang…chính ngải dại nguồn dược liệu được khai thác thường xuyên, mỗi năm phải đến


1000 tấn để sản xuất thuốc. Còn Ngải cứu trồng chỉ được sử dụng tại chỗ, trong phạm vi
nhân dân.
Ngải cứu là cây ưa ẩm, có thể hơi chịu bóng, thường được trồng phân tán trong các vườn
gia đình, hay các vườn thuốc của các cơ sở y học dân tộc. Cây mọc thành từng khóm, nếu
không bị thu hái, tỉa thưa sẽ nhanh chóng bò lan tạo thành đám lớn khó phân biệt giữa
các cá thể. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa xuân - hè; về mùa đông, phần thân cành
trên mặt đất có hiện tượng tàn lụi một phần. Ngải cứu ra hoa quả nhiều hàng năm, song
hạt không được sử dụng để gieo trồng.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC
- Toàn cây Ngải cứu chứa tinh dầu có hàm lượng 0,20 – 0,34%. Thành phần chủ yếu
của tinh dầu là các monoterpen và sesquiterpen. Gồm 1,8-cineol, camphor, terpinen 4-O-l,
β-pinen, (–)-borneol, mycren và vulgrin (là những thành phần ít thay đổi) còn thuyon (α
hoặc ) thường có mặt với hàm lượng thấp hoặc đôi khi không có (PROSEA – 1999). Ngoài
ra còn dehydromatricaria ester, tetradecatrilin, tricosanol, aracholalcol.
- Các flavonoid hầu hết là 3-0- flavonol luterosid, một triterpene là fermenol. Đáng chú
ý là hợp chất sesquiterpenlacton rất phổ biến trong chi artemisia, nhưng hiếm thấy trong
Ngải cứu. Người ta mới phát hiện một chất là psilostachyin trong một mẫu Ngải cứu ở
Nam Tư (cũ).
- Trong Ngải cứu Việt Nam, có nhiều chất màu indigo – base, gần 50 hợp chất đã phân
tích và xác định có trong lá chủ yếu là β caryophylen 24% và β cubedene 12% ( PROSEA
-1999).




TÁC DỤNG DƯỢC LÝ
- Theo tài liệu nước ngoài các chất herniarin và umbelliferon tồn tại trong than, lá ngải
chân vịt có tác dụng an thần, lợi mật, kháng khuẩn, diệt giun sán, cầm máu. Chất
herniarin còn có tác dụng bảo vệ gan để điều trị viêm gan. Chất lactiflorenol trong tinh
dầu có tác dụng bình suyễn, kháng khuẩn.
- Theo kinh nghiệm dân gian, Ngải cứu được dùng chữa bế kinh, đau bụng kinh, kinh
nguyệt không đều, đại tiểu tiện ra máu, ho, vết thương dồn dập.
- Tại Châu âu Ngải cứu được sử dụng kích thích tiết dịch dạ dày ở bệnh nhân chán ăn,
chống đầy hơi, chướng bụng, đau bụng, tiêu chảy, táo bón, chuột rút, nhiễm giun sán,
động kinh, nôn, các vấn đề về kinh nguyệt, kinh nguyệt không đều.
CÔNG DỤNG
Trong cuộc sống


Dùng sống hoặc chế biến như sau:

- Ngải diệp sao: Dùng Ngải nhỏ, sao lá ngải cho khô, hơi vàng.
- Ngải diệp sao cháy: Lấy lá Ngải cho vào nồi, sao đến khi có màu đen, vẩy ít nước để
trừ hỏa độc.
- Ngải diệp chích mật:
Ngải cứu: 10kg
Mật ong: 2kg
Đem mật ong pha loãng đun sôi, cho lá ngải vào đảo đều cho đến khi khô vàng, sờ
không dính tay là được.
- Ngải diệp chích giấm:
Ngải cứu : 10kg
Giấm : 1.2kg
Trộn đều lá ngải với giấm để 30 phút.Sao đến khô khi dược liệu có màu đen

- Ngải diệp chích rượu:
Ngải cứu: 10kg
Rượu: 1.5 – 2kg
Trộn đều sao cho đến khô đen hoặc sao lá ngải cho đen rồi phun rượu vào, vẩy ít
nước để trừ hỏa độc.
- Ngải diệp chưng với rượu, giấm, gừng, muối:
Ngải cứu: 10kg
Rượu, giấm: mỗi thứ 1kg
Gừng tươi: 20kg
Muối ăn: 80kg
Các bài thuốc đông y
Bài 1: Chữa đại tiện ra máu
Ngải cứu, Hạn liên thảo, Lá Diễn ( Dicliptera chinensis (L.)Ness) mỗi vị 60g, Xa tiền thảo
30g. Giã nhỏ, thêm nước gạo 90 mL,gạn lấy nước, thêm đường trắng uống.Ngày 1 lần,
trong 2-3 ngày.
Bài 2: Chữa vết thương tụ máu
Ngải cứu 250g, Thủy trạch lan 120g, giã nát dung rượu sao nóng, gạn lấy 60ml nước
uống, bã đắp ngoài.


Trong y học hiện đại
Chế phẩm Cao Ích Mẫu và OP.CIM của CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC PHẨM OPC được bào
chế với công nghệ tiên tiến, phối hợp Ích mẫu, Hương phụ, Ngãi cứu, có hiệu quả làm
giảm đau đối với chứng đau bụng kinh, có tác dụng điều chỉnh chu kỳ hành kinh, làm
thông kinh.

Nước chưng cất tinh dầu từ lá của cây Artemisia absinthium L. thu thập từ
Ardabil, miền tây bắc Iran, được phân tích bằng sắc ký khí và khối phổ (GC và GCMS). Trong lá dầu của A. absinthium, 19 thành phần, trong đó đại diện 100% tổng
thành phần đã được xác định: 1,8-cineole (36.46%), borneol (25,99%) và long não
(10,20%) là thành phần chính trong dầu này.

Những chiếc lá của A. absinthium đã được điều tra để phân tích hoạt tính
kháng khuẩn của họ, hoạt động chống oxy hóa và tổng hàm lượng phenolic. Các
nghiên cứu hiện nay cho thấy lá dầu thiết yếu của A. Absinthium chỉ hoạt động đáng
kể đối với Candida albicans. Killing động học của các vi sinh vật khác nhau xử lý
bằng dầu lá của A. absinthium chỉ ra rằng C. albicans là dễ bị tổn thương nhất. Tổng
phenol nội dung của tinh dầu lá của A. absinthium được xác định là 168,67 ± 9,50
mg gallic axit tương đương / mg mẫu vật.
Trong số đó, Artemisia absinthium (absinthium, absinthe cây ngải, ngải cứu,
ngải cứu chung, gừng xanh lá cây hoặc cây ngải lớn) là một loài ngải cứu nguồn gốc
từ vùng ôn đới lục Á-Âu và Bắc Phi (Linnaeus, 1753; Wyk và Wink, 2004))..
Nó phát triển một cách tự nhiên trong khu vực rộng của Iran. A. absinthium là
sử dụng trong y học như một loại thuốc bổ, thuộc về bao tử, sát khuẩn, chống co thắt,
thuốc tống tiểu, giải nhiệt và thuốc trừ giun sán. Các thành phần của lá và ra hoa của
A. absinthium bao gồm : silica, hai chất đắng (Absinthin và anabsinthine), Thujone,
tannic và chất nhựa, axit malic và axit succinic. Các vị đắng của cây ngải là từ


sesquiterpene lactones (0,15-0,4%) (Anonymous, 2003); absinthin và artabsin là
những cái chính (Thomsen, 2005; Mills và Bone, 2005) và guainolides (Anonymous,
2003). Đắng thuốc bổ (Mills và Bone, 2005), thơm cay đắng (Wichtl, 2004), thuốc
trừ giun sán (Mills và Bone, 2005), thuộc về bao tử (Anonymous, 2003). Ký sinh
trùng (Mills và Bone, 2005) khử trùng và lợi mật (Thomsen, 2005) tống hơi, chống
viêm và thuốc chống trầm cảm nhẹ (Hoffmann, năm 2003; Mahmoudi et al., 2009).
Hiệu quả của cây ngải như là một đắng thơm và đặc tính kháng khuẩn của nó
đến từ những cay đắng hợp chất và tinh dầu của nó. Chất chiết xuất của nhà máy đã
cho thấy để triển lãm hoạt tính kháng khuẩn mạnh, đặc biệt là chống lại các vi khuẩn
gây bệnh Gram dương (Fiamegos et al., 2011). Dầu của nhà máy có thể được sử
dụng như một chất kích thích tim để cải thiện lưu thông máu. Nguyên chất dầu cây
ngải là rất độc hại, nhưng với liều lượng thích hợp đặt ra rất ít hoặc không có nguy
hiểm (Lust, 1979). Dầu là một nguồn tiềm năng của các đại lý mới để điều trị

leishmaniasis (Tariku et al., 2011). Mặc dù A.absinthium đã được sử dụng như là
phương thuốc dân gian để điều trị bệnh khác nhau trong y học, như được nêu ra có
rất ít nỗ lực thực hiện để nghiên cứu các chất chống oxy hóa và kháng khuẩn tiềm
năng của các nhà máy này chống lại một loạt các vi sinh vật. Như vậy, mục đích của
nghiên cứu này là để ước tính tổng hàm lượng phenolic, chất chống oxy hóa và hoạt
tính kháng khuẩn của A. absinthium. Hiện tại giao dịch nghiên cứu với các thành
phần hóa học, kháng khuẩn, chống oxy hóa và gốc tự do nhặt rác thuộc tính của Tinh
dầu của A. absinthium thu được bằng steamdistillation.



MÔ tẢ CHUNG
Ngãi đắng ( ngãi áp xanh) là một cây bụi lâu năm thảo mộc với màu trắng
xám thân cây phủ đầy lông mượt mịn, cao 30-90 cm; lá cũng mượt, lông, và các
tuyến nội tiết, 2-3-pinnatisect, thùy petiolate, chủ yếu là tù; mùi thơm, vị cay; vị
đắng; nguồn gốc từ châu Âu, Bắc Châu Phi, Á và phương Tây, tịch Bắc Mỹ; trồng
rộng rãi. Bộ phận dùng là lá và ngọn hoa (tươi và khô), thu hoạch ngay trước hoặc
trong quá trình ra hoa; từ các loại dầu dễ bay hơi thu được bằng chưng cất hơi nước
(EVANS; FERNALD; YOUNGKEN).
THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Ngãi đắng chứa lên đến 1,7% dầu dễ bay hơi gồm chủ yếu là Thujone (α-β)
và β-caryophyllene. Bitterprinciples bao gồm:
 artabsin (monome tương tự của absinthin)
 guaianolides dime (absinthin và absintholide)
 artabsinolides A-C (EVANS)
 artemetin (5-hydroxy-3,6,7,30,40-pentamethoxyflavone)
 lactones biệt khác bao gồm arabsin
 Artabin
 ketopelenolide một (Một germacranolide)
 artenolide, artemoline, và deacetylglobicin (guaianolides monomeric),

8 anabsin
 isoabsinthin (dime guaianolides) .
 các thành phần khác có số lượng dầu tương đối cao bao gồm
sabinene, trans-sabinyl acetate + lavandulyl acetate, (−) - sabinyl
acetate, (Z) -epoxy-α-ocimene, chrysanthendiol (+), và chrysanthenyl
acetate, ....


 Cadinene, camphene, bisabolene, thujyl rượu, myrcene, 1,8-cineole,
và azulenes (ví dụ, chamazulene, 3,6-dihydrochamazulene, và 5,6dihydrochamazulene) cũng được tìm thấy
 Chamazuleneatconcentrationsofupto0.29% là phát hiện trong những
bông hoa vào đầu flowering.
 Ngoài ra, (−) - và trans-epoxyoci-menes được phân lập từ một
absinthium Ý dầu mà họ chiếm 16-57% .
Thay đổi địa lý xuất xứ, độ cao, và phơi nhiễm ảnh hưởng đến sự khác biệt về
chất lượng và số lượng của tinh dầu. Các dầu dễ bay hơi của chemotypes khác nhau
có thể chứa> 40% của một trong hai p-Thujone, chrysanthenyl acetate, transsabinylacetate, hoặc (−) - epoxyocimene (EVANS) .
nguyên liệu thực vật thu thập được ở Argentina (Patagonia) gồm có 59,9% βThujone (2,34% athujone), sabinylacetate (18.11%), (−) - epoxyocimene (1,48%),
caryophyllene (1,92%), linalool (1,15%), và sabinene (1,09%), với dấu vết lượng của
α-pinen, α-terpineol, germacrene D, nerylacetate, nerylpropionate, nerol, geranyl
propionate, và geraniol (<1% mỗi) .các thành phần khác của nhà máy bao
gồm inulobiose (một oligofructoside), coumarin (scopoletin, umbelliferone), acid
phenolic, flavonoid, axit amin, tannin (4,0-7,7%), lignans (3,7-dioxabicyclo [3,3,0]
-octanes), axit pipecolic, và sterol, bao gồm một sterol hạ sốt (24 ζ-ethylcholesta7,22-dien-3β-ol) .
DƯỢC VÀ Hoạt động SINH HỌC
Mặc dù rằng Thujone và tetrahydrocannabinol, nguyên tắc hoạt động của
absinthe và cần sa, tương ứng, tương tác với một thụ thể phổ biến trong hệ thống thần kinh
trung ương, không có bằng chứng về hoạt động đó là found.
hoạt động chống ung thư cũng đã được reported và do một flavonoid, artemisetin.
Tinh dầu và chiết xuất của nhà máy đã thể hiện trong ống nghiệm kháng

khuẩn, kháng nấm ,nematocidal, acaricidal, và sốt rét activities. In vitro antimaliarial
Hoạt động này được tìm thấy từ hai homoditerpene peroxit cô lập từ các bộ phận trên
không của plant. Dầu đã được hiển thị để đẩy lùi muỗi, bọ chét, và flies.
ĐỘC
Độc tính của A. absinthium và Thujone vẫn chưa được hiểu rõ;
Tuy nhiên, khi uống liều lớn Thujone gây co giật. sử dụng theo thói quen hoặc
liều lượng lớn có cồn đồ uống có chứa A. absinthium đã kết hợp với tổn thương não,
động kinh, tự tử, ảo giác, bồn chồn, mất ngủ, ác mộng, nôn mửa, chóng mặt, run, và
convulsions. Với ngoại lệ có thể có của sau này do hoạt động GABA-điều chỉnh của
a- và b-thujones, có bao nhiêu trong số này ảnh hưởng độc hại quan sát được gây ra
bởi sự nhà máy vẫn chưa được biết. Thujone là porphyrogenic và do đó có thể gây
nguy hiểm cho bệnh nhân khiếm khuyết gan heme synthesis. Áp dụng bên ngoài
tinh dầu là nontoxic.
SỬ DỤNG
Dược liệu, dược phẩm và Mỹ phẩm.
Dầu được sử dụng như một thành phần trong các chế phẩm rubefacient nhất
định; chiết xuất hiện ít được sử dụng nội bộ, ngoại trừ một số thuốc bổ đắng cho
chán ăn và các triệu chứng khó tiêu (đắng giá trị của ít nhất 15.000 người)
(Blumenthal 1). Các dầu đã được sử dụng như một thành phần hương thơm trong
xà phòng, chất tẩy rửa, các loại kem, sữa, và nước hoa, với mức độ sử dụng tối đa 0,01%
trongchất tẩy rửa và 0,25% trong nước hoa.
Món ăn.


Artemisia absinthium được sử dụng rộng rãi trong hương vị đắng có cồn và vermouth
công thức; mức độ sử dụng tối đa trung bình của 0,024% báo cáo. Dầu và chiết xuất cũng là
được sử dụng trong đồ uống có cồn cũng như trong khác loại thực phẩm như đồ uống không
cồn, sa mạc sữa đông lạnh, bánh kẹo, nướng hàng hóa, và gelatins và bánh tráng miệng. báo
cáomức độ sử dụng tối đa trung bình của dầu là khoảng 0,006% trong bốn loại thực phẩm
cuối cùng.

Phổ biến thế kỷ 19 có cồn đồ uống, rượu absinthe, được thực hiện bởi ngâm
absinthium và thảo dược thơm khác trong rượu,chưng cất tinh thần, và sau đó thêm hương
liệu hoặc chất màu. Absinthe đã bị cấm ở nhiều nước ngay sau khi lần lượt của 19 thế kỷ
(năm 1907 tại Thụy Sĩ; năm 1912 tạiHoa Kỳ). bán của nó tiếp tục tồn tại cho đến khi Pháp
191.542 nơi nó được phổ biến giữa các nhà văn và các nghệ sĩ, bao gồm Toulouse-Lautrec
và Vincent van Gogh, và trong một thời gian là nhất mạnh tiêu thụ đồ uống có cồn trong
country.
Thức ăn bổ sung / Thực phẩm Y tế.
không phải thường được sử dụng; cắt và rây loại thảo dược như trà (Truyền hoặc thuốc sắc)
báo cáo sử dụng như là một kích thích tiêu hóa đắng (HOFFMAN); cũng sử dụng trong các
hình thức của một chiết xuất dung dịch nước với liều tương đương với 2-3 g của loại thảo
dược để điều trị chán ăn, các triệu chứng khó tiêu, vv (Blumenthal 1).
Y học cổ truyền.
Được sử dụng làm thơm cay đắng cho việc thúc đẩy sự thèm ăn, tăng cường hệ
thống trong cảm lạnh và cảm cúm, và như lợi mật cho các rối loạn gan và túi mật, thường
ở dạng của một chiết xuất loãng; cũng thế như emmenagogue, antianorexic, antidyspetic
(EVANS), phục hồi tinh thần (buồn), giải nhiệt, 36 và tại chỗ cho contusions, phù nề,
loét, như một antiseptic và một loại thuốc giun; Hoạt động anthelmintic có lẽ là kết quả của
lactones liên quan đến santonin tìm thấy trong wormseed (A. cina Berg.) và Artemisia
khác species.44 Các lá khô và bị phân mảnh là sử dụng ở Philippines để điều trị herpes,
ghẻ có mủ, và eczema và để tăng tốc độ chữa bệnh của wounds.
NGÃI THƠM
Nguồn: Artemisia dracunculus L. (Gia đình Compositae hoặc Asteraceae).
Common / tên tiếng địa phương: Estragon.
MÔ tẢ CHUNG
Một màu xanh lá cây, thảo mộc lâu năm nonhairy với một cương nhánh gốc; lên cao khoảng
1,2 m; tự nhiên đến châu Âu (miền nam nước Nga) Á và phương Tây; trồng ở châu Âu
(Pháp, Đức, Ý,vv), Hoa Kỳ (California), Argentina, và các nước khác. Bộ phận dùng là lá
hoặc thảo mộc trên mặt đất; từ sau này, tarragon dầu thu được bằng cách chưng cất hơi
nước. Hai giống giao dịch: A. dracunculus cv. '' Sativa, '' tarragon Pháp, và A. dracunculus,

Nga giấm (syn. A. redowskii). tarragon Nga không có hương vị tốt của giấm Pháp. các nước
sản xuất dầu mỏ lớn bao gồm Pháp và Hoa Kỳ.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Các loại thảo dược trên mặt đất thường chứa 0,25-1% dầu dễ bay hơi; coumarin (coumarin,
esculetin dimethyl ether, herniarin, scopoletin, vv);. isocoumarins (ví dụ, artemidin và
artemidinal); flavonoid (ví dụ, rutin và quercetin), sterol (b-sitosterol, stigmasterol,
vv);. một hydrocarbon bão hòa, C29H60 (M.P.63-64 C); 1 tannin; chất đạm; và những người
khác (DANH VÀ HỒ ¨ RHAMMER; Marsh).
dầu giấm chủ yếu gồm ESTRAGOLE (Methyl chavicol, 70-81%). 7-10 Các thành phần
khác hiện nay bao gồm capillene, ocimene, nerol, Thujone, 1,8-cineole, 4methoxycinnamaldehyde, α-pinen (0,89%), β-phellandrine (1,07%), limonene (2,68%), và
γ- terpinene (10,40%), trong số những người khác; nerol đã báo cáo là thành phần chính của


một loại dầu có origin.11 Anh Elemicin, trans-isoelemicin, eugenol, methyl eugenol, và
trans-methyl isoeugenol đã được tìm thấy trong dầu của Nga tarragon. Thành phần của tinh
dầu của Iran A. dracunculus đã được báo cáo bao gồm xuyên ANETHOL và α-transocimene là thành phần chính (21,1% và 20,6%,tương ứng), thêm vào limonene, α- và
β-pinen, allo-ocimene, methyleugenol, α-terpinolene, bornyl acetate, và
bicyclogermacrene.Theo một báo cáo khác, Thổ Nhĩ Kỳ A. dracunculus chứa Z-ANETHOL
như thành phần chính (81%) cùng với Z và E-β-ocimene, limonene, và methyleugenol.
Các gốc đã được báo cáo là có chứa một số oligosaccharides (bao gồm inulobiose),
polyacetylenes, artemidiol [3- (1,2-dihydroxybutyl) -isocoumarin], và isocoumarins.
khác
isocoumarin khác, artemidinol, có cũng được báo cáo là bị cô lập từ tarragon.
Phân đoạn chiết xuất các mô tế bào của A. dracunculus hướng dẫn bởi tiềm gắn thụ thể
benzodiazepine con người để phân lập delorazepam và temazepam ở nồng độ dao động 100200 ng / g. Thisisthe firstreport trên thepresenceofsuchcompoundsinplantcells.vCác bộ phận
trên không chứa alkamides, pellitorine, và neopellitorine A và B. sau hai được phân lập các
hợp chất mới từ A. dracunculus.
4,5-Di-O-caffeoylquinic acid, davidigenin,6-demethoxycapillarisin, và 2’,4’dihydroxy- 4-methoxydihydrochalcone có gần đây được báo cáo trong dịch chiết ethanol
của tarragon.
DƯỢC VÀ HOẠT ĐỘNG SINH HỌC

Tarralin, một chiết xuất ethanol của A. dracunculus, tiêm cho chuột bị tiểu đường biến đổi
gen bởi bằng ống miệng dẫn đến một hiệu ứng antihyperglycemic đáng kể so với
troglitazone và metformin. Hiệu quả được cho là do sự ức chế reductase aldose bởi bốn hợp
chất nói trên, đó là so sánh với sản phẩm của quercitrin như một tài liệu tham khảo control.
Tinh dầu là mạnh kháng khuẩn (Mặc dù ESTRAGOLE 81% hàm lượng dầu không phải là
chịu trách nhiệm về hoạt động) và chống nấm chống Colletrotichum acutatum, C. fragariae,
andC.gloeosporioideswith5-phenyl-1,3-pentadiyne và capillarin như constituents.24 hoạt
động Các methanol cũng là hoạt động chống lại các vi khuẩn Gram âm Escherichia coli,
Shigella, Listeria monocytogenes, và Pseudomonas aeruginosa.
Tinh dầu ngải giấm Iran hiển thị một hoạt động chống co giật dose- và phụ thuộc thời gian ở
chuột tại ED50 giá trị ít hơn 1 ml / kg. An thần và động cơ suy giảm là Ngoài ra sản xuất ở
các liều thuốc chống co giật nhất định.
ĐỘC
ESTRAGOLE, thành phần chính của dầu giấm, đã được báo cáo để tạo ra các khối u ở
chuột. Mặc dù dầu giấm nguyên chất đã được báo cáo là gây kích ứng da thỏ và lưng của
những con chuột không có lông, nó đã được tìm thấy không gây khó chịu và nonsensitizing
cho con người ở nồng độ 4% trong petrolatum; đó là cũng không phototoxic.26 Chiết xuất
ethanol (Tarralin) gần đây đã được chứng minh là không có cấp tính và ngộ độc mãn tính ở
chuột tại 1000 mg / kg / ngày uống. hoạt động gây đột biến trong các thử nghiệm Ames
cũng được negative.
SỬ DỤNG
Dược liệu, dược phẩm và Mỹ phẩm.
Dầu được sử dụng như một thành phần hương thơm trong xà phòng, chất tẩy rửa, các loại
kem, sữa, và nước hoa, với mức độ sử dụng tối đa 0,4% báo cáo trong nước hoa
Món ăn.
Các lá thường được sử dụng như một loại thảo dược trong nước. Nó cũng được sử dụng
rộng rãi như một thành phần hương vị trong nhiều sản phẩm thực phẩm, bao gồm đồ uống
không cồn, kẹo, thịt và sản phẩm thịt, gia vị và gia vị (ví dụ, giấm), chất béo và các loại dầu,



và nước thịt. Cao nhất trung bình mức độ sử dụng tối đa báo cáo là khoảng 0,27% (2731
ppm) trong gia vị và gia vị. Ngoài tất cả các loại thực phẩm trên, dầu được sử dụng trong
các đồ uống có cồn (ví dụ, rượu mùi), món tráng miệng sữa đông lạnh, thực phẩm nướng,và
gelatins và bánh tráng miệng. trung bình cao nhất mức độ sử dụng tối đa được báo cáo là
khoảng 0,04% (414 ppm) trong thực phẩm nướng.
Y học cổ truyền. Các loại thảo dược được sử dụng như một thuộc về bao tử, lợi tiểu, thôi
miên, emmenagogue, và trong điều trị đau răng. Ngoài ra báo cáo là
được sử dụng để điều trị các khối u.

LEUNG’S ENCYCLOPEDIA OF COMMON NATURAL INGREDIENTS

The Artemisia L. Genus: A Review of Bioactive Essential Oils
500 loài Artemisia chủ yếu được tìm thấy ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Họ là
thảo dược chủ yếu là cây lâu năm thống trị cộng đồng thảo nguyên rộng lớn của châu
Á. Châu Á có vĩ đại nhất nồng độ của các loài, với 150 đan có đối với Trung Quốc,
174 ở cựu Liên Xô, khoảng 50 báo cáo cho Nhật Bản, và 35 loài thuộc họ tìm thấy ở
Iran.
Loài Artemisia được thường xuyên sử dụng cho điều trị các bệnh như sốt rét,
viêm gan, ung thư, viêm và nhiễm trùng do nấm, vi khuẩn và virus [3]. Một số loài
Artemisia được sử dụng cho việc tạo vòng hoa thơm, và như một nguồn các loại tinh
dầu được sử dụng trong hương liệu của vermouth; nhiều chi tiết được đưa ra dưới
đây.
Chế phẩm từ Artemisia Abrotanum L. ("gổ sản xuất ở miền nam") đã được sử
dụng trong y học cổ truyền để điều trị một số bệnh, bao gồm các bệnh đường hô hấp
trên. Ngày nay, cây lâu năm này là sử dụng chủ yếu cho mục đích nấu nướng hoặc
mỹ phẩm [4].
Artemisia absinthium L., thường được gọi là "cây ngải", là một loại cây lâu
năm vàng hoa phân phối khắp các phần khác nhau của châu Âu và Siberia, và được
sử dụng cho các hiệu ứng chống ký sinh trùng và để điều trị chứng biếng ăn và khó
tiêu. Các bộ phận trên không có mặt trong nhiều chế phẩm thảo dược dạ dày, trong

bổ sung chế độ ăn uống, và trong các đồ uống có cồn, sản phẩm absinthe dụ, được
thưởng thức một
sự hồi sinh của sự nổi tiếng trên toàn thế giới [5].
Ở các nước Á-Phi, Artemisia abyssinica Schultz-Bip được sử dụng trong y học
dân gian như một thuốc trừ giun sán, chống co thắt, antirheumatic và kháng khuẩn
đại lý. Cây này mọc nhiều ở phần khác nhau của Ả-rập Xê-út và là địa phương gọi là
"ather" [6].
Artemisia afra Jacq. ex Willd là một cây thuốc nổi tiếng của Nam Phi, nơi nó
được gọi như "als Wilde". Nó được sử dụng rộng rãi cho nhiều bệnh bao gồm cảm
lạnh, ho, tiểu đường, chứng ợ nóng, viêm phế quản và hen suyễn [7].
Artemisia annua L. ( "ngọt ngải", "qinghao") có truyền thống được sử dụng ở
Trung Quốc điều trị sốt và ớn lạnh. Mặc dù ban đầu được phát triển ở châu Á và châu
Âu, cây được trồng ở châu Phi và được sử dụng như một loại trà để điều trị bệnh sốt
rét. Artemisinin đã được xác định là nguyên tắc chống sốt rét của nhà máy, và các
dẫn xuất artemisinin được thành lập như hiện nay thuốc chống sốt rét với các hoạt
động hướng về nhiễm Plasmodium khác kháng thuốc [8].


Artemisia arborescens L. ( "lớn ngải cứu", "arborescent Mugwort") là một biến
hình thái loài (hoặc hỗn hợp của các loài) với màu xám-xanh lá bạc. Nó có nguồn gốc
ở môi trường sống khác nhau của khu vực Địa Trung Hải, nơi mà nó xảy ra như một
cây bụi phát triển lên đến một mét chiều cao. Theo văn hóa dân gian phổ biến, nó
được sử dụng như một phương thuốc chống viêm [9].
Artemisia Argyi Levl. et Vant. là một loại cây lâu năm thân thảo với một thân
rễ bò. Nó có nguồn gốc Trung Quốc, Nhật Bản và các bộ phận Viễn Đông của Liên
Xô cũ. Tại Nhật Bản, nó được gọi là "gaiyou" và ở Trung Quốc như "ai ngươi". Nó
được sử dụng trong y học thảo dược cho điều kiện của gan, lá lách và thận [10].
Các lá bột của Artemisia Biennis Willd. được sử dụng làm gia vị và phương thuốc
dân gian chất khử trùng. Họ đã được áp dụng bên ngoài trong nô lệ và rửa bởi những
cư dân bản địa của Bắc Mỹ để điều trị vết thương và vết thương, và trong nội bộ để

điều trị nhiễm trùng ngực [11].
Artemisia campestris L. là một loại thảo dược lâu năm yếu ớt thơm lan rộng ở
phía nam của Tunisia, thường được gọi là "tgouft". Những chiếc lá của cây này được
sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền như một thuốc sắc cho antivenin của họ,
chống viêm, chống rrheumatic và đặc tính kháng khuẩn [12].
Artemisia cana Pursh. được sử dụng như là gia vị và phương thuốc dân gian
như một chất khử trùng [13]. Ở Argentina, Artemisia Douglasiana Besser.
( "California Mugwort"), đó là ngẫu nhiên và trồng ở vùng Cuyo, được sử dụng trong
y học dân gian và được biết đến dưới tên gọi chung của "Matico". Việc sử dụng phổ
biến của truyền lá của "matico" là để điều trị loét dạ dày tá tràng và rối loạn tiêu hóa
[14].
Artemisia dracunculus L. ( "giấm") là một loại thảo dược lâu năm, trong đó có
một lịch sử lâu dài của việc sử dụng trong ẩm thực truyền thống. Nó cũng sở hữu một
loạt các lợi ích sức khỏe và do đó đã được sử dụng rộng rãi là một loại thuốc thảo
dược. Hai giống được mô tả tốt (tiếng Nga và tiếng Pháp) được sử dụng rộng rãi và
khác nhau về mức ploidy, hình thái học và hóa học. Các thực vật và hóa học thành
phần được chi tiết chặt chẽ trong văn học, sau này chủ yếu tập trung vào các thành
phần tinh dầu, trong đó cung cấp đặc biệt của nó hương vị [15].
Artemisia Echegaray Hieron thường được biết đến ở Argentina là "ajenjo", và
được sử dụng như là một cách tự nhiên phụ gia thực phẩm [13]. Decoctions của lá và
thân của Artemisia frigida Willd. được sử dụng cho ho và bệnh tiểu đường [4].
Artemisia fukudo Makino được phân bố dọc theo các bờ biển của đảo Jeju của
Hàn Quốc và trong phía nam của bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản và Đài Loan. Nhà
máy này được sử dụng như một chất gia vị và trong một các loại mỹ phẩm tại Hàn
Quốc. Nó cũng có tác dụng sinh học khác nhau, bao gồm chống viêm,antitumour và
tính chất kháng khuẩn [16].
Artemisia haussknechtii Boiss. được sử dụng trong thực phẩm như một hương
liệu, trong nước hoa và dược phẩm sản phẩm (đối với tính chất chức năng của nó) ở
Iran [17].
Artemisia herba-alba Asso (syn. Ngải giun L., brevifolia Artemisia Wall.)

Được sử dụng trong y học cổ truyền của vùng Badia bắc Jordan, dưới hình thức của
một thuốc sắc, chống lại sốt và các vấn đề kinh nguyệt và thần kinh [18].


Artemisia iwayomogi Kitamura là một loại thảo dược lâu năm dễ dàng tìm
thấy trên khắp Hàn Quốc. Nó được gọi là "Hanin-jin" hoặc "dowijigi" trong tiếng
Hàn, và theo truyền thống được sử dụng để điều trị bệnh gan khác nhau bệnh, bao
gồm viêm gan [19].
Artemisia Judaica L. là một loài cây bụi thơm lâu năm mọc rộng rãi trong các
sa mạc và trên Bán đảo Sinai ở Ai Cập, và là một loại thuốc thuốc trừ giun sán rất
phổ biến ở hầu hết Bắc Phi và các nước Trung Đông, nơi nó được gọi bằng cái tên
tiếng Ả Rập của "shih" [7]. Những cư dân của vùng đông bắc của Mexico sử dụng
một truyền của lá từ Artemisia ludoviciana Nutt. như một phương thuốc antidiarrheal
[20].
Artemisia nilagirica (Clarke) PAMP, thường được gọi là "cây ngải Ấn Độ",
được tìm thấy rộng rãi trong các khu vực đồi núi của Ấn Độ, nơi nó được sử dụng
như thuốc trừ sâu [21].
Artemisia Princeps Willd. ( "Ngải cứu Nhật Bản" hay "yomogi") là Artemisia
nổi tiếng nhất ở Nhật Bản, mà nó là một thành phần cơ bản của bánh kẹo Nhật Bản
"Kusa-mochi". Nhà máy này cũng đã được được sử dụng trong y học cổ truyền châu
Á để điều trị viêm, tiêu chảy và nhiều tuần hoàn rối loạn [19].
Artemisia rubripes Nakai đã được sử dụng như một loại thuốc truyền thống
Hàn Quốc cho đau dạ dày, nôn mửa, tiêu chảy và như một chất cầm máu [16].
Artemisia scoparia Waldst. & Bộ dụng cụ. ( "Redstem ngải") là một loại thảo
mộc thoang thoảng mùi thơm hàng năm là phổ biến rộng rãi và phổ biến trên toàn thế
giới, đặc biệt là ở Tây Nam Á và Trung Âu. Các thành công của A. scoparia có thể là
do sự hiện diện của phytotoxins, các loại tinh dầu dễ bay hơi, trong
Ngoài các sản phẩm thứ cấp không dễ bay hơi khác. Nó đã được thành lập rằng
các bộ phận trên không của A. scoparia tạo ra một biến động tinh dầu có giá trị chữa
bệnh. Nó sở hữu diệt côn trùng, diệt khuẩn, anticholesterolemic, hạ sốt, thuốc sát

trùng tiểu, lợi tiểu, thanh luyện và hoạt động vasodilatatory,và cũng được sử dụng để
điều trị bệnh viêm túi mật, viêm gan và vàng da [4].
Artemisia spicigera C. Koch, dân địa phương gọi ở Thổ Nhĩ Kỳ là "yavsani",
đang lan rộng ở miền Trung và đông Anatolia, và theo truyền thống được sử dụng
cho các bệnh ngoài da và lở loét đại [22]. "Big bụi cây ngải đắng" (Artemisia
tridentata Nutt.) Là một trong những phân bố rộng rãi nhất và sinh thái loài cây bụi
quan trọng ở miền tây Bắc Mỹ. Loài này phục vụ như là một môi trường sống quan
trọng và thực phẩm nguồn lực cho nhiều loài động vật và động vật không xương [13].
Artemisia vulgaris L., thường được gọi là "ngải cứu", là một loại cỏ dại lâu
năm đang phát triển có nguồn gốc hoang dã ở Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ. Nhà
máy được sử dụng rộng rãi ở Philippines, nơi nó được biết đến tại địa phương như
"herbaka", cho những hành động hạ huyết áp của mình. Nó cũng đã được đề nghị để
có dược liệu khác các hoạt động như chống viêm, chống co thắt, thuốc tống và tài sản
anthelmintic, và có được sử dụng trong điều trị kinh nguyệt đau đớn (đau bụng kinh)
và trong khởi phát chuyển dạ hoặc sẩy thai [23].
Bảng 1 : thành phần tinh dầu lớn (> 10%) của các loài Artemisia. một
phần thực vật: AP: phần trên không; F: hoa; FH: hoa của người đứng đầu; L:
lá; R: rễ.




2. Copaiba Synonyms Balsam copaiba; Balsam capivi; Jesuit’s Balgar. Biological
Source Copaiba is the oleoresin obtained from the South American species of Copaifera
(Copaiba) belonging to family: Leguminosae. Preparation The oleoresin is collected by
incisions made on the trunk of various species of Copaifera Linn., (a method similar to
colophony described under Section 5.2.7). Characteristic Features It is a transparent, viscid
to pale-yellow to brownish-yellow liquid. It has a peculiar odour and bears a nauseating,
bitter and acrid taste. Its acid number in 28-95 and d 0.930-0.995. It is practically insoluble
in water, but soluble in benzene, chloroform, ether, oils, CS2, absolute ethanol, petroleum

ether and partly soluble in 95% ethanol. It is incompatible with mineral acids, magnesia and
water. Capaiba is found to contain a volatile oil, resin acids (e.g., capaivic acid and illurinic
acid), besides a small quantity of a bilter principle and a fluorescent substance. The major
constituents of the volatile oil are cryophyllene, isocaryophyllene and that of the resin acid
is β-metacapaivic acid as given below:

H C3 H C3 H CH3 CH2 H H C3 H C3 H Uses 1. It is used in varnishes. 2. It is also
employed for removing old oil varnish from oil paintings. 3. It is used in the manufacture of
photographic paper.



×