Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thực hiện chính sách về đào tạo nghề cho lao động thành thị từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.6 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÙI CÔNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO LAO ĐỘNG THÀNH THỊ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số

: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐỖ PHÚ HẢI

HÀ NỘI, năm 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG THÀNH THỊ .................... 10
1.1. Khái niệm chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị .................... 10
1.2. Thiết kế xây dựng chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị........ 16
1.3. Cách tiếp cận và phương pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động thành thị ..................................................................................... 21


1.4. Trách nhiệm thực hiện của các chủ thể .................................................... 28
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách .............................. 29
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO
NGHỀ CHO LAO ĐỘNG THÀNH THỊ TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI ..... 36
2.1. Kết quả thực hiện mục tiêu chính sách đào tạo nghề cho lao động thành
thị tại tỉnh Quảng Ngãi .................................................................................... 36
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi ............................................................................... 41
2.3. Đánh giá chung về việc tổ chức thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
lao động thành thị ở tỉnh Quảng Ngãi ............................................................. 64
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG THÀNH THỊ ................................ 71
3.1. Mục tiêu thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị ....... 71
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
thành thị ........................................................................................................... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CSDN

: Cơ sở dạy nghề

DN


: Doanh nghiệp

ĐTN

: Đào tạo nghề

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KHKT

: Khoa học kỹ thuật

KT-XH

: Kinh tế - Xã hội

LĐTT

: Lao động thành thị

PTDN

: Phát triển dạy nghề

TBDN

: Thiết bị dạy nghề


UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
2.1.

2.2.

Tên biểu đồ
Cơ cấu trình độ đào tạo nghề cho LĐTT tại các trường cơ
sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Cơ cấu nhóm ngành nghề đào tạo tại các cơ sở dạy nghề
trên địa bàn Tỉnh giai đoạn 2011 - 2015

Trang

37

39


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo nghề cho lao động là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các
cấp, các ngành và toàn xã hội. Tăng cường thực hiện chính sách để phát triển

và đào tạo nghề cho lao động thành thị, cơ hội học nghề cho người lao động,
khuyến khích và huy động để toàn xã hội tham gia vào đào tạo nghề cho lao
động nhằm nâng cao chất lượng lao động, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa thành thị.
Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ
nhanh trên một số vùng, miền của đất nước khiến số lượng lao động bình
quân trên một diện tích tại thành thị tăng lên. Mặt khác, quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển như hiện nay sẽ xảy ra tình trạng mất việc
làm ở một số lĩnh vực, khu vực trong đó có khu vực thành thị; một bộ phận
người dân mất đất sản xuất dẫn đến mất việc làm, trong khi đó việc đào tạo
nghề còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động;
mạng lưới cơ sở dạy nghề nói chung tuy đã phát triển nhưng chưa đáp ứng
nhu cầu học nghề của đông đảo lao động; đội ngũ giáo viên dạy nghề thiếu
về số lượng, chưa đạt chuẩn về trình độ, chuyên môn, thiếu kinh nghiệm
quản lý dạy nghề; chất lượng dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu của thị
trường lao động.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định rõ: “… Hoàn
thiện pháp luật về dạy nghề, ban hành chính sách, ưu đãi về đất đai, thuế, đào
tạo giáo viên, hỗ trợ cơ sở hạ tầng… nhằm khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia đào tạo nghề. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng dạy và
học, gắn dạy nghề với nhu cầu thực tế...”
Cùng với quá trình phát triển chung của cả nước, kinh tế Quảng Ngãi

1


đang trên đà phát triển, chính sách đào tạo nghề cho người lao động đã được
tỉnh chú trọng.
Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề, đặt ra cho các cấp ủy đảng và chính
quyền địa phương cần tập trung giải quyết nhằm ổn định và tăng trưởng, phát
triển kinh tế - xã hội ở Quảng Ngãi.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh triển khai nhiều chương trình, dự án trọng
điểm của quốc gia, của tỉnh, tiêu biểu trong đó là Khu Kinh tế Dung Quất và
các Khu Công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi. Nhu cầu đào tạo nghề để đưa lao
động vào làm việc tại các nhà máy sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
ngày càng tăng nhưng công tác đào tạo nghề chưa đáp ứng yêu cầu. Một số
nơi dạy nghề còn coi trọng số lượng, chưa quan tâm đến chất lượng; đào tạo
chưa phù hợp với nhu cầu của người học và người sử dụng lao động cả về
chất lượng, cơ cấu ngành, nghề và nhu cầu của xã hội. Mạng lưới cơ sở dạy
nghề còn nhiều bất cập, cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu,
đội ngũ cán bộ, giáo viên dạy nghề thiếu về số lượng và yếu về nghiệp vụ;
công tác kiểm tra, giám sát còn hạn chế; nhiều địa phương chưa quan tâm đầu
tư đúng mức đến chính sách đào tạo nghề cho lao động khu vực này; thiếu
chính sách cụ thể để huy động các nguồn lực xã hội phục vụ công tác dạy
nghề cho lao động thành thị; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong tổ
chức thực hiện chưa chặt chẽ ...
Từ đó, những câu hỏi được đặt ra là: Tầm quan trọng của việc thực hiện
chính sách về đào tạo nghề đối với lao động thành thị Quảng Ngãi? Chính
sách đào tạo nghề cho lao động thành thị Quảng Ngãi trong thời gian qua như
thế nào? Những định hướng, giải pháp nào để tiếp tục thực hiện và hoàn thiện
chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị Quảng Ngãi?
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính
sách về đào tạo nghề cho lao động thành thị từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”,
2


nhằm đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, vướng mắc trong việc
thực thi chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị. Từ đó, đề xuất những
định hướng, giải pháp tiếp tục thực hiện và hoàn thiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi là hết sức cần thiết để đáp
ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, thúc

đẩy quá trình phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc
gia về Việc làm và Dạy nghề giai đoạn 2012 – 2020 (Quyết định số 1201/QĐTTg ngày 31/8/2012) được ban hành, việc thực hiện công tác đào tạo nghề
đang nhận được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương. Ở Việt
Nam, về thực trạng đào tạo nghề cho lao động hiện nay có các công trình
nghiên cứu, các bài viết như:
Nghiên cứu về“Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp
ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác
giả Phan Chính Thức đã đi sâu nghiên cứu đề xuất những khái niệm, cơ sở lý
luận mới của đào tạo nghề, về lịch sử đào tạo nghề và giải pháp phát triển đào
tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta.
Các tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến đã có nghiên cứu về
“Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn” . Trong
nghiên cứu này, các tác giả này đã đề cập đến nhu cầu đào tạo lao động kỹ
thuật của Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước. Những nội dung về chương trình đổi mới giảng dạy, tăng cường đầu
tư thiết bị, công nghệ phù hợp với thiết bị, công nghệ của sản xuất, nâng cao
chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên; đổi mới phương pháp kiểm tra,
3


đánh giá; kiểm định chất lượng các trường nghề đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ
thuật của nền kinh tế cả về số lượng, chất lượng và để đảm bảo hiệu quả đầu
tư cho giáo dục và dạy nghề.
Tác giả Nguyễn Viết Sự đã có một nghiên cứu khá công phu “Giáo dục
nghề nghiệp – những vấn đề và giải pháp”. Trong nghiên cứu này, tác giả đã
nhận diện những vấn đề tồn tại phổ biến trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp

của Việt Nam, từ chương trình, phương pháp, nội dung, đội ngũ giáo viên,
chất lượng giảng dạy, khả năng thích ứng với môi trường làm việc, tác phong
nghề nghiệp, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hệ
thống giáo dục nghề nghiệp.
Nghiên cứu về “Các giải pháp về đào tạo nghề và tạo việc làm cho
thanh niên tại thành phố Đà Nẵng” của Phan Thị Thúy Linh đã nêu lên các
vấn đề quan trọng trong công tác đào tạo nghề và tạo việc làm cho lao động
với đối tượng chính là thanh niên, từ đó đưa ra những giải pháp giúp thanh
niên được đào tạo nghề và có được việc làm ổn định nhằm sử dụng hiệu quả
nguồn nhân lực của đất nước, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Bài viết “Những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo nghề hiện nay”
của tác giả Doãn Huy đã nêu ra một số bất cập của việc triên khai công tác
đào tạo nghề còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với đặc điểm của từng
vùng, ngành kinh tế; thiếu định hướng dài hạn, chưa gắn với quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội, một số nơi dạy nghề còn chạy theo số lượng,
chất lượng thấp, chưa phù hợp với nhu cầu người học và người sử dụng lao
động.
Đề tài "Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông
thôn tại tỉnh Hưng Yên" của Trần Thị Hương nghiên cứu về thực trạng, nhu
cầu đào tạo cũng như giải pháp để thúc đẩy việc thực hiện chính sách đào
tạo nghề cho lao động của một tỉnh có nhiều khu công nghiệp thu hút lao
4


động tham gia, có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của địa
phương nhằm mục đích đạt được kết quả cao nhất, mang lại hiệu quả thiết
thực với người dân.
“Nâng cao chất lượng lao động trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa”, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của
Phạm Văn Tuyền. Trong luận văn tác giả đã làm rõ thêm một số vấn đề về lý

luận và thực tiễn chất lượng lực lượng lao động trong điều kiện kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; làm rõ
thực trạng chất lượng lực lượng lao động hiện nay ở tỉnh Thanh Hóa. Tìm ra
những bất cập giữa chất lượng lực lượng lao động và yêu cầu phát triển kinh
tế -xã hội của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH; đề xuất quan điểm,
giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng lực lượng lao động tỉnh Thanh Hóa.
Trong các nghiên cứu, tác phẩm, bài viết, sách, báo nêu trên đã đề cập
đến nhiều thực trạng chính sách đào tạo nghề ở Việt Nam ta hiện nay và có
nhiều giải pháp nhằm giúp cho chính sách đào tạo nghề cho lao động nói
chung và lao động thành thị ở các địa phương trong cả nước ngày một hoàn
thiện hơn.
Để hoạt động đào tạo nghề ngày càng đi vào đời sống thực tiễn, mang lại
hiệu quả thiết thực cho người dân thì: “Phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ của cả
hệ thống chính trị ở địa phương; công tác đào tạo nghề cho lao động thành thị
phải sát với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa
phương, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và có hiệu quả thiết thực; Cần
phải giải quyết vấn đề đầu ra sản xuất; Chú trọng phát triển các ngành nghề
phù hợp với điều kiện địa phương và kinh tế vùng; Phải đào tạo về tác
phong làm việc cho người lao động (tác phong công nghiệp…)”.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về việc thực hiện chính sách đào
tạo nghề cho lao động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, bản thân mạnh
5


dạn lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động thành
thị từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” để nghiên cứu luận văn, từ đó đưa ra những
định hướng, giải pháp tiếp tục thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi để phù hợp với tình hình thực tế của địa phương
trên cơ sở những đường lối, quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Quảng Ngãi đề ra trong những năm tới.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả luận văn lấy nghiên cứu này làm đề tài tốt nghiệp thạc sỹ chính
sách công.
Vận dụng lý luận thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động ở Việt
Nam hiện nay để soi rọi và đánh giá thực trạng công tác đào tào nghề cho lao
động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi.
Từ những kết quả đạt được, tìm ra nguyên nhân những tồn tại, hạn chế
của chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp để tiếp tục tăng cường thực hiện chính sách đào
tạo nghề cho lao động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi và nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu là trả lời 3 câu hỏi nghiên cứu sau đây:
- Câu hỏi thứ nhất, những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động thành thị ở nước ta là gì?
- Câu hỏi thứ hai, thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi như thế nào? với những tồn tại, nguyên
nhân của thực trạng đó là gì?
- Câu hỏi thứ ba, giải pháp để tăng cường thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi và nước ta là gì trong thời
gian tiếp theo?
6


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

- Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2010- 2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận nghiên cứu chính sách qua tiếp cận đa
ngành, liên ngành khoa học xã hội và phương pháp nghiên cứu chính sách
công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách
từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự
tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng
qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách
chuyên ngành đào tạo nghề cho lao động thành thị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa
nghiên cứu lý thuyết và thực tế; phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp,
so sánh.
- Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích và tổng hợp, thống kê và so
sách được sử dụng để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn
có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, nghị
quyết, quyết định, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành ở Trung ương và
địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của
chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp tới vấn đề thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị
7


qua thực tế tại tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Đồng thời, thu thập thông tin từ
các tài liệu của các tổ chức và học giả trong nước liên quan đến đề tài trong
thời gian qua.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là phương pháp được
dùng khá phổ biến trong nghiên cứu xã hội học, đó là phương pháp đối
thoại trực tiếp với đối tượng nhằm thu thập thông tin. Ngoài các thông tin

thu thập được qua các số liệu thứ cấp và kết quả xử lý thông tin bằng
phương pháp điều tra bảng hỏi, tác giả đã thực hiện thêm phương pháp
phỏng vấn đối với một số đối tượng để làm rõ thêm thông tin mà các
phương pháp thu thập thông tin nêu trên chưa đáp ứng được.
Tóm lại, kết hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương
pháp phân tích, so sánh, thống kê, phương pháp chuyên gia và tổng hợp, dựa
trên những tài liệu thực tiễn của các ngành, các tổ chức, cá nhân có liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp đến chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị ở
nước ta nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Đồng thời, thu thập tài liệu
của các tổ chức, các học giả có liên quan đến luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi và nguyên nhân.
- Đề xuất những định hướng, giải pháp để tăng cường thực hiện chính
sách đào tạo nghề cho lao động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
chức năng, sở, ban, ngành có liên quan đến việc hoạch định, xây dựng và thực
8


hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị tại tỉnh Quảng Ngãi cũng
như các địa phương khác có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
kết cấu luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào tạo

nghề cho lao động thành thị từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
thành thị từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
lao động thành thị

9


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG THÀNH THỊ
1.1. Khái niệm chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người để tạo ra của cải
vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng
và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước.
Theo Liên hợp quốc thì: Lao động là tổng thể sức dự trữ, những tiềm
năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người vào
cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Lực lượng lao động là bộ phận
dân số trong độ tuổi và có khả năng lao động được pháp luật quy định, thực tế
đang làm việc và những người thất nghiệp.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm lao động, nhưng suy cho
cùng lao động là hoạt động đặc thù của con người, phân biệt con người với
con vật; xã hội loài người và xã hội loài vật. Vì vậy, khác với con vật, lao
động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động vào thế giới
tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho nhu
cầu đời sống của con người. Theo C.Mác “Lao động trước hết là một quá
trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt
động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao

đổi chất giữa họ và tự nhiên”.
Ph.Ăng ghen viết: “Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của
cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những
vật liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái
gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của
10


toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào
đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân loài người” .
Như vậy, có thể nói lao động là hoạt động có mục đích, có ý nghĩa của
con người, trong quá trình lao động con người vận dụng sức lực tiềm tàng
trong thân thể của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào đối tượng
lao động nhằm biến đổi nó phù hợp với nhu cầu của mình. Nói cách khác,
trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, lao động bao giờ cũng là điều kiện để
tồn tại và phát triển của xã hội.
- LĐTT bao gồm toàn bộ những người lao động đang làm việc trong nền
kinh tế quốc dân và những người có khả năng lao động nhưng chưa tham gia
hoạt động trong nền kinh tế quốc dân thuộc khu vực thành thị. LĐTT là
những người dân không phân biệt giới tính, tổ chức, cá nhân sinh sống ở vùng
thành thị, có độ tuổi từ 15 trở lên, đang làm việc trong các ngành, lĩnh vực
như: nông, lâm, ngư nghiệp công nghiệp, xây dựng, dịch vụ hoặc các ngành
phi nông nghiệp khác; và những người trong độ tuổi có khả năng lao động
nhưng hiện tại chưa tham gia hoạt động kinh tế. Trong đó bao gồm những
người đủ các yếu tố về thể chất, tâm sinh lý trong độ tuổi lao động theo quy
định của Luật lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có khả năng
tham gia sản xuất, trong một thời gian nhất định họ hoàn thành công việc với
kết quả thành thị là những người thuộc lực lượng lao động và hoạt động trong
hệ thống kinh tế quốc dân.
- Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc.

Nghề nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu
vong. Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công
nghệ điện tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành
cả một nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần
cứng, phần mềm và các thiết bị bổ trợ v.v. Công nghệ các hợp chất cao phân
11


tử tách ra từ công nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành dịch vụ, du
lịch tiếp nối ra đời. Nghề là hiện tượng xã hội có tính lịch sử rất phổ biến, gắn
chặt sự phân công lao động xã hội với tiến bộ khoa học kỹ thuật (KHKT) và
văn minh nhân loại, nó được nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nghề xuất hiện trong xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu làm ăn, sinh sống
của con người và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội (KT- XH) theo
nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, nhiều khu vực lãnh thổ và cộng đồng.
Theo quan niệm ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau nhất định, cho đến
nay thuật ngữ “Nghề” được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Sau đây là một số khái niệm chung về nghề của một số nước.
Khái niệm nghề ở Nga được định nghĩa như sau: Nghề là một loại hoạt
động đòi hỏi có sự đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh tồn.
Còn ở Đức, khái niệm nghề được định nghĩa: Nghề là hoạt động cần thiết
cho xã hội ở một lĩnh vực lao động nhất định, đòi hỏi phải được đào tạo ở trình
độ nào đó.
Ở Anh, nghề được định nghĩa: Nghề là một công việc chuyên môn đòi
hỏi một sự đào tạo trong khoa học, nghệ thuật.
Khái niệm nghề được định nghĩa ở Pháp: Nghề là một loại lao động có
thói quen về kỹ năng, kỹ xảo của con người đê từ đó tìm được phương tiện
sống.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt và Từ điển Tiếng Việt đã cùng đưa ra định

nghĩa về nghề như sau: “Nghề là công việc chuyên làm theo sự phân công lao
động của xã hội” [19].
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm nghề, nhưng chung nhất
“Nghề là một dạng xác định của hoạt động trong hệ thống phân công lao động
của xã hội, là tổng hợp kiến thức (hiểu biết) và kĩ năng trong lao động mà con
12


người tiếp thu được do kết quả đào tạo chuyên môn và tích lũy kinh nghiệm
trong lao động mà một người lao động cần có để thực hiện một loạt hoạt động
cụ thể trong một lĩnh vực lao động nhất định” [19].
Mặc dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau song
chúng ta có thể khái quát một số nét đặc trưng nhất của nghề như sau:
+ Nghề gắn liền với những kiến thức và kỹ năng. Những kiến thức và kỹ
năng này không phải tự nhiên có được mà là do kết quả của đào tạo chuyên
môn và tích lũy kinh nghiệm;
+ Nghề là một công việc chuyên làm;
+ Là phương tiện sinh sống gắn với cả cuộc đời hoặc phần lớn cuộc đời
người lao động;
+ Bao gồm cả lao động trí óc và lao động chân tay;
+ Phù hợp với yêu cầu của xã hội.
- Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) định nghĩa: ĐTN là nhằm cung cấp
cho người học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên
quan tới công việc, nghề nghiệp được giao.
Đào tạo nghề là những hoạt động giúp cho người học có được các kiến
thức về lý thuyết và kỹ năng thực hành một số nghề nào đó sau một thời gian
nhất định người học có thể đạt được một trình độ để tự hành nghề, tìm việc
làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao tay nghề theo những chuấn mực mới.
Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2015 định nghĩa: “Đào tạo nghề là hoạt
động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần

thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau
khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp” [19] .
Có thể hiểu đào tạo nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến
thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có
thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học.
13


Đó là quá trình truyền đạt kiến thức về lý thuyết và kỹ năng thực hành cho
người học nghề để người học có được trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ
nghề nghiệp theo những tiêu chuẩn nhất định của một nghề hoặc nhiều
nghề, đáp ứng yêu cầu làm việc của thị trường lao động.
Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau: Dạy
nghề là quá trình giáo viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và thực
hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo,
thành thục nhất định về nghề nghiệp. Học nghề là quá trình tiếp thu những
kiến thức về lý thuyết và thực hành của người lao động để đạt được một trình
độ nghề nghiệp nhất định.
Nguyên lý và phương châm của dạy nghề: Học đi đôi với hành; lấy thực
hành, thực tập kỹ năng nghề làm chính; coi trọng giáo dục đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp cho
người học, đảm bảo tính giáo dục toàn diện.
+ Đào tạo trình độ sơ cấp: Để người học có năng lực thực hiện được các
công việc đơn giản của một nghề. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình
độ sơ cấp: trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trường trung cấp, trường cao đẳng
có đăng ký hoạt động đào tạo trình độ sơ cấp và dạy nghề thường xuyên.
Người học nghề học hết chương trình sơ cấp thì được dự kiểm tra, nếu đạt
yêu cầu thì được người đứng đầu cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp chứng chỉ
sơ cấp nghề theo quy định .
+ Đào tạo trình độ trung cấp: để người học có năng lực thực hiện được

các công việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số công việc có tính
phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ thuật, công
nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm.
+ Đào tạo trình độ cao đẳng: để người học có thể thực hiện được các công
việc của trình độ trung cấp và giải quyết được các công việc có tính phức tạp của
14


chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ
hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người khác trong nhóm thực
hiện công việc.
Nói chung, đào tạo nghề là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận một
công việc nhất định. Hay nói cách khác đó là quá trình truyền đạt, lĩnh hội
những kiến thức và kỹ năng cần thiết để người lao động có thể thực hiện một
công việc nào đó trong tương lai. Đào tạo nghề phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội, trước hết là phương hướng phân công lao động mới, tạo cơ hội cho
mọi người đều được học tập nghề nghiệp để dễ dàng tìm kiếm việc làm hoặc
học lên trình độ cao hơn.
- Đào tạo nghề cho LĐTT là quá trình kết hợp giữa dạy nghề và học
nghề, đó là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và
thực hành để những người LĐNT có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự
khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế, xã hội.
Đào tạo nghề cho LĐTT là hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm
truyền đạt những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của một nghề nào đó cho người
lao động ở khu vực thành thị, từ đó tạo ra năng lực cho người lao động có thể
thực hiện thành công nghề đã được đào tạo.
- Chính sách đào tạo nghề cho LĐTT: Là chính sách mang lại hiệu quả
thiết thực, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống
cho người dân. Là cơ sở quan trọng để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã

hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Hệ thống cơ sở đào tạo nghề: Là tập hợp các cơ sở đào tạo nghề trên
phạm vi cả nước, bao gồm các trường cao đẳng, trung cấp, trung tâm và các
cơ sở khác có tham gia dạy nghề, được Nhà nước thống nhất quản lý từ Trung
15


ương đến địa phương. Đào tạo nghề là hệ thống chính trong việc cung cấp
nguồn nhân lực có kỹ thuật cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị nhằm
vạch ra những đường hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể quản lý với
các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy và quản lý sự phát
triển nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định cho trước. Khái niệm chính sách
công được diễn đạt khái quát như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết
định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể
với giải pháp và công cụ để thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo
mục tiêu xác định của Đảng chính trị cầm quyền” [13].
Từ khái niệm về “chính sách công” và “đào tạo lao động thành thị” nêu
trên, có thể định nghĩa sau: "Chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị
là tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và
công cụ chính sách để giải quyết vấn đề đào tạo lao động thành thị theo mục
tiêu ổn định phát triển bền vững kinh tế - xã hội đô thị”.
1.2. Thiết kế xây dựng chính sách đào tạo nghề cho lao động thành thị
Xác định vấn đề chính sách:
“Hỗ trợ các đối tượng được hưởng chính sách người có công, quân nhân
xuất ngũ, người dân tộc thiểu số, người thuộc diện hộ nghèo, người tàn tật, trẻ
em mồ côi không nơi nương tựa, người trực tiếp lao động trong các hộ sản
xuất nông nghiệp bị thu hồi đất canh tác và các đối tượng chính sách xã hội
khác nhằm tạo cơ hội cho họ được học nghề để tìm việc làm, tự tạo việc làm,
lập thân, lập nghiệp” [3]. Những quan điểm, định hướng trên của Đảng, Nhà

nước đã tạo tiền đề quan trọng để cụ thể hóa hơn nữa các chính sách về đào
tạo nghề cho người lao động.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
xác định chính sách đào tạo nghề cho người lao động là một nhiệm vụ quan
16


trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó vấn đề đào tạo nghề
cho lao động thời kỳ CNH - HĐH là một nhiệm vụ bức thiết.
Đào tạo nghề giúp người lao động có thể nâng cao được kiến thức và kỹ
năng nghề, qua đó nâng cao chất lượng và góp phần phát triển kinh tế. Để có
nguồn nhân lực lao động chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị
trường lao động, đòi hỏi phải có cơ chế chính sách sử dụng hiệu quả nguồn
nhân lực, phải tăng cường chính sách đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, ngành nghề đào tạo phù hợp với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và xây dựng thành thị mới của
các địa phương; ngày 05/11/2012 Ban chấp hành TW Đảng đã ban hành Chỉ
thị số 19-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dạy
nghề lao động nông thôn; đồng thời với Đề án 1956 thì ngày 04/6/2010,
Chính phủ có Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020” [3]. Theo đó,
ngày 29/5/2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 630/QĐ-TTg
về việc phê duyệt Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020. Đây là
chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc
phòng ở thành thị.
Do đó, đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho thành thị
trong thời gian đến là hết sức cần thiết đối với xã hội:
- Chất lượng lao động trong khu vực thành thị còn thấp, thu nhập của
người dân không đủ để bù lại sức lao động đã bỏ ra chưa nói đến tích lũy để
tái sản xuất; gây ra chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền. Việc đào tạo

nghề cho lao động thành thị nhằm nâng cao năng suất và chất lượng lao động,
góp phần đóng góp tích cực cho công tác giảm nghèo bền vững.
- Tình trạng thiếu việc làm ở một bộ phận lao động thành thị hiện đang rất
17


phổ biến, đặc biệt là thời gian nhàn rỗi, nhiều thanh niên đến tuổi lao động
không có việc làm hoặc có việc làm không ổn định; Những vùng đất bị thu hồi,
chuyển đổi mục đích sử dụng, người lao động được hưởng tiền đền bù, khi đất
không còn, cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn, sinh ra nhiều tệ nạn xã hội như
cờ bạc, nghiện hút. Các hệ lụy này là ngoài mục tiêu phát triển của xã hội.
- Mục tiêu của đào tạo nghề cho lao động thành thị là tạo thêm nhiều
việc làm cho người lao động, thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu lao động, giảm
lao động sản xuất giản đơn, tăng năng suất lao động, đào tạo nghề có chất
lượng cao làm việc trong các Khu công nghiệp, Cụm công nghiệp ở ngay tại
địa phương.
Mục tiêu của chính sách:
Trong giai đoạn hiện nay đào tạo nghề nói chung và chính sách đào tạo
nghề cho lao động thành thị nói riêng luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của
Đảng và Nhà nước. Phát triển và đổi mới toàn diện giáo dục nghề nghiệp là
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, được thể hiện trong các Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng; trong Kết luận của Bộ Chính
trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 2 (khóa VIII) phương hướng
phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020; trong Nghị quyết lần thứ 6 Ban
Chấp hành TW Đảng khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mục tiêu tổng quát: Đến năm 2020, lao động qua đào tạo nghề đạt trên
63% giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu về nhân lực kỹ thuật trực tiếp
trong sản xuất, kinh doanh với trình độ cao, lành nghề, đủ về số lượng, đảm
bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu về phẩm chất, nhân cách, năng lực nghề

nghiệp và thể chất phụ vụ cho các ngành kinh tế, vùng kinh tế, đặc biệt là các
ngành kinh tế mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm và xuất khẩu lao động, tạo
nhiều việc làm có thu nhập cao, cải thiện đời sống cho người lao động [21].
18


Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020, trong lực lượng lao động có 27,5 triệu
người được đào tạo nghề, trong đó có trên 17 triệu lao động thành thị; nâng tỷ
lệ qua đào tạo nghề đạt 55 %, trong đó 28 % - 30 % có trình độ từ trung cấp
trở lên; khoảng 90 % số người học nghề có việc làm và 70 % có việc làm
đúng với nghề được đào tạo [21].
Giải pháp và công cụ chính sách:
Đối với người học nghề:
Đối tượng học nghề được thụ hưởng chính sách dạy nghề cho lao động
thành thị bao gồm nhiều đối tượng:
+ Lao động khu vực thành thị;
+ Lao động làm nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp) và những hộ mất
đất canh tác hiện chưa có việc làm.
Người lao động học nghề trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng,
(chia thành 3 nhóm đối tượng, mức hỗ trợ tùy theo nhóm đối tượng, tối đa từ
02 đến 03 triệu đồng/người/khóa học);
Mỗi đối tượng lao động thành thị học nghề đều có những chính sách
tương ứng cụ thể. Phần lớn lao lao động thành thị sống ở những địa bàn dân
cư nghèo, có điều kiện sinh sống khó khăn, học vấn thấp. Nghèo đói vẫn là
rào cản làm cho người lao động không có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ xã
hội, trong đó có đào tạo nghề. Học vấn thấp, không được học nghề, cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc sống khó khăn, lạc hậu.
Đào tạo nghề cho lao động thành thị cần phải có những cách thức tổ
chức phù hợp với từng nhóm đối tượng, các chính sách đào tạo nghề cho lao
động thành thị hướng tới mọi người dân có nhu cầu học nghề đều được Nhà

nước hỗ trợ học nghề. Những người lao động thành thị khi có nhu cầu học
nghề vẫn được tiếp cận với các dịch vụ đào tạo nghề.
Người lao động thành thị không thuộc diện nghèo vẫn được học các
19


nghề mà mình cần với cơ chế hỗ trợ gián tiếp (như tín dụng học nghề, hỗ trợ
tìm việc làm, hỗ trợ sản xuất sau đào tạo).
Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có nhu cầu đào tạo, học nghề
được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề và được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn
hạn và được Nhà nước hỗ trợ chi phí học nghề theo quy định tại Quyết định
số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020.
Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có nhu cầu tìm việc làm được
hỗ trợ tư vấn học nghề, tư vấn giới thiệu việc làm miễn phí tại các Trung tâm
Dịch vụ việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương; ưu tiên vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc
làm theo quy định của pháp luật.
Đây là những cơ hội rất tốt để cho lao động thành thị được tiếp cận với
các chính sách của Nhà nước để tham gia học nghề, tăng cơ hội tìm kiếm việc
làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống, góp phần tích cực vào công tác giảm
nghèo, chuyển dịch cơ cấu lao động đối với những vùng bị thu hồi đất cho
phát triển công nghiệp, dịch vụ.
Đối với giáo viên/ người dạy nghề:
Giáo viên/người dạy nghề tham gia dạy nghề, quản lý dạy nghề cho lao
động thành thị được hưởng các chính sách như:
+ Giáo viên/ người dạy nghề, cán bộ quản lý phải thường xuyên xuống
những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp
lưu động 0,2 so với mức lương tối thiểu chung.
+ Người dạy nghề được trả tiền công giảng dạy với mức tối thiểu

25.000đồng/giờ; người dạy nghề là tiến sĩ, nghệ nhân cấp tỉnh trở lên được trả
tiền công tối thiểu 300.000đồng/buổi.
Đối với cơ sở đào tạo nghề cho lao động thành thị:
20


Hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, chương trình giáo trình,
học liệu và bồi dưỡng giáo viên dạy nghề.
Áp dụng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho cơ sở thực hiện
xã hội hóa để khuyến khích đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất
lượng dịch vụ.
Giao đất, cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng đối với những
cơ sở dạy nghề thực hiện xã hội hóa phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất.
Bên cạnh đó, còn có các giải pháp:
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành từ TW đến địa phương; của
cán bộ, công chức cấp xã và người lao động thành thị về vai trò đào tạo nghể
với việc làm, nhằm tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
thành thị; Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nghề; phát triển đội ngũ giáo
viên, giảng viên và cán bộ quản lý; giải pháp phát triển chương trình, giáo
trình học viên; tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát.
1.3. Cách tiếp cận và phƣơng pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động thành thị
1.3.1. Cách tiếp cận thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
thành thị
Đào tạo nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng
và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc
làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học. Đó là quá trình truyền
đạt kiến thức về lý thuyết và kỹ năng thực hành cho người học nghề để người
học có được trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ nghề nghiệp theo những tiêu

chuẩn nhất định của một nghề hoặc nhiều nghề, đáp ứng yêu cầu làm việc của
thị trường lao động.
Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau: Dạy
21


×