VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN MẬU VINH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐỖ PHÚ HẢI
HÀ NỘI, năm 2016
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban
Giám đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô của Học viện Khoa học Xã hội,
những người đã tận tình và tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học
tập. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy PGS.TS. Đỗ Phú Hải,
người đã trực tiếp hướng dẫn Luận văn cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự
quan tâm sâu sắc.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo các cơ quan, ban,
ngành ở huyện; bạn bè, đồng nghiệp, cùng đông đảo bà con nhân dân một số
địa phương trên địa bàn huyện luôn quan tâm, tạo điều kiện, chia sẻ, động
viên tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng luận văn không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý
thầy, cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
Thạc sĩ Chính sách công “Thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền
vững từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực
và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Mậu Vinh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG.................................. 7
1.1. Khái niệm chính sách phát triển nông nghiệp bền vững ............................ 7
1.2. Nội dung chính sách phát triển nông nghiệp bền vững ............................. 8
1.3. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững ............. 14
1.4. Trách nhiệm thực hiện của các chủ thể chính sách phát triển nông nghiệp
bền vững .......................................................................................................... 22
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển nông
nghiệp bền vững .............................................................................................. 25
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ
SƠN, QUẢNG NAM ..................................................................................... 29
2.1. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ................................................ 29
2.2. Kết quả thực hiện mục tiêu chính sách phát triển nông nghiệp bền vững52
2.3. Đánh giá chung về việc tổ chức, thực hiện chính sách phát triển nông
nghiệp bền vững tại huyện Quế Sơn ............................................................... 60
CHƯƠNG 3. MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở
NƯỚC TA ............................................................................................ 66
3.1. Mục tiêu thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững ............ 66
3.2. Biến đổi khí hậu và bối cảnh phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Nam. 67
3.3. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền
vững ................................................................................................................. 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH
: Ban chấp hành
CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CT-XH
: Chính trị xã hội
HTX
: Hợp tác xã
KT-XH
: Kinh tế - xã hội
KH-CN
: Khoa học – công nghệ
KH-KT
: Khoa học – kỹ thuật
NN&PTNT
: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
PTNNBV
: Phát triển nông nghiệp bền vững
QLNN
: Quản lý nhà nước
TW
: Trung ương
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
So sánh hiệu quả kinh tế giữa ruộng IPM và ruộng làm
34
bảng
2.1.
theo tập quán cũ tại thôn 4, xã Quế Châu
2.2.
So sánh hiệu quả kinh tế giữa ruộng IPM và ruộng làm
35
theo tập quán cũ tại Tổ dân phố Cang Tây, thị trấn Đông
Phú, huyện Quế Sơn
2.3.
So sánh hiệu quả kinh tê giữa ruộng sản xuất cây đậu xanh
và sản xuất lúa
36
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng của nền kinh
tế quốc dân, là ngành trực tiếp sản xuất ra lương thực thực phẩm phục vụ nhu
cầu thiết yếu cho con người, cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các ngành
kinh tế khác, góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội, ổn định
chính trị của các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Trong xã hội hiện đại, vai trò của nông nghiệp không hề bị coi nhẹ mà
còn có nhiều nét mới, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ công nghiệp và dịch vụ
nông thôn phát triển, từng bước cải thiện cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống
mọi mặt của người dân nông thôn. Qua 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trong đó có phần đóng góp không
nhỏ của nông nghiệp. Nông nghiệp vẫn sẽ là một ngành sản xuất vật chất
quan trọng của nền kinh tế Việt Nam trong nhiều thập kỷ đến.
Nghị quyết Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ V, khoá IX xác định nông
nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là những vấn đề có tầm quan trọng chiến
lược của nước ta. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nông nghiệp,
nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta. Ngày 05/8/2008, BCH TW Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số
26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, một lần nữa, Đảng ta xác
định: “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông
thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn
nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với
các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ
nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia
cả trước mắt và lâu dài”.
1
Ngày 17/8/2004, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số
153/2004/QĐ-TTg về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
Trong đó khẳng định phải phát triển nông nghiệp theo yêu cầu bền vững và đề
ra những vấn đề cần ưu tiên trong phát triển nông nghiệp bền vững
(PTNNBV) ở nước ta. Và ngày 10/6/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 899/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, trong đó tiếp tục
xác định “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu tổng
thể nền kinh tế quốc dân, phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển KTXH của cả nước, gắn với phát triển KT-XH và bảo vệ môi trường để đảm bảo
phát triển bền vững; phát triển bền vững vừa là một quá trình, vừa là mục tiêu
của ngành”.
Nằm trong định hướng chung của cả nước và tỉnh Quảng Nam, huyện
Quế Sơn là huyện trung du miền núi của tỉnh Quảng Nam, tỷ lệ lao động, diện
tích canh tác nông nghiệp cũng như đóng góp của ngành vào tăng trưởng kinh
tế rất lớn. Trong giai đoạn 2011– 2015, sản xuất nông nghiệp tăng trưởng khá;
giá trị tăng bình quân hằng năm 3,65%, giá trị sản xuất trên một đơn vị diện
tích tăng từ 42,17 lên 54,15 triệu đồng/ha, năng suất lúa, các loại cây trồng
tăng lên đáng kể (lúa đạt 46,77tạ/ha/2011 lên 53,28tạ/ha/2015), sản lượng
lương thực (cây có hạt) đạt trên 36.000 tấn. Cơ cấu mùa vụ, cây trồng, con vật
nuôi chuyển dịch theo hướng tích cực, xuất hiện một số mô hình nông - lâm
kết hợp đạt hiệu quả. Kinh tế rừng phát triển mạnh, tạo đột phá trong kinh tế
nông nghiệp, giá trị thu nhập từ rừng khá cao, góp phần cải thiện đời sống
nhân dân. Đàn gia súc, gia cầm tăng nhanh, giá trị chăn nuôi chiếm 37,5%
trong cơ cấu ngành nông nghiệp [1]. Tuy nhiên, việc phát triển nông nghiệp
của huyện chưa mang tính bền vững và chưa tương xứng với tiềm năng sẵn
có. Việc thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật (KH-KT), đưa cơ
giới hóa vào sản xuất còn rất nhiều hạn chế, năng suất và thu nhập trong nông
2
nghiệp còn thấp; công tác quy hoạch, bố trí vùng sản xuất chưa được chú
trọng. Hệ thống các Hợp tác xã (HTX) cung ứng dịch vụ nông nghiệp chưa
đáp ứng yêu cầu. Kinh tế nông nghiệp chưa có sự phát triển đột phá tạo tiền
đề cho thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH)
Để khắc phục những vấn đề tồn tại nêu trên, nhằm tạo chuyển biến mạnh
mẽ trong sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở phát
huy, khai thác tiềm năng, lợi thế tự nhiên của vùng, xây dựng kết cấu hạ tầng
KT-XH nông thôn và giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo sự chuyển biến
nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, một trong những vấn
đề đặt ra là cần phải thực hiện tốt và có hiệu quả chính sách PTNNBV, nên tôi
đã chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững từ thực
tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” cho Luận văn thạc sỹ cao học của
mình và mong rằng đề tài này có thể góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách PTNNBV trên địa bàn huyện.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính sách PTNNBV không phải là vấn đề mới mà đã được đề cập
nhiều tại các cuộc hội nghị của BCH Trung ương Đảng. Bên cạnh đó, đến
thời điểm hiện nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến phát
triển bền vững nói chung, PTNNBV nói riêng. Có thể nêu một số công trình
nghiên cứu sau:
Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (2004), Chương
trình nghị sự 21, Hà Nội.
GS.TS Hoàng Thị Chính (2010), Để nông nghiệp phát triển bền vững,
Tạp chí Phát triển kinh tế số tháng 6-2010.
TS Trần Ngọc Ngoạn chủ biên (2008), Phát triển nông thôn bền vững,
những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Lưu Văn Sùng (2004), Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông
nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3
GS.TS Nguyễn Kế Tuấn (chủ nhiệm), CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
TS Nguyễn Từ (chủ biên) (2004), Nông nghiệp Việt Nam trong phát
triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tập bài giảng về phát triển bền vững ở Việt Nam, thuộc dự án VIE/01/05
do nhiều cơ quan như Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, Nxb Kinh tế quốc dân năm
2006.
Nguyễn Xuân Thảo (2004), Góp phần phát triển bền vững Nông thôn
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Những công trình, bài viết trên có giá trị lớn về lý luận và thực tiễn cho
PTNNBV ở nước ta. Các tác giả đã nêu những lý luận cơ bản nhất về
PTNNBV, đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp nước ta thời gian qua
và đưa ra những những giải pháp về QLNN để phát triển nông nghiệp Việt
Nam trong những năm tới. Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nào nghiên
cứu vấn đề thực hiện chính sách PTNNBV tại tỉnh Quảng Nam nói chung, huyện
Quế Sơn nói riêng. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Thực hiện chính sách phát triển
nông nghiệp bền vững từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm luận
văn thạc sĩ của mình, luận văn thực hiện có sự kế thừa, phát triển những thành
quả của các đề tài liên quan trước đó để đánh giá, phân tích, từ đó đề xuất các
giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của huyện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Học viên lấy nghiên cứu này làm luận văn tốt
nghiệp ngành khoa học chính sách công. Vận dụng lý luận chính sách
PTNNBV để xem xét thực tiễn thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp
bền vững tại huyện Quế Sơn, tìm ra những bất cập trong thực hiện chính sách
thời gian qua và từ đó đề xuất giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính
4
sách phát triển nông nghiệp bền vững hướng đến mục tiêu PTNNBV tại
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong những năm đến.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ trả lời 03 câu hỏi nghiên cứu chính sau đây:
Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách
phát triển nông nghiệp bền vững là gì?
Câu hỏi nghiên cứu thứ hai: Thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách
PTNNBV tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam như thế nào?
Câu hỏi nghiên cứu thứ ba: Những giải pháp nào nhằm tăng cường thực
hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện
chính sách về phát triển nông nghiệp bền vững và quá trình thực hiện chính
sách phát triển nông nghiệp bền vững tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi huyện Quế
Sơn, tỉnh Quảng Nam và trong khoảng thời gian từ năm 2011 - 2015
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn vận dụng cách tiếp cận nghiên cứu
chính sách qua tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và phương pháp
nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công
về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá
chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính
sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý
luận về chính sách chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập thông tin, phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh được sử dụng để thu thập, phân
tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên
cứu, bao gồm các văn kiện, Nghị Quyết của Đảng, Nhà nước, Bộ ngành ở
5
Trung ương và địa phương; các tài liệu, công trình nghiên cứu, các báo cáo,
thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề thực hiện chính sách PTNNBV ở nước ta
nói chung và thực tế huyện Quế Sơn nói riêng. Đồng thời, thu thập, tìm hiểu
và vận dụng các lý thuyết của ngành chính sách xã hội liên quan đến vấn đề
thực hiện chính sách PTNNBV. Phương pháp nghiên cứu định tính qua áp
dụng phương pháp phỏng vấn sâu một số chủ thể chính sách liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách công nói chung và chính sách phát triển nông nghiệp bền vững nói riêng.
Đề xuất phương hướng và các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách phát triển nông nghiệp bền vững.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp cơ sở khoa học trong việc vận dụng các lý thuyết về chính sách
công để xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn về thực hiện chính sách phát triển
nông nghiệp bền vững tại huyện Quế Sơn. Từ đó đưa ra những đề xuất có giá
trị tham khảo đối với các nhà quản lý để nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách phát triển nông nghiệp bền vững trong thực tiễn những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách PTNNBV
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền
vững từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Mục tiêu và giải pháp tăng cường thực hiện chính sách
PTNNBV ở nước ta.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
1.1. Khái niệm chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị nhằm
vạch ra những định hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể quản lý với
các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy và quản lý sự phát
triển, nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định cho trước. Khái niệm chính sách
công được diễn đạt khái quát như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết
định có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể với
giải pháp và công cụ để thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục
tiêu xác định của Đảng chính trị cầm quyền” [30].
Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp phát triển phải đảm bảo được
mục đích kiến tạo một hệ thống bền vững về mặt kinh tế, xã hội, môi trường.
Hiện nay, có nhiều tác giả đưa ra khái niệm về PTNNBV ở những góc độ
khác nhau, như: PTNNBV là quá trình quản lý và duy trì sự thay đổi về tổ
chức, kỹ thuật và thể chế cho nông nghiệp phát triển nhằm đảm bảo thỏa mãn
nhu cầu ngày càng tăng của con người về nông phẩm và dịch vụ, vừa đáp ứng
nhu cầu của mai sau [28]; hay PTNNBV là quá trình đảm bảo hài hòa ba
nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, thỏa mãn nhu cầu về nông
nghiệp hiện tại mà không tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của tương lai
[27]. Từ những quan niệm trên, PTNNBV có thể hiểu rằng: Nền nông nghiệp
phát triển bền vững phải bảo đảm được mục đích là kiến tạo một hệ thống bền
vững về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Về kinh tế, sản xuất nông nghiệp
phải đạt hiệu quả cao, làm ra nhiều sản phẩm, không những đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng, thức ăn chăn nuôi, dự trữ lương thực mà còn xuất khẩu ra thị
trường quốc tế. Về xã hội, một nền nông nghiệp bền vững phải đảm bảo cho
người nông dân có đầy đủ công ăn việc làm, có thu nhập ổn định, đời sống vật
7
chất và tinh thần ngày càng được nâng cao. Phát triển nông nghiệp bền vững
về khía cạnh môi trường là không hủy hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên, giữ
nguồn nước ngầm trong sạch và không gây ô nhiễm môi trường [37].
Chính sách phát triển nông nghiệp bền vững vừa là chính sách xã hội
vừa là chính sách kinh tế và vừa là chính sách bảo vệ môi trường nên có thể
được hiểu là tổng thể các biện pháp tác động của Nhà nước có liên quan đến
nông nghiệp và các ngành có liên quan, nhằm tác động vào nông nghiệp theo
những mục tiêu phát triển bền vững. Tùy theo định hướng mục tiêu lâu dài
hay trước mắt mà Nhà nước có những chính sách cụ thể, thích hợp tác động
vào phát triển nông nghiệp để quản lý, điều phối sự phát triển chung của nông
nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Theo xu hướng chung, chính
sách PTNNBV cần phải hướng đến ba mục tiêu chính: bền vững về kinh tế; về
mặt xã hội; về tài nguyên và môi trường. Vậy chính sách PTNNBV là “Tập hợp
các quyết định có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ
thể với giải pháp và công cụ để thực hiện giải quyết vấn đề phát triển nông
nghiệp bền vững theo mục tiêu đã xác định của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Thực hiện chính sách PTNNBV là việc thực hiện các quyết định có liên
quan của Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng
của con người về nông phẩm và dịch vụ, vừa đáp ứng nhu cầu của mai sau;
đảm bảo không tổn hại đến môi trường, không giảm cấp tài nguyên, phù hợp
về kỹ thuật và công nghệ, có hiệu quả về kinh tế và được chấp nhận về
phương diện xã hội.
1.2. Nội dung chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
1.2.1. Vấn đề chính sách phát triển nông nghiệp bền
Trãi qua 30 năm thực hiện đường lới đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đến nay Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực; đóng góp to lớn vào thành quả đạt được có việc
thực hiện tốt chính sách PTNNBV. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
8
trương, chính sách để lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện
chính sách ngày một tốt hơn như: Nghị quyết Hội nghị BCH TW Đảng lần
thứ V, khoá IX xác định nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là những vấn
đề có tầm quan trọng chiến lược của nước ta; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
05/8/2008 của Hội nghị lần thứ VII, BCH TW Đảng khóa X về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn; Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của
Thủ tướng Chính phủ về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam; Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị
gia tăng và phát triển bền vững; qua đó tạo cơ sở và điều kiện để tổ chức triển
khai thực hiện tốt việc phát triển ngành nông nghiệp, góp phần thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới dân tộc.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách PTNNBV trong thời gian qua vẫn
bộc lộ nhiều hạn chế như: Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp có xu hướng
chậm lại; sản xuất nông nghiệp chậm phát triển theo hướng hiện đại, thiếu
tính bền vững; hiệu quả sản xuất, khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản
còn thấp; an toàn vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trường vẫn là vấn đề bức
xúc trong xã hội. Quan hệ sản xuất chậm được đổi mới, kinh tế tập thể, hợp
tác xã vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo dài; quy mô sản xuất nông
nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa gắn được sản xuất với chế biến, tiêu thụ
và xuất khẩu. Sự gắn kết giữa công nghiệp, dịch vụ với sản xuất nông nghiệp
thiếu chặt chẽ; nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ Khoa học – Công
nghệ (KH-CN) vào sản xuất nông nghiệp chưa được coi trọng; đào tạo nghề
cho lao động nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu. Thu nhập và mức sống
của dân cư nông thôn còn thấp; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo vẫn còn ở mức cao,
giảm nghèo ở nhiều vùng kém bền vững; chất lượng y tế, văn hóa, giáo dục ở
nhiều nơi còn thấp. Hệ thống hạ tầng nông thôn còn lạc hậu, chậm được cải
thiện. Quản lý, sử dụng tài nguyên đất đai, rừng, biển kém hiệu quả. Xây
9
dựng nông thôn mới ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, kém chất lượng;
mục tiêu xây dựng nông thôn mới đến năm 2015 và 2020 khó đạt được nếu
không có sự chỉ đạo quyết liệt, hỗ trợ mạnh hơn về cơ chế, chính sách và
nguồn lực [33].
Nguyên nhân của những vấn đề cụ thể nêu trên đó là: Trước hết do nhận
thức của cấp uỷ Đảng, chính quyền ở một số nơi về thực hiện các chính sách
PTNNBV chưa đầy đủ, thiếu vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa
phương; còn xem nhẹ vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn; việc lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa được thường xuyên, thiếu quyết liệt. Tổ
chức bộ máy, chất lượng công tác QLNN về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn còn nhiều bất cập; sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành chức năng thiếu
chặt chẽ; đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn còn rất hạn chế.
Một số cơ chế, chính sách về nông nghiệp, nông thôn ban hành chưa hiệu quả,
thiếu tính khả thi, chậm được sửa đổi; thiếu cơ chế, chính sách đủ mạnh để
thu hút mạnh mẽ các nguồn lực xã hội, nhất là doanh nghiệp đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn; cơ cấu đầu tư có nơi chưa hợp lý. Đóng góp của KH-CN
vào giá trị gia tăng của các sản phẩm nông nghiệp còn thấp. Sự tham gia của
các tổ chức CT-XH, đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi còn hạn chế, chưa phát
huy hết vai trò, trách nhiệm của mình.
1.2.2. Mục tiêu chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
1.2.2.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt
và lâu dài.
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng KT-XH hiện đại; gắn nông
nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông
thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường
10
sinh thái được bảo vệ. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các
vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang
bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai
trò làm chủ nông thôn mới. Kiểm soát, hạn chế về cơ bản mức độ gia tăng ô
nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học; tiếp
tục cải thiện chất lượng môi trường sống, nâng cao năng lực chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững đất nước
[23].
1.2.2.2. Mục tiêu cụ thể
* Giai đoạn 2011-2015: Phục hồi tăng trưởng, tăng hiệu quả sản xuất
nông nghiệp; phát huy dân chủ cơ sở, huy động sức mạnh cộng đồng để phát
triển nông thôn; tăng thu nhập, giảm đáng kể tỷ lệ nghèo, bảo vệ môi trường
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ổn định 3,3-3,8%. Tạo bước đột phá
trong đào tạo nhân lực. Tạo chuyển biến rõ rệt phát triển kinh tế hợp tác, phát
triển liên kết dọc theo ngành hàng, kết nối giữa sản xuất - chế biến - kinh
doanh; phát triển doanh nghiệp nông thôn.
Hình thành kết cấu hạ tầng căn bản phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát
triển kinh tế nông thôn. Cải thiện căn bản môi trường nông thôn; đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh cây trồng, vật nuôi, phòng
chống thiên tai.
Cộng đồng cư dân nông thôn chủ động, tích cực thực hiện xây dựng
nông thôn mới, 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Giảm đáng kể tỷ lệ
hộ nghèo, đặc biệt ở các huyện còn trên 50% hộ nghèo.
* Giai đoạn 2016-2020: Phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện,
hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, vững bền; phát triển nông thôn gắn với quá
trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đất nước, tăng thu nhập và cải thiện căn bản
điều kiện sống của cư dân nông thôn, bảo vệ môi trường.
11
Duy trì tốc độ tăng trưởng nông nghiệp bình quân 3,5-4%/năm. Hình
thành một số ngành sản xuất kinh doanh mũi nhọn của Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển đổi theo nhu
cầu thị trường. Công nghiệp, dịch vụ và kinh tế đô thị phối hợp hiệu quả với
sản xuất, kinh doanh nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn.
Phong trào xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh với ít nhất 50% số xã
đạt tiêu chuẩn. Nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn lên 2,5 lần so với hiện
nay. Quy hoạch dân cư, quy hoạch lãnh thổ nông thôn gắn với phát triển đô thị,
công nghiệp.
Phát triển lâm nghiệp, tăng độ che phủ của rừng lên 43- 45%, bảo vệ đa
dạng sinh học, đảm bảo đánh bắt thủy sản nội địa và gần bờ trong khả năng tái
tạo và phát triển, khắc phục tình trạng ô nhiễm trong sản xuất nông nghiệp, khắc
phục và giảm thiểu thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh và các tác động xấu của biến
đổi khí hậu [24].
1.2.3. Giải pháp và công cụ chính sách phát triển nông nghiệp bền
vững
Giải pháp chính sách PTNNBV thể hiện sự can thiệp của Nhà nước
nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các Bộ,
ngành có liên quan, người nông dân và toàn xã hội đối với quá trình phát triển
nông nghiệp. Tuy nhiên, một điều cần hết sức lưu ý đó là mục tiêu cũng như
các giải pháp của chính sách phải được xem xét là tạm thời hay chiến lược,
dài hạn hay ngắn hạn, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế cũng như
bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế. Xét từ một góc độ tiếp cận khác đối
với mục tiêu chính sách PTNNBV thì các giải pháp mà Nhà nước thực hiện
cũng nhằm phát huy vai trò là động lực của sự phát triển, tạo ra bước đột phá
mới, chuyển biến mạnh mẽ hơn để tham gia tích cực hơn vào sự phát triển
chung của đất nước.
12
Những vấn đề trên cho thấy, chính sách PTNNBV ở Việt Nam hướng
đến một số giải pháp cơ bản. Trước hết là phải thay đổi tư tưởng, nhận thức
trong sản xuất nông nghiệp; ban hành và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức ở tất cả các cấp TW đến cơ
sở, người nông dân về tầm quan trọng và vai trò của chính sách PTNNBV
trong quá trình phát triển xã hội. Từ những vấn đề trên cho thấy, chính sách
PTNNBV hướng đến một số giải pháp sau:
- Giải pháp về tăng cường sự quản lý của chính quyền các cấp trong thực
hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững.
- Giải pháp về phát huy vai trò công tác phổ biến, tuyên truyền trong
thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững.
- Giảm pháp về tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi, giám sát, tổng
kết và điều chỉnh chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
- Giải pháp về tăng cường huy động và sử dụng các nguồn lực trong việc
thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
- Giải pháp đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng trong thực hiện chính sách
PTNNBV
- Giải pháp về đổi mới các hình thức tổ chức kinh tế tập thể trong thực
hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
- Giải pháp về công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng
bền vững
Thực tiễn cho thấy, bất kỳ một chính sách nào nếu chỉ có các giải pháp
chính sách nhưng không có các công cụ chính sách thì khó thực hiện được.
Công cụ chính sách là hệ thống những phương tiện truyền dẫn các phương
thức tác động lên đối tượng chính sách, bao gồm: Công cụ dựa vào tổ chức;
công cụ dựa vào quyền lực, công cụ tài chính và công cụ truyền thông. Đối
với chính sách PTNNBV, các công cụ chính sách cụ thể là: (1) Công cụ dựa
vào tổ chức là các công cụ hành chính, tổ chức như kế hoạch, quy hoạch của
13
Nhà nước, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, mô hình tổ chức, bộ
máy cán bộ công chức tham gia hoạch định, triển khai chính sách; (2) Công
cụ dựa vào quyền lực là các quy định mệnh lệnh và kiểm soát, quy định về
trách nhiệm của từng cấp, từng ngành; (3) Công cụ tài chính là ngân sách, các
quỹ, nguồn vốn, hệ thống đòn bẫy khuyến khích về mặt kinh tế, vật chất; (4)
Công cụ truyền thông là các chiến dịch truyền thông, tuyên truyền, cổ vũ và
thuyết phục qua báo chí, truyền hình hay tài trợ nghiên cứu.
1.3. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
1.3.1. Cách tiếp cận thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp bền
vững
Thực hiện chính sách PTNNBV là nhiệm vụ quan trọng và bức thiết của
cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương và mọi người dân với
mục đích là tạo động lực thúc đẩy phát triển KT-XH, góp phần thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Có một số phương pháp tiếp cận
khi thực hiện chính sách, trong đó phương pháp tiếp cận “từ trên xuống” được
xem là phương pháp truyền thống khi thực hiện một chính sách. Cách tiếp cận
này đảm bảo tính thống nhất khi ban hành chính sách, đảm bảo chính sách
được triển khai nhanh, tránh được sự chồng chéo, mất tập trung khi thực thi.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT)
(Từ dưới lên)
(Từ trên xuống)
Sở NN&PTNT cấp tỉnh/thành phố
Phòng NN&PTNT/ Phòng Kinh tế các quận, huyện
Xã, phường
Tuy nhiên, nó không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của cơ sở và
chưa thật sự phù hợp với hoàn cảnh, tình hình KT-XH của từng địa phương.
Ngược lại, phương pháp tiếp cận “từ dưới lên” tuy khắc phục được những
nhược điểm của phương pháp tiếp cận “từ trên xuống”, nhưng vẫn gặp phải
14
một số vấn đề khi thực hiện, bởi vì nó chịu ảnh hưởng mang tính chủ quan
của những cán bộ chuyên trách. Ngoài ra, phương pháp này chưa thật sự huy
động được sự tham gia của người dân. Do đó, để đảm bảo phù hợp với tình
hình mới, cũng như mục tiêu hướng đến cộng đồng, phương pháp tiếp cận
phù hợp nhất khi thực hiện chính sách là tiếp cận theo chiều dọc (Bộ
NN&PTNT, Sở NN&PTNT cấp tỉnh/thành phố, Phòng NN&PTNT/Phòng
Kinh tế các quận, huyện, các xã – tiếp cận mang tính hai chiều), theo chiều
ngang (có sự phối hợp giữa các Bộ, các cơ quan, ban, ngành: Bộ Y tế, Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Tư pháp), sự tham gia của
các bên liên quan, cộng đồng người dân, các tổ chức trong nước và quốc tế.
Như vậy, cách tiếp cận đối với chính sách PTNNBV đó là: Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức đoàn thể, CT-XH thông qua
các chiến lược, chính sách, nghị quyết về mặt chính trị. Quốc hội thực hiện
vai trò giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nước. Bộ NN&PTNT chịu
trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các vấn đề nông nghiệp, cùng với các
bộ ngành có liên quan khác đóng vai trò chủ chốt trong các lĩnh vực tương
ứng như Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và Môi
trường. Chính quyền địa phương thực thi chức năng quản lý nhà nước
(QLNN) về các vấn đề nông nghiệp, xây dựng các chương trình, kế hoạch phù
hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn ở địa phương.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ theo
chức năng, nhiệm vụ được giao, xây dựng kế hoạch, tổ chức tuyên truyền đến
người nông dân các chủ trương, chính sách về PTNNBV để người dân nắm
bắt và tổ chức thực hiện đạt kết quả. Bên cạnh đó, các cơ quan truyền thông
tham gia vào quá trình truyền thông trong việc phát triển nông nghiệp, bao
gồm nâng cao nhận thức trong mọi người nông dân về vấn đề PTNNBV;
đồng thời thông tin các vấn đề liên quan để người dân tiếp cận, áp dụng trong
hoạt động sản xuất.
15
1.3.2. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển
nông nghiệp bền vững
Để đưa các chính sách nói chung và chính sách PTNNBV nói riêng vào
cuộc sống cần phải xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Đây là cơ sở, là
công cụ quan trọng để triển khai thực hiện chính sách, các nội dung nhiệm vụ
trong kế hoạch cung cấp các nguồn lực cho việc thực hiện chính sách, việc
kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách, việc xác định hợp lý thời gian thực hiện
chính sách. Hiệu quả thực hiện chính sách phụ thuộc vào chất lượng, tính
chính xác, tính khả thi của kế hoạch. Cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể để có
thể xác định được mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, các nguồn lực, thời gian và
giải pháp tổ chức thực hiện chính sách. Kế hoạch triển khai thực hiện chính
sách PTNNBV cần được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống.
Các cơ quan có nhiệm vụ triển khai thực thi chính sách PTNNBV từ Trung
ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế
hoạch triển khai thực hiện gồm:
- Kế hoạch tổ chức điều hành.
- Kế hoạch cung cấp các nguyên liệu.
- Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện.
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc, thực thi đưa chính sách vào cuộc sống.
Ngoài ra, trong kế hoạch thực hiện chính sách PTNNBV cần phải xây
dựng nội quy, quy chế tổ chức điều hành thực hiện chính sách; về nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức tham gia tổ chức điều
hành chính sách; về biện pháp, giải pháp khen thưởng, kỷ luật đối với cá
nhân, tập thể trong tổ chức thực hiện. Việc lập kế hoạch thực hiện chính sách
tốt sẽ giúp cho việc thực thi được khả thi và không phải qua điều chỉnh, bổ
sung trong quá trình thực hiện.
1.3.3. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách phát triển nông
nghiệp bền vững
Phổ biến tuyên truyền thực hiện chính sách PTNNBV là một hoạt động
16
quan trọng trong thực hiện chính sách. Việc phổ biến, tuyên truyền không chỉ
giúp người dân, các doanh nghiệp và toàn xã hội hiểu rõ về mục đích, yêu
cầu, tầm quan trọng của chính sách, mà còn giúp các cơ quan Nhà nước, các
cán bộ công chức, các tổ chức xã hội có trách nhiệm tổ chức thực thi chính
sách được nhận thức đầy đủ tính chất, tầm quan trọng, vai trò, quy mô của
chính sách đối với người dân và đối với toàn xã hội. Cần phải lựa chọn hình
thức, phương pháp phổ biến, tuyên truyền khác nhau nhằm tạo mối quan tâm
thúc đẩy sự thay đổi nhận thức của người nông dân, của xã hội đối với việc
PTNNBV; nghiên cứu xây dựng, phát triển các chương trình, sản xuất các sản
phẩm truyền thông về phát triển nông nghiệp bền vững cho các kênh truyền
thông đại chúng, hoạt động tư vấn, truyền thông trực tiếp thông qua hội nghị,
hội thảo.
1.3.4. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển nông
nghiệp bền vững
Trong tổ chức và thực hiện các chính sách nói chung, chính sách
PTNNBV nói riêng thì công tác phân công, phối hợp thực hiện có ý nghĩa
quan trọng, tác động đến hiệu quả thực hiện chính sách. Muốn tổ chức thực
hiện chính sách có hiệu quả cần phải phân công, phối hợp một cách chặt chẽ,
hợp lý giữa các cơ quan quản lý ở TW và địa phương. Cần phải phân công
nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể của cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp.
Thông qua việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách một cách khoa học
sẽ phát huy được những nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách. Trong phân công nhiệm vụ cần chú ý đến khả năng, trình độ
năng lực chuyên môn, thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng
chồng chéo nhiệm vụ và trách nhiệm không rõ ràng.
Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”
[29], Đảng lãnh đạo Nhà nước, các tổ chức CT-XH, các đoàn thể quần chúng
thông qua các chương trình, chính sách, nghị quyết mang tính chính trị và
17
thông qua theo dõi giám sát việc thực hiện của các tổ chức này. Đảng đã thể
hiện sự quan tâm sâu sắc đến công tác PTNNBV. Ngày 05/8/2008, Tại Hội
nghị lần thứ VII, BCH TW Đảng khóa X, Đảng ta một lần nữa xác định mục
tiêu: “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông
thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn
nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với
các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ
nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia
cả trước mắt và lâu dài” [34]. Thông qua chủ trương này, Đảng Cộng sản Việt
Nam mong muốn có sự cải thiện tích cực về mặt nhận thức, hành động trong
lĩnh vực nông nghiệp đối với cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương, các
tổ chức chính trị xã hội và toàn thể người dân.
Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối
cao mọi hoạt động của Nhà nước. Theo Luật Tổ chức Quốc Hội năm 2014 thì
Quốc hội có 9 Ủy ban, trong đó có 4 Ủy ban sau có chức năng liên quan đến
quá trình phát triển nông nghiệp: Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính và Ngân
sách, Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường, Ủy ban Pháp luật
Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành
của Quốc hội [32]. Chính phủ có thẩm quyền ban hành một số loại văn bản
quy phạm pháp luật như Nghị định, Quyết định, Chỉ thị. Các Bộ chủ quản ban
hành các Quyết định, Thông tư nhằm hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật ở cấp cao hơn. Các cơ quan Nhà nước liên quan đến
PTNNBV, cụ thể là: Bộ NN&PTNT, Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch
– Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê
18
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã chịu trách nhiệm thực hiện
chính sách PTNNBV đảm bảo phù hợp với tình hình, điều kiện thực tế tại địa
phương mình theo thẩm quyền được giao.
1.3.5. Duy trì chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
Duy trì thực hiện chính sách PTNNBV là làm cho chính sách được tồn
tại và phát triển trong môi trường thực tế. Muốn cho chính sách được duy trì
đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hợp lực của cả người tổ chức, người thực hiện và
môi trường tồn tại. Tuy nhiên, trong thực tế khi thực thi thì lại vướng một số
hạn chế nhất định, đó có thể là do nhà hoạch định chính sách không lường hết
được kết quả ban hành chính sách hoặc do sự thay đổi môi trường chính sách
trước và sau khi ban hành. Vì vậy, các cơ quan QLNN về nông nghiệp Trung
ương cần sử dụng hệ thống, công cụ quản lý để tác động nhằm tạo lập môi
trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách. Các tổ chức, người dân và toàn
xã hội có trách nhiệm tham gia thực hiện yêu cầu của Nhà nước; phát huy
quyền làm chủ, tăng cường thực hiện dân chủ để cùng tham gia quản lý xã
hội. Những hoạt động đồng bộ trên sẽ góp phần tích cực vào việc duy trì
chính sách PTNNBV trong quá trình phát triển xã hội.
1.3.6. Điều chỉnh chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
Điều chỉnh chính sách PTNNBV là một hoạt động cần thiết, diễn ra
thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực hiện chính sách, nhằm mục đích
đảm bảo cho chính sách phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Nó
được thực hiện bởi cơ quan QLNN về nông nghiệp. Theo quy định, cơ quan
nào ban hành chính sách thì cơ quan đó điều chỉnh, bổ sung chính sách.
Nhưng trên thực tế việc điều chỉnh cơ chế, biện pháp chính sách diễn ra khá
linh hoạt, vì thế các cơ quan QLNN về nông nghiệp của từng địa phương cần
chủ động điều chỉnh cơ chế chính sách cho phù hợp với tình hình, điều kiện
thực tế của địa phương mình, miễn là không làm thay đổi mục tiêu của chính
sách. Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách PTNNBV
19