Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới phía bắc trên sóng truyền hình (khảo sát trên kênh VTV1, ANTV và đài PT TH lạng sơn, từ tháng 5 2014 đến tháng 5 2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------ĐÀO THỊ HIỀN

VẤN ĐỀ BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM QUA BIÊN GIỚI
PHÍA BẮC TRÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH
(Khảo sát trên kênh VTV1, ANTV và Đài PT-TH Lạng Sơn,
từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội - 2016

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------ĐÀO THỊ HIỀN

VẤN ĐỀ BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM QUA BIÊN GIỚI
PHÍA BẮC TRÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH
(Khảo sát trên kênh VTV1, ANTV và Đài PT-TH Lạng Sơn,
từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Dương Xuân Sơn


Hà Nội - 2016

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự
của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Dương Xuân
Sơn.
Các số liệu, những đánh giá, phân tích, nhận xét, nghiên cứu được
trình bày trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và khách quan, chưa
từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

3


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên
cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự hướng dẫn
nhiệt tình của các thầy, cô cũng như sự động viên, ủng hộ của đồng
nghiệp, bạn bè trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Dương Xuân Sơn, người đã giúp
đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Báo chí và Truyền
thông - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia
Hà Nội) đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các anh/chị và các bạn đồng
nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện đề tài luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Học viên

4


DANH MỤC VIẾT TẮT

ANTT

An ninh trật tự

BBN

Buôn bán người

MBN

Mua bán người

BBPNTE

Buôn bán phụ nữ, trẻ em

PCTP


Phòng chống tội phạm

PNTE

Phụ nữ, trẻ em

PT-TH

Phát thanh - Truyền hình

5


DANH MỤC BẢNG, BIỂU, ẢNH
Bảng, biểu
2.1

Trang

Bảng, biểu thống kê số lượng tin bài có nội dung về tuyên truyền

41

phòng, chống BBPNTE qua biên giới phía Bắc trên 3 chương trình
truyền hình
2.2

Bảng, biểu thống kê số lượng tin bài có nội dung về thủ đoạn mà

47


bọn tội phạm đã sử dụng để BBPNTE qua biên giới phía Bắc trên 3
chương trình truyền hình
2.3

Bảng thống kê số lượng tác phẩm sử dụng tiếng động hiện trường

58

tuyên truyền phòng, chống BBPNTE qua biên giới phía Bắc trên 3
chương trình truyền hình.
2.4

Bảng, biểu thống kê các thể loại được sử dụng để thông tin về vấn

60

đề phòng, chống BBPNTE qua biên giới phía Bắc trên 3 chương
trình truyền hình.
Ảnh
2.1

Thông tin truy nã đối tượng mua bán trẻ em - Bản tin 113 Online

50

2.2

Hỗ trợ tra cứu, xem chương trình Cuộc sống thường ngày – VTV1


66

2.3

Hỗ trợ tra cứu, xem Bản tin 113 Online - ANTV

66

2.4

Cận cảnh khuôn mặt nạn nhân bị bán sang Trung Quốc

70

2.5

Hình ảnh không logic về dựng hình

71

2.6

Hình đại diện trên facebook của chương trình Cuộc sống thường

96

ngày – VTV1
2.7

Hỗ trợ tra cứu, xem chuyên mục Vì an ninh xứ Lạng - LSTV


6

100


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 2
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ VẤN ĐỀ
BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM TRÊN TRUYỀN HÌNH ...................... 17
1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đề tài ......................... 17
1.2. Đƣờng lối quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về
phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em .................................................. 26
1.3. Vai trò của báo chí truyền hình trong việc phòng chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em .......................................................................................... 35
Tiểu kết chương 1 .................................................................................. 41
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM
TRÊN TRUYỀN HÌNH .............................................................................. 43
2.1. Vài nét về các chƣơng trình truyền hình ........................................ 43
2.2. Khảo sát vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới phía Bắc
trên truyền hình ....................................................................................... 46
2.3. Ƣu điểm và hạn chế của 3 kênh truyền hình trong thông tin về
phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em ................................................. 68
2.4. Nguyên nhân hạn chế ....................................................................... 81
Tiểu kết chương 2 .................................................................................. 84
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ TRONG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN PHÕNG
CHỐNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM....................................................... 86
3.1. Nhóm giải pháp chung...................................................................... 86
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình truyền

hình có nội dung phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em ................... 96
Tiểu kết chương 3 ................................................................................ 108
KẾT LUẬN ................................................................................................ 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 112
7


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Dương Xuân Sơn.
Các số liệu, những đánh giá, phân tích, nhận xét, nghiên cứu được
trình bày trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và khách quan, chưa
từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

2


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình
của các thầy, cô cũng như sự động viên, ủng hộ của đồng nghiệp, bạn bè
trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Dương Xuân Sơn, người đã giúp đỡ
và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Báo chí và Truyền
thông - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia
Hà Nội) đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo điều

kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các anh/chị và các bạn đồng
nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện đề tài luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Học viên

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Buôn bán người (BBN), trong đó có buôn bán phụ nữ, trẻ em
(BBPNTE) là vấn nạn toàn cầu, bắt nguồn từ việc mất cân bằng giới, thất
nghiệp và đói kém. Vấn nạn này xảy ra tại tất cả các quốc gia trên thế giới,
với mức độ khác nhau, trong đó nóng nhất là khu vực Châu Á, Châu Âu và
Châu Mỹ.
Ngày 30/7/2015, tổ chức chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp quốc
(UNODC) đã có bản Báo cáo Toàn cầu về tình hình mua bán người (báo cáo
được thực hiện 2 năm/lần) đã chỉ rõ mức độ nghiêm trọng của loại hình tội
phạm này. Theo đó, trên thế giới hiện có hơn 510 đường dây mua bán người;
phát hiện 152 quốc gia là điểm xuất phát và 124 quốc gia là đích đến chịu tác
động của nạn mua bán người. Cũng theo báo cáo, nạn nhân là trẻ em chiếm
33%, trong đó cứ 3 nạn nhân trẻ em thì có 2 nạn nhân là trẻ em gái. Nạn nhân
là nữ chiếm tới 70% số nạn nhân của các vụ mua bán người trên toàn thế giới.
Việt Nam có đường biên giới dài, tiếp giáp với 3 nước: Trung Quốc,
Lào, Campuchia. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam mở rộng hợp tác,
phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu, hữu nghị với các quốc gia. Tuy nhiên,
đường biên giới dài, hiểm trở, có nhiều đường mòn tự phát là điều kiện để

bọn tội phạm xuyên quốc gia dễ dàng hoạt động, trong đó có tội phạm
BBPNTE. Mặt khác, phần lớn dân số dân tộc ít người ở Việt Nam trình độ
dân trí thấp, điều kiện kinh tế chưa phát triển, thiếu việc làm và thất nghiệp
còn cao cũng là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng PNTE bị buôn bán.
Những địa điểm nóng của BBPNTE tập trung tại các tỉnh có đường biên giới
giáp với Trung Quốc, gồm: Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn,… Theo
thống kê, trong 10 năm qua có 22.000 phụ nữ và trẻ em đã bị bán sang Trung

7


Quốc. Tuy nhiên, đây là con số chưa đầy đủ, bởi nhiều nạn nhân do bị đe dọa
hoặc mặc cảm, sợ ảnh hưởng đến tương lai nên không dám khai báo, tố cáo.
Tội phạm BBPNTE ngày càng gia tăng và có dấu hiệu phức tạp, nguy
hiểm làm ảnh hưởng xấu đến phong tục tập quán, đạo đức xã hội, pháp luật
của nhà nước, phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, cướp đi những quyền
con người cơ bản nhất của nạn nhân, như: quyền tự do di chuyển, lựa chọn,
kiểm soát cơ thể, tinh thần và cả tương lai, cướp đi hạnh phúc của nhiều gia
đình, làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS, ảnh hưởng đến an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội,…
Để đấu tranh, phòng chống BBPNTE, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
giải pháp, chỉ đạo cấp, các ngành, các địa phương. Ngoài các biện pháp nâng
cao công tác điều tra, truy tố, xét xử còn tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng để người dân hiểu được sự ảnh hưởng của BBPNTE đối
với cá nhân và toàn xã hội, từ đó đưa ra các biện pháp phòng, chống kịp thời.
Trong các phương tiện truyền thông đại chúng, báo chí đóng vai trò
quan trọng trong việc thông tin một cách kịp thời về tất cả các vấn đề trong xã
hội, trong đó có vấn đề phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Qua báo chí
người dân được cung cấp thông tin về chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, các vụ việc, mô hình phòng, chống

BBPNTE,... giúp người dân có biện pháp phòng chống kịp thời với những thủ
đoạn mới của bọn tội phạm.
Trong các loại hình truyền thông đại chúng, truyền hình chuyển tải
thông tin sống động, hấp dẫn bằng hình ảnh và âm thanh về tất cả các lĩnh vực
trong cuộc sống, được đông đảo người dân đón nhận. Ngày nay, nhờ sự phát
triển của kỹ thuật - công nghệ, truyền hình có mặt tại tất cả các tỉnh, thành, từ
đồng bằng, nông thôn tới biên giới, hải đảo xa xôi,... Truyền hình đóng vai trò
không nhỏ trong việc góp phần đẩy lùi các hiện tượng xấu, biểu dương những

8


yếu tố tích cực. Qua các thông tin trên truyền hình, nhận thức của người dân
sẽ được nâng cao, huy động sức mạnh của toàn dân trong việc đấu tranh, ngăn
ngừa với các loại tội phạm trong đó có tội phạm BBPNTE.
Nhằm đánh giá kết quả, những ưu điểm, hạn chế trong công tác tuyên
truyền phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em trên các kênh truyền hình, để
đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tác phẩm
trong tuyên truyền phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Vì những lý do đó,
tác giả chọn đề tài “Vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới phía
Bắc trên sóng truyền hình” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề BBPNTE hiện đã và đang diễn ra hết sức phức tạp và gây ảnh
hưởng tới cuộc sống của người dân. Trước đây, đã có một số sách, luận văn,
khóa luận, các bài viết trên báo chí nghiên cứu đề tài về đối tượng là PNTE.
Tuy nhiên, những đề tài này chủ yếu nhằm mục đích thông tin về một số vấn
đề như: bạo lực trẻ em, giáo dục đạo đức, bình đẳng giới cho phụ nữ,…
Trong quá trình tìm hiểu, tác giả chú ý đến một số cuốn sách liên quan
đến vấn đề nghiên cứu của đề tài như:
Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em của tác giả Vũ Ngọc Bình,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Tác phẩm này đề cập tới thực trạng,
nguyên nhân của tình trạng buôn bán trẻ em và ảnh hưởng của tệ nạn buôn
bán, mại dâm tới sức khỏe, tinh thần của trẻ em. Từ đó, đưa ra một số giải
pháp đề phòng, chống buôn bán, mại dâm, bảo vệ quyền của trẻ em.
Bên cạnh đó còn có các công trình nghiên cứu của tác giả Lê Thị Quý,
gồm: Phòng, chống buôn bán phụ nữ các tỉnh phía Bắc Việt Nam, Nxb Phụ
nữ, năm 1999; Vấn đề ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam, Nxb Lao
động – xã hội, năm 2000 và Phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em qua
biên giới, Nxb Phụ nữ, năm 2004. Đây là những công trình nghiên cứu sâu về

9


nguyên nhân của tình trạng BBPNTE, các phương pháp nghiên cứu được sử
dụng trong phân tích về vấn nạn BBPNTE, một số giải pháp để phòng chống
BBPNTE,… Dưới góc độ xã hội học, những công trình trên có nhiều giá trị,
là nguồn tư liệu quan trọng giúp tác giả có thêm thông tin “làm nền” cho luận
văn của mình.
Một số sinh viên và học viên cao học tại Khoa Báo chí và Truyền thông
- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN), Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, đã chọn đề tài liên quan đến đối tượng là PNTE để làm
khoá luận, luận văn tốt nghiệp. Điển hình là một số luận văn, khóa luận báo
chí:
Vũ Thị Thúy Huyền, Báo chí với vấn đề phòng chống bạo lực trẻ em
hiê ̣n nay (Khảo sát báo Lao động và Xã hội , báo Pháp luật Việt Nam , báo
Giáo dục và Thời đa ̣i, báo Thiếu niên Tiề n phong và báo Hoa ho ̣c trò, từ tháng
6/2011 đến tháng 6/2012). Luận văn Thạc sĩ Báo chí, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, 2012. Trên cơ sở khảo sát, phân tích những thành công và hạn
chế trong công tác tuyên truyền về phòng chống bạo lực đối với trẻ em trên
các báo Giáo dục và Thời đại, báo Lao động và Xã hội, báo Pháp luật Việt

Nam, báo Hoa học trò và báo Thiếu niên Tiền phong. Từ đó, đưa ra giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền phòng chống bạo lực trẻ em trên
báo chí nói chung, ở những báo cho trẻ em và chuyên ngành nói riêng.
Trần Thị Phương Hoa, Đổi mới công tác tuyên truyền bình đẳng giới
cho phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo chí, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền và Tuyên truyền, 2013. Trên cơ sở nghiên cứu
một số vấn đề lý luận về đổi mới công tác tuyên truyền bình đẳng giới cho
phụ nữ và khảo sát thực trạng đổi mới công tác tuyên truyền bình đẳng giới
cho phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, đề xuất một số phương hướng,

10


giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền bình đẳng giới cho
phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh.
Đỗ Thị Thơm, Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2010. Tác
giả đã trình bày các văn bản pháp luật liên quan tới quyền trẻ em và phân tích
những ưu, nhược điểm, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng hệ thống pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam.
Đỗ Trần Quân, Tuyên truyền phòng, chống mua bán phụ nữ và trẻ em
trên báo in của lực lượng Công an nhân dân, Luận văn Thạc sĩ Báo chí, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, 2015. Trên cơ sở quan niệm và khung lý thuyết
về vấn đề vai trò của báo chí truyền thông với việc tham gia phòng, chống tội
phạm mua bán phụ nữ và trẻ em; Luận văn khảo sát thực trạng vai trò của báo
Công an nhân dân với vấn đề tuyên truyền phòng, chống tội phạm mua bán
phụ nữ và trẻ em. Từ đó, đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng của công tác tuyên truyền phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ
và trẻ em trên báo Công an nhân dân.
Nguyễn Thị Quỳnh Vinh, Vấn đề phòng, chống tội phạm lừa đảo, mua

bán phụ nữ và trẻ em trên báo Công an Nhân dân, Khóa luận, 2008. Trên cơ
sở khảo sát, phân tích vai trò của báo Công an Nhân dân trong việc phòng,
chống tội phạm lừa đảo, mua bán phụ nữ và trẻ em, tác giả đã kiến nghị một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác tuyên truyền phòng,
chống tội phạm lừa đảo, mua bán phụ nữ và trẻ em trên báo Công an nhân
dân.
Ngoài ra, đã có nhiều hội thảo được tổ chức nhằm đánh giá thực trạng
và đưa ra giải pháp nhằm giải quyết vấn đề BBN nói chung và BBPNTE nói
riêng.

11


Trong hội thảo Quốc tế Phòng chống buôn bán người: Viễn cảnh Quốc
tế Asean và Việt Nam do khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp với
Tạp chí Pháp luật và Phát triển, Hội Luật gia Việt Nam tổ chức vào tháng
12/2010, đã đề cập tới vấn đề BBPNTE và một số biện pháp để tăng cường
đấu tranh một cách hiệu quả với vấn nạn này.
Hội nghị cấp Bộ trưởng ASEAN về vấn đề người di cư bất thường hiện
nay trong khu vực Đông Nam Á, tổ chức tại thủ đô Kuala Lumpur, Malaysia
vào ngày 2/7/2015. Hội nghị đã thảo luận về các hướng hành động tiếp theo
để giải quyết vấn đề di cư bất thường hiện nay, công tác đấu tranh với tội
phạm mua bán người và chống di cư bất hợp pháp.
Hội thảo Tham vấn ý kiến về lồng ghép giới và phòng, chống mua bán
người trong Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) và Bộ luật Tố tụng hình sự
(sửa đổi), do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Tổ chức Tầm nhìn
Thế giới Quốc tế tổ chức ngày 18/6/2015. Tại hội thảo, các chuyên gia đã
đánh giá thực trạng gia tăng và diễn biến phức tạp của các tội phạm xâm
phạm đến PNTE; tập trung làm rõ những bất cập của Bộ luật Hình sự và Bộ
luật Tố tụng hình sự hiện hành áp dụng vào thực tiễn trong điều kiện hiện nay.

Các sách, luận văn, khóa luận, bài viết nghiên cứu, nội dung tại các hội
nghị, hội thảo trên đã phản ánh các đối tượng khác nhau, ở các giai đoạn
khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế còn ít công trình nghiên cứu, đánh giá,
tổng kết kinh nghiệm công tác thông tin tuyên truyền về vấn đề BBPNTE trên
truyền hình. Vì vậy, nội dung nghiên cứu: “Vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em
qua biên giới phía Bắc trên sóng truyền hình” là đề tài mới, chưa có công
trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

12


Luận văn nhằm mục đích nghiên cứu vấn đề BBPNTE, đánh giá những
kết quả của công tác thông tin tuyên truyền về vấn đề BBPNTE qua biên giới
phía Bắc trên chương trình Cuộc sống thường ngày (VTV1) - Đài Truyền
hình Việt Nam (Đài THVN); chuyên mục Vì an ninh xứ Lạng - Đài PT – TH
Lạng Sơn (LSTV) và bản tin 113 Online - kênh truyền hình Công an nhân dân
(ANTV). Qua đó, tìm ra những ưu điểm, hạn chế, đề xuất một số khuyến nghị
nhằm nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền phòng, chống BBPNTE.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống một số khái niệm liên quan đến đề tài.
Hệ thống các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề
BBPNTE.
Phân tích, đánh giá vai trò của truyền hình đối với việc thông tin về vấn
đề BBPNTE.
Khảo sát, đánh giá cách thông tin tuyên truyền về vấn đề BBPNTE qua
các kênh truyền hình.
Trên cơ sở chọn lọc, khảo sát hệ thống, phân tích, so sánh để khẳng
định thế mạnh của truyền hình trong việc đưa thông tin về vấn đề phòng,

chống BBPNTE cho công chúng trong giai đoạn hiện nay.
Đề xuất và khuyến nghị một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò
của truyền hình với việc thông tin về vấn đề phòng, chống BBPNTE.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là thông tin về vấn đề phòng,
chống BBPNTE qua biên giới phía Bắc trên các kênh truyền hình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn xác định rõ phạm vi nghiên cứu đề tài là các chương trình
Cuộc sống thường ngày, phát kênh VTV1, chuyên mục Vì an ninh xứ Lạng,

13


phát trên kênh LSTV và bản tin 113 Online, phát trên kênh ANTV. Thời gian
phát sóng từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trin
̀ h thực hiê ̣n đề tài , tác giả sử du ̣ng cơ sở lý luận, phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau:
5.1 Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên:
Nền tảng lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí, truyền
thông.
Lý luận báo chí, truyền thông.
5.2. Phương pháp cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử và sử dụng các tài liệu thứ cấp:
Để thực hiện đề tài, tác giả đã tiến hành sưu tầm các văn bản pháp luật
của Việt Nam và thế giới liên quan đến việc phòng, chống BBN, BBPNTE.

Cụ thể: Công ước về quyền trẻ em (1990), Nghị định thư không bắt buộc bổ
sung Công ước về Quyền trẻ em về việc Buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và
văn hóa phẩm khiêu dâm (2000), Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng
chống và trừng trị việc buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (2010),
Luật Báo chí năm 1989 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013),
Luật Phòng, chống mua bán người (2011),…
Đồng thời, tập hợp hệ thống tài liệu lý luận từ các sách, tạp chí, các
công trình khoa học liên quan đến đề tài.
- Phương pháp phân tích nội dung:
Đề tài sử dụng phương pháp này để khảo sát, phân tích nội dung và
hình thức của các chương trình truyền hình nhằm đánh giá thực trạng, thành

14


công, hạn chế của việc thông tin tuyên truyền về phòng, chống BBPNTE qua
biên giới phía Bắc trên sóng truyền hình trong thời gian thực hiện nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp:
Đề tài nghiên cứu trường hợp chuyên mục của đài PT – TH Lạng Sơn
(LSTV), một trong những đài địa phương đại diện cho các cơ quan báo chí ở
khu vực miền núi phía Bắc. Đồng thời, đề tài khảo sát, nghiên cứu chương
trình của Đài truyền hình Việt Nam (VTV) và kênh truyền hình chuyên biệt
về an ninh, trật tự xã hội và pháp luật (ANTV) trong việc thông tin tuyên
truyền phòng, chống BBPNTE qua biên giới phía Bắc.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Đề tài phỏng vấn lãnh đạo cơ quan báo chí, phóng viên phụ trách đưa
thông tin về phòng, chống BBPNTE, chuyên gia nghiên cứu về vấn đề
BBPNTE, để tổng hợp ý kiến và đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng
công tác thông tin tuyên truyền phòng, chống BBPNTE.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Đóng góp mới:
Đánh giá cơ bản về thực trạng và tác động của truyền thông, truyền
hình trong việc tuyên truyền phòng, chống BBPNTE qua biên giới phía Bắc.
Đề xuất giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy vai trò của truyền hình với
việc tuyên tuyền phòng, chống BBPNTE.
6.2. Ý nghĩa lý luận:
Đây là công trình nghiên cứu cơ bản thực trạng công tác tuyên truyền
phòng, chống BBPNTE. Ngoài ra, công trình cũng đặt ra vấn đề tuyên truyền
pháp luật tới người dân hiện nay, từ đó Đảng, Nhà nước có chính sách phù
hợp.

15


6.3. Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài góp phần cung cấp cơ sở khoa học đánh giá nghiêm túc việc
tuyên truyền để giải quyết một trong những vấn đề còn tồn tại trong xã hội.
Đề tài là tài liệu bổ ích cho các bạn đồng nghiệp tham khảo, áp dụng
vào thực tiễn khi thông tin về phòng, chống BBPNTE, định hướng cho người
dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về truyền hình và vấn đề buôn bán phụ nữ,
trẻ em trên truyền hình.
Chương 2: Thực trạng vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ em trên truyền hình.
Chương 3: Một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả trong công tác tuyên truyền phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em


16


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ
VẤN ĐỀ BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM TRÊN TRUYỀN HÌNH
1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đề tài
1.1.1. Truyền hình và đặc điểm của truyền hình
Truyền hình ra đời đầu tiên trên thế giới vào khoảng những năm 20 của
thế kỷ XX. Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm cho hệ thống truyền
thông đại chúng càng thêm hùng mạnh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
công chúng. Truyền hình đã góp phần vào việc truyền tải thông tin tới công
chúng một cách nhanh chóng, sống động và hấp dẫn.
Trong cuốn Giáo trình Báo chí truyền hình của tác giả Dương Xuân
Sơn: “Thuật ngữ Truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và
tiếng Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ''ở xa'', còn “videre”
là ''thấy được'', tiếng Latinh có nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại
thành “Televidere” có nghĩa là xem được từ xa. Tiếng anh là “Television”,
Tiếng Pháp là “Television” tiếng Nga gọi là “телевидение”. Như vậy, dù
phát triển bất cứ ở đâu, ở quốc gia nào thì tên gọi truyền hình cũng có chung
một nghĩa là nhìn được từ xa” [36, tr.13].
Trong cuốn Truyền thông – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản của tác giả
Nguyễn Văn Dững, Đỗ Thị Thu Hằng thì: “Truyền hình là kênh truyền thông,
truyền tải thông điệp bằng hình ảnh động với hầu như đầy đủ màu sắc vốn có
của cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động. Nhờ thế, truyền hình
đem lại cho công chúng bức tranh sống động với cảm giác như đang trực tiếp
tiếp xúc và cảm thụ” [14, tr.197].
Tác giả Tạ Ngọc Tấn, Nguyễn Tiến Hài trong cuốn Truyền thông đại
chúng nhấn mạnh: “Truyền hình là một loại hình phương tiện truyền thông
đại chúng chuyển tải nội dung thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh.


17


Nguyên nghĩa của thuật ngữ vô tuyến truyền hình (television) bắt nguồn từ
hai từ “Tele” có nghĩa là ''ở xa'' còn “vision” là ''thấy được'', tức là “thấy
được ở xa”. Thực chất cội nguồn trực tiếp của truyền hình là điện ảnh. Chính
điện ảnh đã cung cấp cho truyền hình những ý tưởng, gợi ý đầu tiên về một
phương thức truyền thông cũng như một kho tàng những phương tiện biểu
hiện phong phú, có sức thuyết phục mạnh mẽ, làm cơ sở cho truyền hình có
thể thích ứng nhanh chóng với đặc trưng kỹ thuật riêng của mình” [40,
tr.127].
Trong cuốn Thuật ngữ báo chí - truyền thông của tác giả Phạm Thành
Hưng đã đưa ra định nghĩa: “Truyền hình là hệ thống kỹ thuật, chuyển hình
ảnh, tiếng động đi xa qua tín hiệu truyền hình và được tiếp nhận trực tiếp qua
màn huỳnh quang. Chức năng truyền thông của đài truyền hình là sáng tạo và
truyền phát các chương trình truyền hình” [20, tr.220].
Trong cuốn Báo chí Truyền hình (tập 1) tác giả G.V.Cudơnhetxốp,
X.L.Xvích, A.la. lurốpxki có viết đặc thù của truyền hình đó là: “khả năng
chuyển tải thông tin dưới hình thức những hình ảnh chuyển động, có kèm theo
âm thanh. Chúng ta gọi thuộc tính này là tính chất hiện hình trên màn ảnh
của truyền hình. Nhờ khả năng hiện hình trên màn ảnh, hình ảnh truyền hình
được cảm thụ trực tiếp bằng cảm giác, vì vậy tiếp cận được số công chúng
rộng rãi nhất” [15, tr.43].
Hai tác giả người Pháp Brigitte Besse Didier Desormeau trong cuốn
Phóng sự truyền hình quan niệm về truyền hình như sau: “Truyền hình đó là
hình ảnh, trước hết là hình ảnh. Đó là thế mạnh của nó và cũng là cái thu hút
những lời phê phán tệ hại nhất (phê phán nó hời hợt). Thế nhưng nếu không
có hình ảnh, truyền hình liệu sẽ trở thành một cái gì khác, không còn là
truyền hình nữa. Làm thông tin ở truyền hình là cho xem. Truyền hình là lời

nói: Truyền hình, đó cũng là lời nói, những từ ngữ, một nội dung. Làm thông

18


tin trên truyền hình cũng là nói. Và nói tức là mô tả bằng cách trả lời những
câu hỏi: Ai? Khi nào? Ở đâu? Cái gì? Tại sao?” [7, tr.67 - 68].
Theo Điều 3, Luật Báo chí, được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 12 năm
1989 có giải thích: “báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau)”.
Như vậy, có nhiều quan niệm khác nhau của các tác giả ở trong nước
và trên thế giới về truyền hình, có thể hiểu: Truyền hình là phương tiện truyền
thông đại chúng chuyển tải thông tin về các sự kiện, vấn đề, hiện tượng đang
diễn ra trong hiện thực khách quan bằng hình ảnh và âm thanh sống động nhờ
phương tiện truyền thông truyền hình.
Ở Việt Nam, vào ngày 7/9/1970, chương trình truyền hình đầu tiên
được phát sóng, trở thành dấu mốc kỷ niệm ngày truyền thống ngành truyền
hình Việt Nam. Qua hơn 45 năm, truyền hình Việt Nam đã trưởng thành và
nhanh chóng phát triển với tiến bộ vượt bậc. Theo số liệu thống kê của Bộ
Thông tin và Truyền thông tại Hội nghị cán bộ báo chí toàn quốc tổng kết
công tác năm 2015 và triển khai nhiệm vụ năm 2016, hiện cả nước 66 đài
phát thanh, truyền hình (Trong đó có: 02 đài Trung ương, 64 đài địa phương
(riêng TP. Hồ Chí Minh có 02 đài: Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh và Đài
Tiếng nói nhân dân TP. Hồ Chí Minh). Với số lượng như vậy, cơ bản đã đáp
ứng nhu cầu người xem truyền hình cho nhân dân. Nội dung các chương trình
truyền hình đang ngày càng có sự đổi mới theo hướng đa dạng, sinh động,
phong phú, hấp dẫn hơn. Các chương trình, bản tin thời sự được làm mới, các
chương trình chuyên đề về nhiều lĩnh vực và được đầu tư chuyên sâu hơn.
Một trong những mục tiêu mà ngành truyền hình Việt Nam đang hướng tới là
việc đầu tư hiện đại hóa về công nghệ, chuyên nghiệp hóa hoạt động sản xuất

chương trình, đa dạng hóa thể loại và loại hình dịch vụ. Năm 2011, Chính phủ

19


đã phê duyệt và triển khai đề án số hóa phát thanh truyền hình Việt Nam đến
năm 2020, nhằm phục vụ nhu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng cao của công
chúng.
Ngay từ khi ra đời, truyền hình đã khẳng định vai trò là loại hình báo
chí hiện đại, thiết yếu trong đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu thông tin đa
dạng, phong phú, sinh động về tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội,... Thông tin về con người, sự kiện, hiện tượng được phản ánh ngay khi
vừa mới diễn ra thậm chí là đang diễn ra. Do vậy truyền hình trở thành một
phương tiện nghe - nhìn phổ biến, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi
nhận thức của con người trước sự kiện, vấn đề.
Mặc dù ra đời muộn so với các loại hình báo chí khác nhưng truyền
hình là một trong những phương tiện truyền thông có nhiều ưu thế: tính thời
sự, sinh động, hấp dẫn lan tỏa... Điều này, giúp việc tuyên truyền phòng,
chống BBPNTE tới công chúng trở nên dễ dàng.
Tính thời sự
Tính thời sự có thể hiểu là những sự việc, sự kiện vừa mới xảy ra, đang
xảy ra và sắp xảy ra. Thông tin mang tính thời sự là đòi hỏi của xã hội và tự
thân báo chí. Nếu không có tính thời sự, báo chí sẽ không thể tồn tại và phát
triển, bởi cơ quan báo chí nào đưa thông tin nhanh thì sẽ thu hút được sự quan
tâm theo dõi của công chúng.
Tính thời sự là điểm chung của báo chí nhưng truyền hình với tư cách
là một phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại có khả năng thông tin
nhanh chóng, kịp thời. Bởi “Với truyền hình, sự kiện được phản ánh ngay lập
tức khi nó vừa diễn ra thậm chí nó đang diễn ra, người xem có thể quan sát
một cách chi tiết, tường tận qua truyền hình trực tiếp và cầu truyền hình. Bên

cạnh đó, truyền hình có khả năng phát sóng liên tục 24/24h trong ngày, luôn
mang đến cho người xem những thông tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn

20


ra, cập nhật những tin tức mới nhất. Đây là ưu thế đặc biệt của truyền hình so
với các loại hình báo chí khác” [36, tr.15].
Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại, truyền hình là loại
hình báo chí cung cấp thông tin nhanh, có độ tin cậy cao thậm chí công chúng
có thể theo dõi trực tiếp hình ảnh và âm thanh sống động khi sự kiện, sự việc
đang diễn ra. Nhờ ưu thế về tính thời sự, khi tuyên truyền phòng, chống tội
phạm trong đó có tội phạm BBPNTE, các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, các thủ đoạn của bọn tội phạm, những vụ việc vừa mới
xảy được thông tin một cách kịp thời, giúp công chúng tiết kiệm thời gian,
tiền bạc và có các biện pháp phòng ngừa kịp thời và hiệu quả.
Tính hấp dẫn, chân thực, cụ thể
Trong các loại hình báo chí (báo in, phát thanh), truyền hình ra đời khá
muộn, nó là sản phẩm của nền văn minh khoa học công nghệ phát triển.
Truyền hình đã thừa hưởng kinh nghiệm và phương pháp tạo hình của điện
ảnh và âm thanh của phát thanh. Nếu như công chúng chỉ có thể tiếp nhận
thông tin bằng thị giác đối với báo in, thính giác đối với phát thanh thì đối với
truyền hình, khán giả tiếp nhận thông tin bằng cả hai giác quan là thính giác
và thị giác. Hơn nữa, hình ảnh trên truyền hình có tính sinh động, hấp dẫn,
xác thực bởi hình ảnh của truyền hình là hình ảnh động, trong khi đó hình ảnh
của báo in là hình ảnh tĩnh.
Khi tuyên truyền về vấn đề phòng, chống BBPNTE qua hình ảnh và âm
thanh của truyền hình khán giả có thể theo dõi cụ thể diễn biến của các vụ
việc, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm BBPNTE, nhìn thấy gương
mặt của tội phạm BBPNTE và nghe thấy lời khai của bọn chúng,...

Để tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, phòng chống các loại tội
phạm trong đó có tội phạm BBPNTE trên truyền hình đạt được hiệu quả cao
đòi hỏi các chương trình cần phải xây dựng các bản tin, chuyên mục,... cập

21


nhật thông tin một cách kịp thời, sáng tạo, sinh động, hấp dẫn về công tác
phòng ngừa, đấu tranh tội phạm để tạo cho người dân có thói quen tìm hiểu
pháp luật, điều chỉnh các hành vi theo pháp luật về phòng chống tội phạm.
Tác động lan tỏa rộng khắp
Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, truyền hình ngày càng
mở rộng phạm vi phủ sóng, phục vụ được nhiều đối tượng người xem ở vùng
sâu vùng xa, có thể truyền tải thông hàng tỉ người xem cùng một lúc. “Tính
quảng bá của truyền hình còn thể hiện ở chỗ một sự kiện xảy ra ở bất kỳ đâu
được đưa lên vệ tinh sẽ truyền đi khắp cả thế giới, được nhiều người biết đến.
Ngày nay ngồi tại phòng nhưng người ta vẫn có thể nắm bắt được sự kiện
diễn ra trên thế giới” [36, tr.16].
Với thế mạnh thông tin một cách nhanh chóng, hấp dẫn, dễ hiểu và lan
tỏa,… truyền hình đang chiếm được thiện cảm của công chúng. Qua các
chương trình truyền hình, công chúng biết thông tin về các vụ việc sai trái, coi
thường pháp luật hoặc không hiểu pháp luật đã dẫn đến những hậu quả khó
lường cho cá nhân, gia đình và xã hội. Từ các vụ việc được thông tin một
cách sống động, dễ hiểu trên truyền hình có tác động mạnh tới nhận thức, tư
tưởng, tình cảm của mỗi người, khiến họ phải tự điều chỉnh hành vi của mình
theo quy định của pháp luật. Hiện nay, khi tội phạm BBPNTE hoạt động với
nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi thì việc tuyên truyền tới người dân ở tất cả
các địa phương nhất là ở vùng sâu, vùng xa là vô cùng cần thiết, giúp phòng
chống những vụ việc đáng tiếc xảy ra.
Tóm lại, truyền hình đóng vai trò vô cùng quan trọng, giúp cung cấp

thông tin một cách nhanh chóng, sinh động, hấp dẫn, lan tỏa rộng khắp tới
công chúng về tất cả các lĩnh vực trong đời sống, xã hội, góp phần cung cấp
thông tin, định hướng dư luận,…

22


×