Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN - Tich hop giao duc ki nang song cho hoc sinh qua truyen cuoi dan gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.57 KB, 26 trang )

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
QUA TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Kỹ năng sống là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông qua giảng dạy
hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề, câu hỏi thường gặp
trong cuộc sống hàng ngày của con người.
Kỹ năng sống là yếu tố cần thiết trong mọi thời đại đặc biệt là trong thời kì hội nhập.
Xuất phát từ nhu cầu đó Bộ Giáo dục và Đào tạo lồng ghép kỹ năng sống vào trong chương
trình học của học sinh.
Trong “ Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009-2020” (Dự thảo lần
thứ 14) nêu rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu
hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo
dục và Đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức, có
bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn
đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc hiệu quả ở môi trưởng toàn cầu hóa, vừa hợp tác vừa
cạnh tranh”. Có thể khẳng định, mục tiêu giáo dục toàn diện không thể đạt được nếu không
giáo dục kỹ năng sống. Hơn nữa, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một
trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”
Có thể nói, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, để thế hệ trẻ đáp ứng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, người giáo viên phải làm sao hướng học
sinh đến cách tiếp cận kĩ năng sống, kĩ năng sống thực chất là: học để biết, học để làm gì,
học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Bởi vì mục tiêu giáo dục hiện nay
không còn là trang bị kiến thức cho học sinh như vấn đề giáo dục những năm trước mà là
cần phải trang bị năng lực cần thi đã đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của người học. Phải chăng vấn đề tích hợp kĩ năng sống vào giảng dạy bộ
môn Ngữ Văn cũng nhằm mục đích là tăng cường kĩ năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ



năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh.
Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ
hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản
văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp học sinh có được những hiểu biết
về xã hội, văn hoá, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con người.
Tại nhiều nước Tây phương, thanh thiếu niên đã được học những kỹ năng sống về
những tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống, cách đối diện và đương đầu với những khó
khăn, và cách vượt qua những khó khăn đó cũng như cách tránh những mâu thuẫn, xung
đột, bạo lực giữa người và người. Tại Hàn Quốc, học sinh tiểu học được học cách đối phó
thích ứng với các tai nạn như cháy, động đất, thiên tai... tại Trung tâm điều hành tình trạng
khẩn cấp Seoul.
Tại Việt Nam, kỹ năng sống đang được quan tâm, tuy nhiên trong nhà trường chủ yếu
học sinh chỉ được dạy kỹ năng học tập và chính trị, còn việc giáo dục kỹ năng sống chưa
được quan tâm nhiều. Theo chuyên viên tâm lý Huỳnh Văn Sơn, cố vấn Trung tâm chăm
sóc tinh thần Ý tưởng Việt: "hiện nay, thuật ngữ kỹ năng sống được sử dụng khá phổ biến
nhưng có phần bị "lạm dụng" khi chính những người huấn luyện hay tổ chức và các bậc cha
mẹ cũng chưa thật hiểu gì về nó". Theo Vụ trưởng Vụ Công tác Học sinh Sinh viên (Bộ
Giáo Dục và Đào tạo) Phùng Khắc Bình, trong tương lai và về lâu dài cần xây dựng chương
trình môn học giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 đến lớp 12.
"Thành công của một người được quyết định bởi 25% trình độ chuyên môn, bằng
cấp; 75% còn lại là kỹ năng mềm" (ông Phạm Đình Nguyên, thị trưởng người Việt đầu tiên
ở Mỹ khẳng định trong buổi giao lưu mới đây cùng hàng trăm bạn trẻ ở TP HCM).
Trong không khí trò chuyện cởi mở, ông Nguyên bày tỏ nỗi lo trước thực trạng nhiều
sinh viên Việt Nam mới ra trường bị nhà tuyển dụng từ chối không phải do năng lực chuyên
môn yếu kém mà chỉ vì thiếu kỹ năng mềm. Một số công chức đang làm việc tại các cơ
quan hành chính sự nghiệp cũng đánh mất cơ hội thăng tiến vì kém ngoại ngữ, khả năng



giao tiếp. Ngay cả các sếp cũng phải tạm gác công tác quản lý để đi học kỹ năng mềm, đặc
biệt là tiếng Anh tại chức...
Một khảo sát trên 350 doanh nghiệp của trang JobStreet, Cổng thông tin tuyển dụng
hàng đầu khu vực châu Á Thái Bình Dương, ghi nhận: Chỉ 7,07% sinh viên được đánh giá
tiếng Anh tốt, 52,19% khá, 40% còn lại chỉ thành thạo đọc và viết chứ chưa thể giao tiếp.
Sau các kỳ thực tập, đa số doanh nghiệp đều nhận xét sinh viên còn thiếu các kỹ năng giao
tiếp, quản lý thời gian, làm việc nhóm…
Một nghiên cứu khác cho thấy thành công của một người được quyết định bởi 25%
trình độ chuyên môn, bằng cấp, 75% còn lại là những kỹ năng mềm mà họ được trang bị.
Tuy nhiên đa phần bạn trẻ Việt Nam chưa ý thức được điều này nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội
tỏa sáng. Có sinh viên học tốt các môn trong trường đại học nhưng khi làm việc lại gặp rất
nhiều khó khăn. Trong hàng trăm bạn, chỉ có một số ít đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển
dụng.
Thông thường, để được tuyển vào một vị trí nào đó, điều kiện đầu tiên là ứng viên
phải có kỹ năng cứng, tức là kiến thức chuyên môn. Ví dụ, một kế toán trưởng phải thành
thạo việc kiểm tra chứng từ, báo cáo thuế, quyết toán chi phí. Một chuyên viên công nghệ
thông tin phải nắm rõ cách vận hành hệ thống mạng, hệ điều hành, bảo trì. Các kỹ năng này
có thể kiểm tra tại chỗ hoặc qua bằng cấp.
Song song đó, thái độ đối với công việc được coi là một trong những yếu tố quan
trọng để nhà tuyển dụng quyết định có chọn ứng viên hay không. Thái độ đó bao gồm sự
sẵn sàng đối với công việc, sẵn sàng học hỏi, ý chí cầu tiến, không ngại khó
khăn. Trong quá trình làm việc, ứng viên sẽ được nhà tuyển dụng tái đánh giá chất
lượng qua kỹ năng ngoại giao, ngoại ngữ, thiết lập quan hệ xã hội, đàm phán xuyên văn
hóa. Thực tế, những kỹ năng mềm này đóng vai trò rất quan trọng, quyết định thành công
bền vững của một cá nhân bên cạnh kiến thức chuyên môn, đặc biệt đối với những người
muốn tự mình làm chủ doanh nghiệp.
Kỹ năng mềm bao gồm khả năng giao tiếp, ngoại ngữ, làm việc nhóm, quản lý thời
gian, vượt qua khủng hoảng, khả năng lãnh đạo, sáng tạo, đổi mới, hoạch định chiếc lược.
Các trường đại học trên thế giới rất chú trọng việc đào tạo kỹ năng này, song ở Việt Nam đa
phần chỉ dừng lại ở những buổi học kỹ năng ngoại khóa "cưỡi ngựa xem hoa". Từ đó dẫn

đến tình trạng sinh viên yếu hoặc thiếu các kỹ năng mềm cần thiết khi ra trường. Ngay cả


với các cán bộ đoàn hội, tình trạng thiếu kỹ năng mềm cũng thể hiện rõ trong ứng xử hay
thuyết trình trước đám đông nên hiệu quả công việc chưa cao.
Trong quá trình tìm hiểu về thực trạng học tập và lao động của giới trẻ Việt Nam, thị
trưởng Phạm Đình Nguyên từng chứng kiến nhiều trường hợp sinh viên tốt nghiệp loại giỏi
nhưng không thể xin vào làm việc trong một công ty nước ngoài chỉ vì thiếu tiếng Anh. Một
số bạn khác đã được nhận vào làm nhưng chỉ ở vị trí "nhân viên quèn" với mức lương tương
đương lao động phổ thông...
Đặc biệt năm 2015 Việt Nam sẽ gia nhập cộng đồng Kinh tế ASEAN, chúng ta sẽ
chứng kiến việc mở rộng thị trường và nguồn vốn, dịch chuyển lao động tự do giữa các
nước. Cơ hội đó có thực sự dành cho giới trẻ Việt Nam khi các bạn hoàn toàn bị động và
ngơ ngác trước những diễn biến hội nhập sôi động ở các nước láng giềng? Khi đó nguy cơ
lao động nước ngoài tràn vào Việt Nam là hiển nhiên.
Với tính chất là một môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp học sinh có năng lực ngôn
ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người. Với tính chất là môn
học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc
cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách.
Truyện cười dân gian không chỉ có giá trị là những bài học răn dạy quý báu, mà còn
là cả một kho kĩ năng sống nếu người giáo viên biết cách khai thác. Những vấn đề trên tuy
không khó nhưng để thực hiện được thì đòi hỏi người giáo viên phải có cái tâm nghề
nghiệp, phải thật sự tâm huyết với nghề và hết lòng vì học sinh thân yêu mới có khả năng
giáo dục các em tự tìm tòi, học hỏi, tự vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống.
Đó chính là lí do tôi chọn đề tài “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua truyện cười dân
gian”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài mong giúp các em học sinh trước hết hiểu và thấy được cái hay, cái sâu sắc của
những câu truyện ngụ ngôn đã học, hứng thú với tiết học về truyện ngụ ngôn nói riêng và
với giờ học Ngữ văn nói chung. Thấy hết được tác dụng của môn Ngữ văn với việc hình

thành nhân cách và phát triển toàn diện của học sinh.
Trong giai đoạn hiện nay, dạy học phải bám sát mục tiêu là phải phát huy tính tích
cực của học sinh, đòi hỏi người học sinh phải tự mình khám phá, chinh phục kiến thức,
không chỉ có thế, qua những kiến thức đó, người giáo viên cần phải hướng các em học sinh


làm sao hình thành được cho các em những kĩ năng cơ bản trong cuộc sống như kĩ năng tư
duy sáng tạo, kĩ năng hợp tác….
Bên cạnh đó giúp học sinh có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm biết ứng xử
linh hoạt, hiệu quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp hằng ngày, có suy nghĩ và hành
động tích cực, có quyết định đúng đắn trong so sánh, có quan hệ tích cực và hợp tác, biết
bảo vệ mình và người khác trước những nguy cơ ảnh hưởng đến sự an toàn và lành mạnh
của cuộc sống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
a. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp nhằm nâng cao kết quả học tập phần truyện cười dân gian cũng như
cách tích hợp giáo dục Kĩ năng sống trong một tiết dạy truyện cười dân gian sao cho đạt
hiệu quả tốt đối với học sinh THPT.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Khả năng tiếp nhận kiến thức trong các văn bản truyện cười dân gian đối với học
sinh THPT.
- Quá trình giảng dạy phần truyện ngụ ngôn, quá trình tích hợp nội dung này với giáo
dục Kĩ năng sống cho học sinh của giáo viên Ngữ văn.
4. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, lý luận
- Nhằm hệ thống hóa, khái quát hóa những vấn đề lý luận có tính liên quan đến khả năng
tiếp nhận các kiến thức Ngữ văn nói chung và phần truyện cười dân gian nói riêng trong
chương trình Ngữ văn THPT bằng cách sưu tầm tài liệu, sách báo, truy cập Internet….
- Nghiên cứu các đề tài, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về vấn đề
giáo dục và giáo dục KNS cho học sinh THCS, phân tích, tổng hợp những tư liệu, tài liệu lý

luận về giáo dục KNS.
4.2. Phương pháp quan sát
Nhằm chính xác hóa và phong phú thêm các số liệu đã thu được bằng cách quan sát sự học
tập của học sinh trong các giờ học truyện ngụ ngôn.
4.3. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động của học sinh


Nhằm hỗ trợ cho phương pháp Anket, thông qua các bài kiểm tra, bài tập về nhà, điểm tổng
kết…thông qua những đề cương, dàn ý của học sinh…từ đó thu thập được thông tin nhằm
hỗ trợ cho phương pháp điều tra.
4.4. Phương pháp đàm thoại
Nhằm chính xác hóa các số liệu điều tra về thực trạng nâng cao hiệu quả việc tích hợp giáo
dục kĩ năng sống qua tiết dạy truyện ngụ ngôn trong Ngữ văn lớp 6.
4.5. Phương pháp Anket
Là phương pháp chủ yếu nhằm giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, qua đó phát hiện và thấy
được thực trạng của học sinh trong việc học truyện ngụ ngôn cũng như rèn luyện kĩ năng sống cho
các em.
4.6. Phương pháp lấy ý kiến chuyện gia
Đây là phương pháp thu nhận thông tin nhằm có hướng tìm hiểu và phân tích sâu hơn về các vấn đề
xoay quanh truyện ngụ ngôn, Kĩ năng sống cho học sinh.
4.7. Phương pháp thống kê toán học.
Thống kê kết quả mà học sinh thu được sau đề tài và so sánh, đối chiếu với trước khi làm đề tài này.
5. Lịch sử vấn đề
Vấn đề tích hợp trong dạy học ngữ văn trung học cơ sở là một trong những nội dung
đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học trong chương trình sách giáo khoa mới mà
chúng ta đã thực hiện trong những năm qua. Tích hợp các nội dung giảng dạy đối với các bộ
môn khoa học xã hội là mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất của nội dung – tư duy –
tư tưởng, luôn tiềm ẩn và rất linh hoạt. Trong chương trình giảng dạy, giáo viên Ngữ văn
không chỉ cần có sự tích hợp nội dung kiến thức, kĩ năng của ba phân môn Văn – Tiếng
Việt – Tập làm văn mà còn phải tích hợp nội dung kiến thức, kĩ năng của các môn học khác

có liên quan, các vấn đề trong thực tiễn đời sống và đặc biệt là các nội dung giáo dục thái độ
tư tưởng cho học sinh một cách linh hoạt, uyển chuyển và tinh tế.
Đứng trước sự phát triển nhanh chóng của nhiều lĩnh vực xã hội thì giáo dục thời đại
mới đã và đang phấn đấu đổi mới về nội dung, chất lượng và phương pháp sao cho đạt được
2 mục tiêu lớn là đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo kỹ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên
bên cạnh những thành tựu đạt đuợc của toàn ngành thì gần đây chúng ta thường thấy thực
trạng trẻ vị thành niên có xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, về phạm tội, về liều lĩnh,
ứng phó không lành mạnh, dễ mắc các tai tệ nạn xã hội, sống ích kỷ, vô tâm, khép mình,


….Đồng thời rèn kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng
tự phục vụ bản thân cũng là nhu cầu cần thiết…Hơn thế nữa đứng trước thềm hội nhập
quốc tế đòi hỏi thế hệ trẻ phải tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một
số kỹ năng: sống khỏe, sống lành mạnh, giỏi lập trình, giỏi tiếng Anh…
Kĩ năng sống, một vấn đề không mới trong giai đoạn hiện nay đối với giáo dục, còn
Truyện cười dân gian cũng là mảng truyện rất đỗi quen thuộc đối với văn học nói chung.
Nhưng để tích hợp kĩ năng sống trong khi dạy truyện ngụ ngôn lại là đề tài chưa được chú
tâm thực hiện, mặc dù khi đọc mỗi câu truyện ngụ ngôn, nếu bình tâm ngẫm nghĩ, chúng ta
sẽ không chỉ thấy được rất nhiều bài học luân lí mà còn biết thêm không ít các kĩ năng sống
cho mình. Tất cả các kĩ năng mà truyện ngụ ngôn có thể đề cập đến đều là các kĩ năng tối
thiểu cho mỗi cá nhân, hơn thế nữa nó còn rất cần thiết cho một con người thời hiện đại.
Trong chương trình Ngữ văn lớp 6 có ba truyện ngụ ngôn, đa phần đều là những câu chuyện
rất quen thuộc với các em học sinh, tuy nhiên việc chỉ ra Kĩ năng sống, hướng dẫn tích hợp,
lồng ghép để giáo dục kĩ năng sống có hiệu quả lại không đơn giản. Vậy tích hợp giáo dục
Kĩ năng sống trong khi dạy phần truyện ngụ ngôn sao cho hiệu quả, đó chính là một trong
những vấn đề mà đề tài này tìm hiểu nghiên cứu.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tích hợp trong giáo dục hiện đại

Vấn đề tích hợp trong dạy học ngữ văn trung học cơ sở là một trong những nội dung
đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học trong chương trình sách giáo khoa mới mà
chúng ta đã thực hiện trong những năm qua. Tích hợp các nội dung giảng dạy đối với các bộ
môn khoa học xã hội là mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất của nội dung – tư duy –
tư tưởng, luôn tiềm ẩn và rất linh hoạt. Trong chương trình giảng dạy, giáo viên Ngữ văn
không chỉ cần có sự tích hợp nội dung kiến thức, kĩ năng của ba phân môn Văn – Tiếng
Việt – Tập làm văn mà còn phải tích hợp nội dung kiến thức, kĩ năng của các môn học khác


có liên quan, các vấn đề trong thực tiễn đời sống và đặc biệt là các nội dung giáo dục thái độ
tư tưởng cho học sinh một cách linh hoạt, uyển chuyển và tinh tế.
Đứng trước sự phát triển nhanh chóng của nhiều lĩnh vực xã hội thì giáo dục thời đại
mới đã và đang phấn đấu đổi mới về nội dung, chất lượng và phương pháp sao cho đạt được
hai mục tiêu lớn là đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo kỹ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên
bên cạnh những thành tựu đạt đuợc của toàn ngành thì gần đây chúng ta thường thấy thực
trạng trẻ vị thành niên có xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, về phạm tội, về liều lĩnh,
ứng phó không lành mạnh, dễ mắc các tai tệ nạn xã hội, sống ích kỷ, vô tâm, khép mình,
….Đồng thời rèn kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng
tự phục vụ bản thân cũng là nhu cầu cần thiết…Hơn thế nữa đứng trước thềm hội nhập
quốc tế đòi hỏi thế hệ trẻ phải tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một
số kỹ năng: sống khỏe, sống lành mạnh, giỏi lập trình, giỏi tiếng Anh…
Kĩ năng sống, một vấn đề không mới trong giai đoạn hiện nay đối với giáo dục, còn
Truyện ngụ ngôn cũng là mảng truyện dân gian rất đỗi quen thuộc đối với văn học nói
chung. Nhưng để tích hợp kĩ năng sống trong khi dạy truyện ngụ ngôn lại là đề tài chưa hề
được thực hiện, mặc dù khi đọc mỗi câu truyện ngụ ngôn, nếu bình tâm ngẫm nghĩ, chúng ta
sẽ không chỉ thấy được rất nhiều bài học luân lí mà còn biết thêm không ít các kĩ năng sống
cho mình. Tất cả các kĩ năng mà truyện ngụ ngôn có thể đề cập đến đều là các kĩ năng tối
thiểu cho mỗi cá nhân, hơn thế nữa nó còn rất cần thiết cho một con người thời hiện đại.
Trong chương trình Ngữ văn THPT có giảng dạy những câu chuyện rất quen thuộc với các
em học sinh, tuy nhiên việc chỉ ra Kĩ năng sống, hướng dẫn tích hợp, lồng ghép để giáo dục

kĩ năng sống có hiệu quả lại không đơn giản. Vậy tích hợp giáo dục Kĩ năng sống trong khi
dạy phần truyện cười dân gian ra sao để đạt hiệu quả, đó chính là vấn đề quan trọng mà đề
tài nghiên cứu.
1.2. Các kĩ năng sống cơ bản
1.2.1. Kĩ năng giao tiếp
- Là kỹ năng làm việc có hiệu quả với một tập thể, cá nhân; ứng xử của mỗi người khi tiếp
xúc với người khác; thái độ cảm thông và ý thức hợp tác của mỗi người; khả năng bày tỏ
suy nghĩ, cảm xúc đối với người khác.
1.2.2. Kỹ năng tự nhận thức bản thân


Là khả năng hiểu về chính bản thân mình: khả năng, sở thích, sở trường, điểm yếu.. ý
thức được mình đang làm gì.
Tác dụng : Giao tiếp , ứng xử phù hợp, hiệu quả với người khác, cảm thông với mọi
người, có quyết định đúng đắn phù hợp với bản thân.
1.2.3. Kỹ năng xác định giá trị:
Giá trị là những gì con người cho là quan trọng (Về vật chất, tinh thần) KN xác định
giá trị là khả năng con người hiểu rõ những giá trị của bản thân mình
Tác dụng : Tôn trọng giá trị của mọi người; có quyết định đúng đắn phù hợp với bản
thân.
1.2.4. Kỹ năng suy nghĩ sáng tạo
Cách thức, phương pháp tự tư duy độc lập để tìm ra giải pháp tối ưu trong các tình
huống cuộc sống.
Cách tạo ra suy nghĩ sáng tạo:
+ Tổng hợp từ tri thức và kinh nghiệm của cuốc sống
+ Dựa trên các qui luật của chuyên ngành và phương pháp tư duy để phân tích.
+ Liên hệ với thực tiễn, điều kiện của mình
+ Chủ động đưa ra giải pháp của mình
+ Trao đổi với người có liên quan để xử lý
Lưu ý: Trước khi hỏi phải suy nghĩ chủ động, kể cả suy nghĩ cách hỏi.

1.2.5. Kỹ năng ra quyết định
Bao gồm 3 bước:
+ Thu thập thông tin càng đầy đủ càng tốt.
+ Đưa ra hệ thống các giải pháp.
+ Chọn giải pháp tối ưu hoặc phù hợp nhất với điều kiện của bản thân.
1.2.6. Kỹ năng làm chủ bản thân
Tuân theo những quy luật chung, cơ bản để tìm ra chỗ dựa vững chắc cho bản thân. Từ
đó có được sự kiên định để làm chủ bản thân.
1.2.7. Kỹ năng kiên định
Tính Kiên định là sự cân bằng, hài hoà giữa hiếu thắng, vị kỷ và phục tùng, phụ
thuộc.kiên định: Thực hiện mong muốn (hoặc từ chối) với sự xem xét khách quan, hài hoà
giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của các bên tham gia, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài.


1.2.8. Kỹ năng đặt mục tiêu
- Mục tiêu được thể hiện bằng ngôn ngữ cụ thể, không chung chung,viển vông, lượng hoá
được kết quả cụ thể để có thể kiểm định được.
- Xác định các bên liên quan (chủ trì, phối hợp trong thực tiễn).
- Xác định thời gian hoàn thành, các mốc thời gian trung gian.
- Có nguồn lực đảm bảo.
1.2.9. Kỹ năng ứng phó với tình huống căng thẳng
Là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như là
sự tất yếu của cuộc sống, hiểu nguyên nhân và ứng phó tích cực khi bị căng thẳng.
1.2.10. Kĩ năng hợp tác
- Kỹ năng hợp tác là kỹ năng cần thiết của mỗi cá nhân, được hình thành trong quá trình
tham gia hoạt động trong một nhóm (có thể từ 2 người trở lên) để cùng nhau hoàn thành
một công việc.
- Mỗi cá nhân đều có mặt mạnh riêng. Sự hợp tác trong nhóm giúp mỗi cá nhân đóng góp
năng lực, sở trường riêng cho lợi ích chung của nhóm, đồng thời học tập và chia sẻ kinh
nghiệm được từ các thành viên khác.

1.2.11. Kĩ năng từ chối
Là nghệ thuật nói không với những điều người khác đề nghị nhưng bản thân mình
không thích, không muốn và không có khả năng thực hiện nhưng lại không làm tổn thương
lớn đến mối quan hệ vốn có.
1.2.12. Kĩ năng thương lượng
* Một số nguyên tắc trong thương lượng
Cần tự tin.
- Nêu câu hỏi nếu có thắc mắc.
- Nên cung cấp thông tin.
- Gợi ra những khoản nhân nhượng có đi có lại.
- Đưa ra những dự kiến của mình.
- Phối hợp tốt tính kiên quyết và tính mềm mỏng, trong mọi hoàn cảnh giữ cho được sáng
suốt, tỉnh táo.
- Biết lắng nghe và hiểu rõ vấn đề.


- Có khả năng đứng ở địa vị bên kia để nhận định sự việc theo quan điểm của họ cũng
như theo quan điểm của mình.
2. Nguyên tắc giáo dục Kĩ năng sống
Nguyên tắc 5 chữ T: Tương tác, trải nghiệm, tiến trình, thay đổi hành vi, thời gian
- Tương tác: KNS không thể được hình thành qua việc nghe giảng & tự đọc tài liệu. Cần tổ
chức cho học sinh tham gia các hoạt động, tương tác với giáo viên và với nhau trong quá
trình giáo dục.
- Trải nghiệm: Người học cần được đặt vào các tình huống để trải nghiệm và thực hành.
- Tiến trình: Giáo dục KNS không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi
phải có cả quá trình:
Nhận thứchình thành thái độ thay đổi hành vi
- Thay đổi hành vi: Mục đích cao nhất của giáo dục KNS là giúp người học thay đổi hành vi
theo hướng tích cực.
- Thời gian: Giáo dục KNS cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt

đối với trẻ em.
3. Phương pháp giáo dục Kĩ năng sống
Hiện nay, đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn cảnh khác nhau: một là các
em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của phụ huynh vì sống trong gia đình ít
con, hoàn cảnh kinh tế ổn định; hai là những em sống trong gia đình với nhiều lo toan cho
cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con cái.
Môi trường hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường cùng mang đến cho các em một thiếu sót
lớn trong từng bước trưởng thành, đó là kĩ năng sống. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh tiểu học qua học tập – sinh hoạt ở trường là điều hết sức cần thiết.
Theo đó, bằng trách nhiệm, bằng kinh nghiệm và vốn sống của mình, giáo viên cần từng
bước một giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua từng bài dạy, thông qua các hoạt
động ở trường, ở lớp.
Giáo dục kỹ năng sống không phải là để nói cho trẻ biết thế nào là đúng thế nào là sai
như ta thường làm. Cũng không phải là rao truyền nhưng lời hay ý đẹp để chúng vào tai này
rồi ra tai kia. Các phương pháp cổ điển như giảng bài, đọc chép sẽ thất bại hoàn toàn vì
chúng chỉ cung cấp thông tin, mà từ thông tin và nhận thức đến thay đổi hành vi thì khoảng
cách còn rất lớn.


Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp
khác nhau. Quyết định phải phát xuất từ trẻ. Vì thế học phải hết sức gần gũi với cuộc sống
hay ngay trong cuộc sống. nội dung phải phát xuất từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ.
Trẻ cần có điều kiện để cọ xát các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực
hành, áp dụng. trẻ phải tham gia chủ động vì có thế trẻ mới thay đổi hành vi.
Do đó nhiều phương pháp được áp dụng để đem lại những điều kiện trên như sinh hoạt
hay thảo luận theo nhóm, theo cặp, động não, sắm vai, phân tích tình huống, tranh luận. trò
chơi, huy động tối đa nghe, nhìn, vận động… trẻ không chỉ thực tập thực hành trong khi học
mà còn làm bài tập ở nhà, đi thực đia tham gia các phong trào, các dự án… ví dụ học về môi
trường, trẻ có thể đi du khảo, tham gia làm sạch đường phố…học về trật tự an toàn giao
thông, trẻ có thể bày những trò chơi về luật đi đường, quan sát tình hình giao thông rồi nhận

xét. Dưới đây là một số phương pháp tiêu biểu:
3.1. Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương pháp có ít để (lôi
ra) một danh sách các thông tin.
- GV nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc
trước nhóm. Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc biệt là những em nhút nhát, trở nên bạo
dạn hơn; các em học được cách trình bày ý kiến của mình biết lắng nghe có phê phán ý kiến
của bạn; từ đó, giúp trẻ dễ hoà nhập vào cộng động nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng
thú trong học tập và sinh hoạt.
3.2. Thảo luận nhóm
Như bản thân tiêu đề của phương pháp đã ngụ ý thực chất của phương pháp này là để học
sinh bàn bạc, trao đổi trong nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp
cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em
có thể chia sẽ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến bài
học đồng thời cũng phát huy được kĩ năng giao tiếp, hợp tác, ra quyết định….
3.3. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “Làm thử” một số cách ứng xử
nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh


suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan
sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này và hơn thế điều quan
trọng nhất là sự thảo luận sau phần diễn ấy. Qua đó học sinh có thể
3.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (hay nghiên cứu các trường hợp điền hình)
Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra một tình huống
“ thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu tình huống có thể
được thực hiện trên video hay một băng cátset mà không phải trên dạng chữ viết. Vì tình
huống này được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nó phải tương đối

phức tạp, với các dạng nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu
chuyện đơn giản. Phương pháp này giúp học sinh rèn kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng ra
quyết định hay hợp tác…
3.5. Phương pháp trò chơi
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện
những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.
Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của thanh thiếu niên
học sinh. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho thanh thiếu niên vui
chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Qua trò chơi, lớp trẻ
không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà còn được hình thành
nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng như là một
phương pháp dạy học quan trọng về kĩ năng sống như kĩ năng hợp tác, kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng tư duy sáng tạo, làm chủ bản thân…
4. Cách tích hợp giáo dục Kĩ năng sống khi dạy truyện cười dân gian
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan tâm nghiên
cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, từ thập niên 90 của
thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp với những mức độ khác nhau mới
thực sự được tập trung nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông. Trước
đó, tinh thần giảng dạy tích hợp chỉ mới được thực hiện ở những mức độ thấp như liên hệ,
phối hợp các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học hay phân môn khác nhau để giải quyết
một vấn đề giảng dạy.
Như vậy, ở nước ta hiện nay, vấn đề cần hay không cần tích hợp trong xây dựng nội
dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn


không đặt ra nữa. Bài toán đang đặt ra trong lĩnh vực lí luận và phương pháp dạy học bộ
môn là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng dạy học tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở
THPT nhằm hình thành và phát triển năng lực cho HS một cách có hiệu quả hơn, góp phần
thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo của bộ môn.
Kỹ năng sống là một trong ba cái đích (kiến thức, kỹ năng, thái độ) mà mỗi môn học cần

đạt được đặc biệt là môn Ngữ văn ở trường THCS. Quan điểm giáo dục phát triển toàn diện
được trình bày trong nhiều văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước. Trong lĩnh vực giáo dục,
điều này khẳng định trong luật giáo dục năm 2005: Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện. Muốn hoàn thánh mục tiêu này, cần thiết phải tích hợp lồng
ghép kĩ năng sống trong các môn học, nhất là với môn Ngữ văn.
4.1. Ý nghĩa của việc giáo dục Kĩ năng sống
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham
hiểu biết, thích tìm tòi khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh
nghiệm sống, sức đề kháng chưa cao nên dễ bị lôi cuốn kích động.
Việc giáo dục tích hợp KNS vào tiết dạy văn là một nhu cầu bức thiết:
- Thứ nhất, trang bị cho học sinh một số KNS để bước vào đời.
- Thứ hai, tiết học có lồng ghép giáo dục KNS bao giờ cũng thân thiện, tích cực.
- Tạo điều kiện cho học sinh thực hành và phát huy tối đa năng lực của bản thân.
4.2. Lưu ý khi tích hợp giáo dục KNS qua tiết Ngữ văn
- Bám sát những mục tiêu giáo dục KNS, đồng thời đảm bảo mạch kiến thức, kĩ năng của
giờ dạy Ngữ văn.
Cần dựa theo chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học mà xác định vấn đề cơ bản, chủ
yếu nhất trong giáo dục KNS phù hợp với kiến thức cơ bản của bài học để giáo dục cho học
sinh. Không biến giờ học Ngữ văn thành giờ ngoại khóa về KNS, cần đi đúng trọng tâm giờ
học.
- Tiếp cận giáo dục KNS theo hai cách: nội dung và phương pháp dạy học, trong đó nhấn
mạnh đến cách tiếp cận phương pháp. Nghĩa là thông qua nội dung và phương pháp dạy học
để giáo dục KNS cho học sinh chứ không phải tích hợp vào nội dung bài dạy. Rèn luyện
KNS cho học sinh thông qua các giờ học bộ môn.
- Giáo dục KNS trong môn học Ngữ văn, theo đặc trưng của môn học, là giáo dục theo con
đường “ Mưa dầm thấm lâu” nhẹ nhàng, tự nhiên, không gượng ép.


- Đưa những nội dung giáo dục tiêu biểu cho các dạng bài học, bên cạnh đó có “độ mở” tạo
điều kiện cho giáo viên có thể phát huy tính linh hoạt trong việc vận dụng các tình huống

giáo dục.
- Phải tăng cường đổi mới phương pháp dạy học; đa dạng hóa các hình thức hoạt động của
học sinh trong tiết học để tạo sự hứng thứ, chủ động, tích cực học tập của các em.
- Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, sưu tầm tư liệu, hình ảnh sinh động trong
các tiết dạy phần văn bản để hiệu quả giảng dạy Ngữ văn được nâng lên.
4.3. Cách tích hợp cụ thể trong giờ dạy truyện cười dân gian
* Có thể tích hợp lồng ghép trong khi giảng bài. Nghĩa là khi giáo viên dạy đến nội dung
nào, có khả năng liên hệ đến kĩ năng sống, giáo viên có thể rút ra kết luận hoặc gợi mở để
học sinh nhận thấy kĩ năng sống đó.
* Kĩ năng sống cũng có thể được tích hợp trong phần Luyện tập, củng cố cuối bài. Sau khi
đã giảng xong nội dung chính của bài, giáo viên có thể gợi mở để học sinh từ đó rút ra các
kĩ năng sống có liên quan.
5. Cơ sở thực tiễn
5.1. Thuận lợi
Trong những năm giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường THPT vấn đề tích hợp kĩ năng
sống vào bộ môn không phải là điều mới mẻ, giáo viên đã và đang đứng lớp cũng đã có
thực hiện nhưng trong giai đoạn trước, bản thân người giáo viên chỉ thực hiện theo cảm
tính, chưa đi sâu vào nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Nhưng trong thời gian
gần đây, xác định được mục tiêu giáo dục cũng như Bộ giáo dục và Đào tạo cũng đã phát
động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nên vấn đề giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh được quan tâm hơn nhiều vì lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang
hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá
song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích
động. Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ
thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt
vào hoàn cảnh phải lựa chon những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức,
những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các
em sẽ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực và lối sống ích kĩ, lai căng, thực dụng, dễ



bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Chính vì vậy vấn đề giáo dục kĩ năng sống và tích hợp
giáo dục Kĩ năng sống vào các môn học trong đó có môn Ngữ Văn rất được quan tâm.
Việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống trong trường THPT được tiến hành thông qua
môn học, thông qua việc dạy học tự chọn, qua hoạt động ngoài giờ lên lớp và hoạt động câu
lạc bộ cũng không còn xa lạ với giáo viên bởi họ đã được làm quen với cách thức tổ chức
này (qua các đợt tập huấn tích hợp một số mặt giáo dục khác của Sở giáo dục, Phòng giáo
dục ). Đây là một trong những điều kiện thuận lợi cho việc đưa hoạt động giáo dục này vào
nhà trường.
Sự phối hợp chặt chẽ giáo dục kĩ năng sống với các hoạt động giáo dục vốn đã được
lồng ghép vào chương trình giáo dục từ nhiều năm nay như giáo dục bảo vệ môi trường,
phòng chống ma tuý, giáo dục pháp luật,… sẽ tạo nhiều cơ hội và điều kiện để triển khai
giáo dục kĩ năng sống;
Nhìn chung hầu hết các giáo viên nói chung và giáo viên Ngữ Văn nói riêng đã bước
đầu làm quen với thuật ngữ “kỹ năng sống”, mặc dù mức độ hiểu biết có khác nhau.
Một số hoạt động giáo dục Kĩ năng sống đã được đa số các trường chú ý thực hiện
trong khuôn khổ và yêu cầu của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực”
do Bộ GD và Ðào tạo phát động.
Giáo dục Kĩ năng sống từ nhà trường cũng như qua các phương tiện thông tin đại
chúng đã thu hút được sự chú ý và hưởng ứng của xã hội, của phụ huynh HS.
Hình thực tổ chức giáo dục Kĩ năng sống đã bước đầu được thực hiện trong một số
môn học, thông qua hoạt động ngoại khoá và sinh hoạt câu lạc bộ với nội dung khá đa dạng.
Văn học là nhân học, từ trước đến nay đây vẫn là một bộ môn thuận lợi để “ thay thái
độ, đổi hành vi” của trẻ một cách dễ nhất thông qua các bài học ý tứ, sâu sắc mà lại rất nhẹ
nhàng.
Lồng ghép giáo dục Kĩ năng sống cho đối tượng học sinh THPT – một lớp đối tượng
đủ nhận thức để rèn luyện các kĩ năng cho bản thân mình là khá phù hợp.
Phần truyện ngụ ngôn, từ trước đến nay vẫn luôn được coi là những bài học luân lí
sâu sắc, nhưng lại khá dễ tiếp thu vì nó ngắn gọn nhưng không kém phần hóm hỉnh, hài
hước. Khi lồng ghép giáo dục Kĩ năng sống trong phần truyện ngụ ngôn, chắc chắn sẽ được
học sinh tiếp nhận một cách hứng thú và không bị gò ép mang tính áp đặt.



Hầu hết các trường THPT đều rất chú ý đến nội dung giáo dục Kĩ năng sống tích hợp
trong các hoạt động ngoại khóa, trong môn Hoạt động ngoài giờ lên lớp, trong tiết sinh hoạt
và đặc biệt là lồng ghép trong khi dạy các môn văn hóa.
5.2. Khó khăn
Vấn đề thời gian cũng là vấn đề quan trọng trong việc lồng ghép kĩ năng sống vào tiết
dạy, một tiết học thường đi rất nhanh phần lí thuyết, đôi khi hết giờ mà học sinh chưa thực
hiện được một kĩ năng nào, ngoài ra không có một tiết dạy kĩ năng riêng cho học sinh, điều
này cũng khó với giáo viên vì nếu quá chú trọng vào giáo dục kĩ năng sống thì lại chậm tiến
độ bài dạy theo Phân phối chương trình, mà dạy cho kịp nội dung bài đôi khi lại rất khó
lồng ghép Kĩ năng sống.
Khi thực hiện nhiệm vụ lồng ghép giáo dục Kĩ năng sống vào các môn học, đặc
biệt với môn Ngữ văn, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn (chưa có tài liệu cho giáo viên và
học sinh, kế hoạch thực hiện, tiêu chí đánh giá,…).
Tổ chức giáo dục kĩ năng sống có những đặc thù riêng khác với các hoạt động
giáo dục khác, nội dung giáo dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông qua một số
hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,...) cho nên phải tính đến cơ sở vật
chất, kinh phí thực hiện, điều này cũng không dễ thực hiện.
Thói quen chú trọng vào kiến thức mang tính lý thuyết của giáo viên sẽ là cản trở
lớn khi triển khai giáo dục kĩ năng sống, loại hình giáo dục nhằm tạo thói quen, thái độ,
hành vi ứng xử phù hợp với các tình huống của cuộc sống.
Ðã có một vài dự án, đề tài nghiên cứu tổ chức tập huấn cho đội ngũ giáo viên
cốt cán, song nhìn chung đại bộ phận giáo viên chưa được tiếp cận với phương thức tiến
hành giáo dục kĩ năng sống một cách đầy đủ và bài bản.
5.3. Kết luận
Trước những yêu cầu hết sức thiết thực, bản thân giáo viên đang trực tiếp giảng dạy
môn Ngữ Văn luôn trăn trở để làm sao từ những câu truyện cười dân gian quen thuộc, các
em học sinh không chỉ thấy được những bài học sâu sắc cho mình mà còn tự rút ra và rèn
luyện được những Kĩ năng sống cho bản thân một cách tốt nhất để các em có thể tự tin thể

hiện mình trước đám đông, biết cách xử lí các tình huống đơn giản hay phức tạp, thể hiện
khả năng tiềm ẩn của mình và phát triển một cách toàn diện trong xã hội năng dộng và hiện
đại ngày nay. Từ những kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá trình thực hiện đề tài, tôi


mong muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp nhằm đóng góp phần nào kinh nghiệm giáo dục cho
con em chúng ta trở thành những con người toàn diện, năng động, sáng tạo hòa nhập cùng
cộng đồng, và có ích cho xã hội.


THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
Tiết 25. Đọc văn
Ngày soạn:
Ngày dạy:
Truyện cười dân gian Việt Nam:
- NHƯNG NÓ PHẢI BẰNG HAI MÀY
- TAM ĐẠI CON GÀ
A. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức: Hiểu được đối tượng, nguyên nhân, ý nghóa của tiếng cười trong từng
truyện.
2. Kĩ năng:
- Thấy được nghệ thuật đặc sắc của truyện cười: Ngắn gọn, tọa được yếu tố bất ngờ
thú vị, những cử chỉ lời nói gây cười.
- Kĩ năng sống: Giao tiếp, nhận thức bản thân, xác định giá trị bản thân, sáng tạo...
3. Thái độ: Phê phán những thói hư tật xấu, định hướng nhân cách sống cao đẹp
B. Phương pháp:
Tổ chức giờ dạy học theo cách kết hợp các phương pháp đọc sáng tạo, gợi tìm kết hợp
với các hình thức trao đổi thảo luận, trả lời câu hỏi.
C. Phương tiện thực hiện:
D. Tiến trình giờ dạy:

- Ổn định tổ chức lớp
- Kiểm tra bài cũ
- Giới thiệu bài mới:
Trong bất cứ thời đại nào cơng bằng, lẽ phải… đều là mơ ước của mỗi con người. Và
trong cuộc sống nếu khơng vươn lên đẩy lùi cái dốt hơn nữa nếu dốt mà cố tình giấu dốt,
khoe khoang thì thật đáng phê phán.
Để thấy được điều đó trong cuộc sống, cha ơng ta đã gửi gắm những lời dặn dạy sâu
sắc, giàu ý nghĩa nhân văn qua hai truyện cười dân gian: Nhưng nó phải bằng hai mày và
Tam đại con gà.
Hoạt động của GV - HS
Nội dung cần đạt
* Hoạt động 1: Tìm hiểu I. Tìm hiểu chung:
chung (5 phút)
1. Vài nét về truyện cười
Tìm hiểu khái qt truyện * Khái niệm: (SGK)
cười.
* Điều kiện tạo ra tiếng cười:
- HS trình bày khái niệm và - Điều kiện khách quan
những kiến thức cơ bản để - Đk chủ quan
định hướng tìm hiểu truyện * Đặc điểm của truyện cười:
cười theo đặc trưng thể loại.
- Phân loại: 2 loại: Truyện khơi hài; truyện trào phúng
- Nghệ thuật: Ngắn gọn, kết cấu chặt chẽ, nhân vật ít,
ngơn ngữ giản dị nhưng tinh tế, sâu sắc.
* Ý nghĩa của truyện cười: giải trí, phê phán, hướng
con người đến những điều tốt đẹp.


* Hoạt động 2: Đọc văn bản
(5 phút)

- Hs đọc văn bản
- Khái qt chủ đề
* Hoạt động 3: Đọc – hiểu
văn bản (25 phút)
- Phương pháp: Hoạt động
nhóm kết hợp kĩ thuật khăn
trải bàn.
- HS đọc văn bản sgk
- Truyện đã dùng các biện
pháp nào để gây cười? Hãy
phân tích từng biện pháp đó?
- Cái cười ở chuyện này là
gì?
- Tìm một số truyện cười
giễu cợt việc xử kiện nơi
công đường? (Diêm Vương
xử kiện, Xin đại vương đình
lại cho một đêm…)
- Tích hợp: Qua câu chuyện
em rút ra được bài học gì cho
bản thân?
+ Bản thân cần giữ bình tĩnh
trong mọi tình huống khơng
nên vì chuyện bé xé ra to.
+ Tránh tiếp tay cho hoạt
động xấu: Hối lộ.
+ Xác định chính xác đúng
sai của vấn đề.
- Hãy phân tích cái láu cá
“vụng chèo khéo chống”

của anh học trò và sự phát
triển mâu thuẫn gây cười
trong truyện?

* Cách phân tích truyện cười: Phân tích kết cấu, hành
vi, ngơn ngữ nhân vật, đặt truyện và nhân vật vào hệ
thống của truyện cười để lấy cái chung mà hiểu cái tiêng
và từ cái riêng để hiểu cái chung.
II. Đọc văn bản.
1. Đọc
2. Giải thích từ khó
3. Chủ đề: Châm biếm đả kích, phê phán những kẻ
đáng cười trong xã hội: Quan lại tham nhũng, thày đồ
dốt.
III. Đọc – hiểu văn bản:
1. Nhưng nó phải bằng hai mày
- Cử chỉ kết hợp với lời nói:
+ “Cải vội xoè năm ngón tay ngẩng mặt nhìn thầy lí
khẽ bẩm: xin xét lại, lẽ phải thuộc về con cơ mà” 
nhắc lại số tiền anh ta đã lót trước.
+ “Thầy lí xoè năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay
mặt”  sự thừa nhận ngầm và phù hợp với điều thầy
“thông báo” với Cải sau đó, ẩn một nghóa khác: “cái
phải” bò “cái trái” úp lên, che mất.
- Hình thức chơi chữ: từ “phải”
+ cái đúng
+ điều bắt buộc, nhất thiết cần có
 Thầy lí lập lờ cả hai nghóa.
 Tiếng cười: sự đồn đại (nổi tiếng xử kiện giỏi) ><
bản chất bên trong của thầy lí (nhận tiền đút lót). Sự

công bằng, lẽ phải không có ý nghóa, lẽ phải thuộc về
kẻ nhiều tiền. Truyện đã cười và quất đòn roi “chết
người” vào việc xử kiện của thầy lí.

2. Tam đại con gà
- Anh học trò dốt nhưng giấu dốt, lại hay khoe chữ 
thói xấu, không dừng ở lời nói mà biến thành hành
động.
- Tiếng cười bật ra nhiều lần:
+ Lần 1: “kê” là gà, thầy bảo “Dủ dỉ là con dù dì” 
thực tế không có loài vật này, không phải là âm tiếng
Hán thiếu kiến thức sách vở và thực tế.
+ Lần 2: “Thầy cũng khôn… đọc khẽ”  thận trọng


trong việc giấu dốt.
+ Lần3: thầy tìm thổ công, xin âm dương, cái dốt lòi
ra ba lần, thầy đắc ý “bệ vệ… dù dì”
+ Lần 4: cái dốt được khuếch đại bằng âm thanh, thói
giấu dốt bò lật tẩy, thầy nhạo cái dốt của thổ công,
gượng gạo: “Tôi vẫn biết… con gà”  cái dốt nọ lồng
- Nêu ý nghóa của toàn bộ vào cái dốt kia.
câu chuyện? Từ đó rút ra bài * Ý nghóa của truyện: Tiếng cười mang ý nghóa phê
học, kĩ năng sống cần thiết phán vừa hóm hỉnh, vừa sâu sắc. Truyện đánh giá các
cho bản thân?
hạng thầy trong xã hội phong kiến suy tàn, trong đó
- Kĩ năng:
có thầy dạy chữ. Hôm nay, truyện vẫn còn có ý nghóa.
+ Xác định chính xác giá trị
bản thân.

+ Bình tĩnh trong mọi tình
huống, tránh hoang mang
giao động.
+ Ra quyết định đúng đắn,
khơng cẩu thả, duy tâm.
- Qua hai câu chuyện, rút ra
một số nét về nghệ thuật
truyện cười dân gian Việt
Nam?

3. Nghệ thuật truyện cười dân gian Việt Nam
- Ngắn gọn, “gói kín, mở nhanh”
- Kết cấu chặt chẽ, tiếng cười thường bật lên ở cuối
truyện.
- Ít nhân vật.
- Ngôn ngữ giản dò nhưng tinh, sắc, đặc biệt là ngôn
ngữ và cử chỉ của nhân vật.
- HS rút ra vấn đề khái quát? III. Tổng kết
Đặt vấn đề:
Muốn dùng tiếng cười để phê phán một hiện tượng,
một con người, người ta phải vượt trên hiện tượng,
con người ấy về trí tuệ và phẩm chất. Vậy, phải làm
thế nào để bật ra tiếng cười, điều này hoàn toàn phụ
thuộc vào nghệ thuật gây cười.
Giải quyết vấn đề:
1. Ngắn gọn:
- Tập trung trí tuệ của người nghe, người đọc.
- Kết cấu truyện diễn ra nhanh và kết thúc tạo được
bất ngờ.
2. Rất ít nhân vật:

- Tập trung được tiếng cười vào đối tượng nhất đònh.
- Không kể về số phận, chân dung, động cơ, hành


động… của nhân vật.
- Nhân vật bộc lộ qua cử chỉ, ngôn ngữ để làm bật lên
tiếng cười.
3. Ngôn ngữ giản dò nhưng tinh, sắc.
Kết thúc vấn đề:
Nghệ thuật truyện cười là phát hiện mâu thuẫn gây
cười. Từ đó mà xem xét kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ,
cử chỉ… của nhân vật làm bật lên tiếng cười.
E. DẶN DÒ – CỦNG CỐ
- Nắm vững nghệ thuật của truyện cười, sưu tầm thêm một số truyện cười khác.
-Tiết sau: Lời tiễn dặn (Trích truyện thơ Tiễn dặn người yêu)
D. RÚT KINH NGHIỆM
KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ
Kết quả khảo sát trước và sau khi áp dụng SKKN như sau:
1. Chất lượng giáo dục Kĩ năng sống
* Kết quả khi chưa áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm:
Lớp

Tổng

Chưa biết

Nhận biết

Hiểu các


Hs

KNS
SL
Tỉ lệ
2
5.4%

được KNS
SL Tỉ lệ
16 43.2%

KNS
KNS
SL
Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
13
32.4% 7
19 %

10A1 38

Vận dụng

* Kết quả sau khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm:
Lớp

Tổng


Chưa biết

Nhận biết

Hiểu các

Hs

KNS
SL
Tỉ lệ
0
0%

được KNS
SL Tỉ lệ
5
13.5%

KNS
KNS
SL
Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
12
32.4% 21 54.1%

10A1 38


Vận dụng

2. Chất lượng bộ mơn
* Kết quả khảo sát khi chưa áp dụng SKKN
Lớp

Tổng
Hs

Giỏi

Khá

Tb

Yếu


SL
Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
SL
10A1 38
5
13.5% 15 37.8%
17
* Kết quả khảo sát sau khi áp dụng SKKN
Lớp

Tổng


hs
10A1 38

Giỏi
SL Tỉ lệ
7
19%

Khá
Tb
SL Tỉ lệ
SL
23
59.4% 8

Tỉ lệ
SL
45.9% 1

Tỉ lệ
21.6%

Yếu
SL
0

Tỉ lệ
2.8%


Tỉ lệ

Đối chiếu kết quả khảo sát khi đã áp dụng đề tài này, người nghiên cứu nhận thấy các
em không chỉ nhận biết được các Kĩ năng cơ bản mà còn hiểu và áp dụng các kĩ năng đã
học vào thực tế. Chất lượng học tập các văn bản truyện cười dân gian nâng lên rõ rệt. Kết
quả điểm khá, giỏi, trung bình phản ánh đúng năng lực của các em. Điều quan trong, các em
say mê và hứng thú với văn chương, nhất là với Văn học dân gian và truyện cười dân gian,
thấy môn Ngữ văn không chỉ là những bài học triết lí, đạo đức mà còn là giúp hình thành
những kĩ năng vô cùng cần thiết cho thực tế cuộc sống của các em.
RÚT KINH NGHIỆM
1. Về phần giáo viên
Qua thực tế giảng dạy và áp dụng sáng kiến này,chúng tôi nhận thấy muốn nâng cao
chất lượng dạy và học phần truyện cười dân gian, nâng cao hiệu quả giáo dục Kĩ năng sống
và tích hợp giáo dục Kĩ năng sống khi dạy truyện cười dân gian cho học sinh THPT, người
giáo viên phải xác định đúng tầm quan trọng của mảng văn học này, nắm được những nội
dung , ý nghĩa cũng như đặc điểm thi pháp của truyện cười dân gian.
Đối với Kĩ năng sống cũng cần nắm chắc các kĩ năng cần thiết và phương pháp dạy kĩ
năng, phương pháp tích hợp, lồng ghép kĩ năng vào bài giảng. Có như vậy mới đạt được kết
quả tốt sau tiết học, các em học sinh sẽ không chỉ nắm được nội dung, nghệ thuật của truyện
mà còn biết rút ra các kĩ năng sống cần thiết, biết áp dụng các kĩ năng này vào thực tế cuộc
sống.
2. Về phần học sinh


Các em học sinh muốn hiểu và học tốt phần truyện cười dân gian nói riêng cũng như
các tác phẩm văn học dân gian nói chung cần có sự say mê, yêu thích văn học dân gian, biết
trân trọng những giá trị của văn học dân gian trong nền văn học nước nhà. Cần tích cực thực
hiện các yêu cầu của giáo viên như: Có thái độ nghiêm túc, hăng hái trong giờ học, chịu khó
tìm thêm các thông tin, tài liệu liên quan đến bài, có thái độ hợp tác khi làm việc nhóm nhất
là trong các hoạt động rút ra kĩ năng sống và thực hành kĩ năng sống, thấy được tác dụng

của kĩ năng sống đối với môn học và bản thân để từ đó không coi các hoạt động kĩ năng
sống chỉ là những hoạt động giải trí, vui vẻ ngoài nội dung bài học.
C. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN BỎ NGỎ VÀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Những vấn đề còn bỏ ngỏ
Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, tôi mới chỉ đưa ra một số khía cạnh của vấn đề
mang tính chất trọng tâm. Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn nói
chung và trong phần truyện cười nói riêng còn rất nhiều vấn đề có thể bàn đến như:
- Đặc trưng nghệ thuật của truyện cười dân gian
- Bàn về hệ thống nhân vật trong truyện cười dân gian.
- Tính triết lí dân gian trong truyện cười dân gian.
- Phân tích tiếng cười trong các truyện cười dân gian.
- Tích hợp giáo dục Kĩ năng sống trong môn Ngữ văn THPT.
- Giáo dục Kĩ năng sống, giáo dục đạo đức học sinh qua môn Ngữ văn bậc THPT
Những vấn đề đó cũng là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng khi tìm hiểu về truyện
cười dân gian cũng như giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh. Vấn đề này cũng góp phần đổi
mới phương pháp giáo dục, nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn.
D. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Để việc giáo dục kĩ năng sống trong các môn học nói chung, trong ngữ văn và phần
truyện cười dân gian nói riêng đạt kết quả cao, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:


- Đây là một nội dung quan trọng trong dạy học hiện đại hiện nay, giáo dục về Kĩ năng sống
rất ít vì vậy đề nghị nhà trường tăng cường thêm nhiều đầu sách về nội dung này giúp giáo
viên có thêm nhiều tài liệu để nghiên cứu phục vụ giảng dạy.
- Các cấp lãnh đạo nên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về phương pháp tích hợp giáo
dục Kĩ năng sống trong các môn học ở bậc THPT một các rộng rãi và thường xuyên hơn.
- Tổ chức dạy thực nghiệm để giáo viên dạy môn Ngữ văn trong toàn tỉnh có thể đóng góp ý
kiến để giờ dạy Ngữ văn có tích hợp giáo dục Kĩ năng sống đạt được hiệu quả đúng như
mong đợi của toàn ngành, đúng với mục tiêu của môn học, bậc học hiện nay.
E. KẾT LUẬN CHUNG

Có lẽ trong nhà trường, không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn Ngữ
văn. Vì đó là môn học vừa hình thành nhân cách, vừa vun đắp tâm hồn cho học sinh. Trong
thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Văn sẽ giữ lại tâm hồn con
người, giữ lại những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hòa
nhịp đập cùng trái tim. Những lời giáo huấn khô khan dù có hay đến đâu, sâu sắc đến đâu
cũng khó được người nghe chấp nhận, những cách để thích ứng, những kĩ năng sống dù có
cần thiết thế nào nếu rập khuôn máy móc cũng khó được tiếp thu, đặc biệt đó là đối tượng
học sinh THPT– vì lúc này các em thích thể hiện cá tính của mình, hay ương nghạnh và
thích chống đối – nếu đó là những lời ra lệnh, thuyết giáo mang tính áp đặt. Chính vì vậy,
hãy để những nội dung giáo dục Kĩ năng sống được lồng ghép tích hợp trong những bài
giảng luân lí, đạo đức của truyện ngụ ngôn dân gian tự nhiên đi vào lòng các em, tự nhiên
biến thành hành vi đạo đức tích cực của các em một cách nhẹ nhàng, khéo léo và tinh tế.
Điều đó thật khó, nhưng tôi thiết nghĩ neus chúng ta cùng sẵn sàng chia sẻ những kinh
nghiệm, giải pháp của bản thân với đồng nghiệp hẳn chúng ta sẽ tìm được con đường đi đến
trái tim, khối óc học sinh ngắn nhất và hiệu quả nhất, giúp các em thay thái độ, đổi hành vi
nhanh nhất. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thực sự hoàn thành nhiệm vụ cao quý của mình:
Gieo hạt giống tâm hồn trong lớp lớp thế hệ trẻ của đất nước hôm nay và ngày mai.
Với lòng say mê, yêu thích văn học nói chung và phần Văn học dân gian đặc biệt là
truyện cười dân gian nói riêng, với trăn trở trước thực trạng học sinh và giới trẻ hiện nay


×