Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.81 KB, 15 trang )

Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước (nói chung) chỉ có thể thiết lập
được một cách đích thực và tồn tại vững chắc trong hoạt động thực tiễn của bộ
máy công quyền ở mức cao nhất khi nó được đảm bảo một cách đồng bộ bằng
sự hiện diện của 6 yếu tố - đòi hỏi cơ bản sau đây: Cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước (nói chung) và chế định kiểm tra Hiến pháp (nói riêng) bằng nhánh
quyền tư pháp hoặc nhánh quyền kiểm tra Hiến pháp độc lập thứ tư; Sự độc lập
đích thực và sự kiểm tra của nhánh QTP đối với các nhánh quyền lực khác trong
Nhà nước; Sự giải thích Hiến pháp và pháp luật mang tính chung thẩm của
TAHP; Sự giám sát của Tòa án đối với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
trong lĩnh vực TPHS và; Sự phối hợp và chế ước lẫn nhau một cách đồng bộ,
hữu hiệu và với thiện chí hợp tác giữa các cơ quan thuộc tất cả các nhánh quyền
lực trong NNPQ. Toàn bộ các lợi ích xã hội nêu trên sẽ góp phần đắc lực và
đáng kể cho thành công của công cuộc CCTP nói riêng và thắng lợi cuối cùng
của sự nghiệp xây dựng một NNPQ đích thực ở Việt Nam.
Hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước
(quyền tư pháp), do vậy, hoạt động này cũng phải chịu sự kiểm tra, giám sát của
nhiều cơ chế khác nhau (trong đó có cơ chế tự kiểm tra từ bên trong của mỗi hệ
thống và cơ chế giám sát từ bên ngoài hệ thống). "Một số vấn đề về tư pháp
hình sự Việt Nam" đi sâu vào việc đánh giá, nhìn nhận về hoạt động tư pháp
hình sự Việt Nam dưới nhiều góc độ với mong muốn có được một cách nhìn
nhận tổng quát nhất về lĩnh vực này.
Với kiến thức có hạn, bài làm sẽ còn rất nhiều hạn chế, rất mong nhận
được sự cảm thông, đóng góp của thầy giáo! Em xin cảm ơn.

Page 1


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam



GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI NIỆM
1. Sử dụng thuật ngữ quyền tư pháp trong ngôn ngữ phổ thông
Trong thuật ngữ quyền tư pháp, trọng tâm được đặt vào “tư pháp” nên
quyền tư pháp có lẽ cần được giải thích từ khái niệm tư pháp.
Về khái niệm tư pháp, trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn đời sống
chính trị-pháp luật ở Việt Nam đang tồn tại khá nhiều cách hiểu khác nhau.
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, thuật ngữ tư pháp được giải thích ở nghĩa
rất rộng. Theo đó, tư pháp là “khái niệm dùng để chỉ các cơ quan tòa án, việc xét
xử các hành vi vi phạm pháp luật và các vụ kiện tụng trong nhân dân, hoạt động
của các cơ quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án”. Khái niệm tư
pháp như vậy chưa thật chuẩn xác, bởi nó vừa chỉ chủ thể (các cơ quan tòa án),
vừa chỉ hoạt động xét xử của cơ quan đó và hoạt động của các cơ quan khác như
cơ quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án.
Hẹp hơn nhận thức trên, thuật ngữ “tư pháp” trong cuốn Từ điển Luật học
được định nghĩa là công việc tổ chức giữ gìn, bảo vệ pháp luật.
Trong ngôn ngữ hàng ngày, quyền tư pháp thường được sử dụng đồng
nghĩa với quyền lực tư pháp. Thuật ngữ quyền tư pháp được dùng như là cách
nói ngắn gọn của quyền lực tư pháp.
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, quyền tư pháp được giải nghĩa là
một trong ba bộ phận của quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp. Quyền tư pháp thuộc về tòa án. Ở Việt Nam, quyền tư pháp
thuộc tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân.
2. Quyền tư pháp trong khoa học pháp lý
Trong khoa học pháp lý, tư pháp cũng được hiểu và trình bày khác nhau.
Có người hiểu tư pháp theo nghĩa hẹp chỉ là việc xét xử về các hành vi phạm
pháp và các vụ kiện tung tranh chấp của các chủ thể và công dân theo pháp luật.
Cùng với nhận thức đó, cơ quan tư pháp được xem là các cơ quan có thẩm
quyền xét xử, tức là tòa án. Trong khi đó có ý kiến khác lại cho rằng, quan niệm

như vậy về tư pháp là hẹp, chưa đầy đủ và cần phải mở rộng.
Tương tự như trong nhận thức về tư pháp, quyền tư pháp cũng được hiểu
và trình bày rất khác nhau. Về định nghĩa quyền tư pháp, tựu chung lại ở nước ta
có các cách tiếp cận và nhóm quan điểm, nhận thức sau đây:
2.1. Nhóm quan điểm tiếp cận quyền tư pháp từ phương diện chủ thể
thực thi quyền tư pháp
Ở cách tiếp cận này, có năm mức độ đề cập khác nhau về quyền tư pháp.

Page 2


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
Ở cấp độ thứ nhất (quyền tư pháp theo nghĩa rộng nhất), có nhà khoa học
cho rằng, quyền tư pháp được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan tư pháp và cơ
quan tư pháp được hiểu rất rộng, ngoài cơ quan xét xử (tòa án nhân dân), cơ
quan điều tra, cơ quan công tố và cơ quan hay tổ chức hỗ trợ tư pháp còn có Bộ
Tư pháp, Thanh tra nhà nước v.v…
Ở cấp độ thứ hai (quyền tư pháp nghĩa rộng), quyền tư pháp được hiểu là
hoạt động xét xử của tòa án và những hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc
các tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án, nhằm bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Trong quan niệm này, quyền
tư pháp được thực hiện không chỉ bởi cơ quan xét xử (tòa án) mà cả cơ quan, tổ
chức khác. Các cơ quan, tổ chức này có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ, bảo
đảm cho phán quyết của tòa án được chính xác, khách quan. Phù hợp với nhận
thức như vậy, cơ quan tư pháp cũng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm: Tòa án
nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức
trợ giúp tư pháp như: luật sư, công chứng, giám định, tư vấn pháp luật … Tuy
nhiên, trong định nghĩa về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở trên không thấy
nói đến hoạt động và cơ quan thi hành án.

Từ hai cấp độ quan niệm nói trên về quyền tư pháp, chúng ta có thể thấy:
- Quyền tư pháp theo cách hiểu trên được thực hiện không chỉ thông qua
hoạt động xét xử mà cả các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến hoạt động
xét xử hoặc phục vụ cho hoạt động xét xử như hoạt động điều tra, truy tố, bổ trợ
tư pháp. Trong các hoạt động trên của quyền tư pháp, quyền xét xử đóng vai trò
trung tâm.
- Nhận thức về quyền tư pháp như trên rộng về phương diện chủ thể,
nhưng hẹp về phương diện chức năng. Trong nhận thức đó mới chỉ nói tới chức
năng và thẩm quyền xét xử của tòa án, chưa thừa nhận thẩm quyền nhiều mặt
của cơ quan này. Ở nhiều quốc gia, ngoài hoạt động xét xử, tòa án còn thực hiện
nhiều hoạt động khác như kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cử của các
quyết định và hoạt động của các cơ quan nhà nước và của những người có chức
vụ, quyền hạn; giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật…
- Nhận thức về quyền tư pháp theo phương diện chủ thể thực thi quyền tư
pháp dựa trên và phù hợp với tư tưởng của các nhà kinh điển Macxit về phân
công thực hiện quyền lực nhà nước. Nhưng nếu xếp các cơ quan điều tra, viện
kiểm sát nhân dân, Bộ Tư pháp và thanh tra vào cơ quan tư pháp thì sẽ không
phân biệt được rõ ràng chức năng hành pháp và chức năng tư pháp. Các cơ quan
điều tra, viện kiểm sát nhân dân, Bộ Tư pháp, thanh tra về bản chất là cơ quan
hành pháp.
- Trong quan niệm nói trên về quyền tư pháp, không chỉ các cơ quan nhà
nước mà cả các tổ chức không phải cơ quan nhà nước, chẳng hạn như các tổ
chức bổ trợ tư pháp hoạt động theo pháp luật, cũng tham gia vào việc thực hiện

Page 3


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
quyền tư pháp. Nếu thế thì quyền tư pháp không còn được hiểu như là một loại
quyền lực nguyên nghĩa trong quyền lực nhà nước, bởi trong quan niệm đang

được đề cập ở đây có sự xã hội hóa trong thực hiện quyền lực nhà nước.
- Trong nhận thức nói trên về quyền tư pháp, mục tiêu và mục đích hoạt
động của chủ thể được xem như là tiêu chí chủ yếu để phân nhóm cơ quan tư
pháp. Theo đó, các cơ quan, tổ chức nào thông qua hoạt động của nó trực tiếp
hoặc gián tiếp phục vụ cho nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của
nhà nước và xã hội được xem là cơ quan tư pháp.
Ở cấp độ thứ ba, (quyền tư pháp nghĩa chung), những người đại diện coi
quyền tư pháp là tập hợp những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện
trong tố tụng tư pháp, liên quan trực tiếp đến việc giải quyết các vụ án, các tranh
chấp pháp luật và hướng tới mục đích giải quyết các vụ án, tranh chấp một cách
đúng đắn, khách quan. Phù hợp với quan niệm này, hoạt động tư pháp bao gồm
hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, hoạt động công tố của viện kiểm sát và
hoạt động xét xử của tòa án. Tuy các cơ quan bổ trợ tư pháp như cơ quan công
chứng, giám định, bào chữa v.v… tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp
hoặc giải quyết vụ án, nhưng hoạt động của các cơ quan này không mang tính tư
pháp mà chỉ góp phần giúp cho việc giải quyết vụ án, giải quyết các tranh chấp
pháp luật được đúng đắn, khách quan khi có yêu cầu từ phía cơ quan tiến hành
tố tụng hoặc từ phía người tham gia tố tụng.
Cũng theo hướng không coi bổ trợ tư pháp thuộc phạm vi của quyền tư
pháp, nhưng mở rộng hơn đối với hoạt động thi hành án, PGS.TS. Nguyễn Tất
Viễn định nghĩa quyền tư pháp là quyền lực nhà nước trao cho các cơ quan tư
pháp để tiến hành các hoạt động: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
nhằm duy trì và bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp
chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân.
Trong nhận thức trên, quyền tư pháp được xác định là một loại quyền lực
nhà nước. Do vậy việc tổ chức thực thi loại quyền lực này phải được thực hiện
bởi những cơ quan nhà nước. Trong thực hiện quyền tư pháp là các cơ quan
được giao thẩm quyền xác định tính đúng pháp luật của một sự kiện pháp lý xảy
ra. Quyền tư pháp luôn phải gắn và được thể hiện thông qua việc giải quyết vụ

án, giải quyết các tranh chấp pháp luật. Quá trình thực thi quyền tư pháp là quá
trình tìm kiếm và xác định xem sự kiện xảy ra có đúng pháp luật hay không. Khi
phát hiện được hành vi không đúng pháp luật thì xác định trách nhiệm pháp lý
áp dụng với chủ thể vi phạm
Tòa án được coi và trở thành biểu tượng cho người dân vào công lý của
nhà nước. Xét xử là khâu trung tâm của quá trình thực thi quyền tư pháp. Cùng
với đó, tòa án là cơ quan đại diện trung tâm và đầy đủ nhất của quyền tư pháp.
Không có cơ quan nào trong hệ thống quyền lực nhà nước có thể đảm nhiệm đầy
đủ nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và khôi phục các quyền đã bị xâm phạm như tòa

Page 4


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
án. Xét xử là khâu trung tâm của quyền tư pháp bởi lẽ, dù áp dụng mô hình tố
tụng là thẩm vấn hay tranh tụng thì đều thừa nhận nguyên tắc chỉ có các chứng
cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa mới có giá trị chứng minh và cũng chỉ
thông qua việc xét xử tại phiên tòa, tòa án mới ra phán quyết kết luận về bản
chất pháp lý của vụ việc là đúng hay sai, là tội phạm hay không phải tội phạm,
quyết định các biện pháp chế tài áp dụng. Song, xuất phát từ nguyên tắc, từ yêu
cầu đảm bảo tính khách quan, bảo đảm sự độc lập của tòa án nên dù là tư pháp
hình sự hay tư pháp dân sự, tòa án cũng không thể tự mình làm phát sinh chức
năng tố tụng của mình-chức năng xét xử. Để chức năng xét xử của tòa án vận
hành được và thủ tục tố tụng tư pháp tại tòa án được tiến hành thì phải có các
hoạt động tố tụng tư pháp được tiến hành trước đó (đó là hoạt động điều tra của
cơ quan điều tra,hoạt động truy tố của viện kiếm sát). Trong các vụ án hình sự,
các hoạt động điều tra, truy tố là tiền đề dẫn đến tố tụng tòa án. Không có các
hoạt động điều tra, hoạt động truy tố thì tố tụng tòa án đối với các vụ án hình sự
không được mở ra.
Tuy nhiên, trong quan niệm về quyền tư pháp theo nghĩa ở trên có vấn đề

cần trao đổi là, sự tham gia của cơ quan điều tra và cơ quan công tố vào việc giải
quyết vụ án chỉ cần thiết đối với việc giải quyết vụ án hình sự. Trong các vụ án
phi hình sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự nên cơ quan điều tra và cơ
quan công tố dường như không có vai trò.
Ở cấp độ thứ tư (quyền tư pháp theo nghĩa hẹp), quyền tư pháp được giới
hạn trong hoạt động của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân.
Ở cấp độ thứ năm (quyền tư pháp theo nghĩa hẹp nhất). Ở nghĩa hẹp nhất,
một số nhà khoa học hiểu tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được
thực hiện thông qua hoạt động xét xử. Những người hiểu quyền tư pháp theo
nghĩa hẹp nhất lập luận rằng, quyền tư pháp là lĩnh vực quyền lực nhà nước
được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp
pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các
quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật. Với cách hiểu này, chủ thể thực hiện
quyền tư pháp chỉ là tòa án và hoạt động tư pháp chỉ là hoạt động xét xử. Nói
đến tư pháp là nói đến hoạt động xét xử và được thực hiện chỉ bởi tòa án. Trong
không ít trường hợp, người ta còn hiểu quyền tư pháp là xét xử và ngược lại.
GS.TS. Võ Khánh Vinh định nghĩa, quyền tư pháp là khả năng và năng lực riêng
có của các cơ quan tòa án chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước thực hiện
để tác động đến hành vi của con người, đến các quá trình xã hội. Nhận thức như
vậy về quyền tư pháp và giới hạn của nó trong hoạt động xét xử của tòa án gần
với quan niệm phổ biến về quyền tư pháp ở nhiều nước phương Tây.
2.2. Nhóm quan điểm tiếp cận quyền tư pháp từ phương diện chức
năng và giới hạn quyền tư pháp chỉ trong hoạt động của tòa án
Một số nhà khoa học trong lĩnh vực tư pháp hiểu quyền tư pháp là một
trong những phạm vi, lĩnh vực của quyền lực nhà nước, được thực hiện chỉ bởi

Page 5


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam

một cơ quan là tòa án, nhưng có mức độ nhận thức khác nhau về thẩm quyền
của cơ quan này.
Ở cấp độ thứ nhất: Có người xem quyền tư pháp như một nhánh quyền
lực độc lập tương đối so với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Trong nhóm
quan điểm này cho thấy, nhận thức về quyền tư pháp có những hạt nhân của lý
thuyết phân quyền. Theo đó, quyền tư pháp được xem như là một nhánh quyền
độc lập với hai nhánh quyền lực còn lại (quyền lập pháp và quyền hành pháp) và
độc lập với chính trị. Đồng thời, quyền tư pháp kiểm soát và giới hạn hai nhánh
quyền lực lập pháp và hành pháp trên cơ sở hiến pháp và pháp luật. Ở đây quyền
lực tư pháp phải được xem như biểu tượng của công lý. Để đảm bảo yêu cầu
này, cần thiết lập quyền giám sát tư pháp đối với nhánh lập pháp và hành pháp.
Trong quan niệm này tòa án có thẩm quyền giải quyết tất cả các loại tranh chấp,
chứ không chỉ giới hạn trong trong thẩm quyền như quy định trong Bộ Luật Tố
tụng Dân sự.
Cũng trong hướng thừa nhận thẩm quyền rộng của tòa án, GS.TS. Võ
Khánh Vinh cho rằng, mặc dù về nội dung quyền tư pháp gần giống với xét xử,
nhưng quyền tư pháp không thể đồng nhất với xét xử và không nên quy quyền
tư pháp về một loại hoạt động xét xử nào đó của tòa án. Xét xử là thẩm quyền
riêng của tòa án, nhưng không phải là thẩm quyền duy nhất của tòa án. Ngoài
xét xử, tòa án còn có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của
các quyết định và hoạt động của các cơ quan nhà nước và của những người có
chức vụ, quyền hạn; bảo đảm việc thi hành và chấp hành các bản án, các quyết
định khác; giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hiện hành về những vấn đề
về thực tiễn xét xử; tham gia vào quá trình hình thành đội ngũ thẩm phán. Các
thẩm quyền nói trên không thuộc phạm trù xét xử hoặc là các yếu tố bổ trợ của
thẩm quyền xét xử.
Ở cấp độ thứ hai: Khác với quan niệm nói trên, nhiều nhà khoa học giới
hạn quyền tư pháp chỉ trong và thông qua hoạt động xét xử của tòa án. Quyền tư
pháp do các tòa án thực hiện. Nói đến quyền tư pháp là liên tưởng đến hoạt động
hay quyền xét xử của tòa án. Quan niệm rộng về các cơ quan tư pháp và hoạt

động tư pháp sẽ dẫn đến sự thiếu chuẩn xác trong việc đặt ra yêu cầu và nhiệm
vụ đối với việc thực hiện các chức năng trong quá trình tố tụng cũng như bảo
đảm vị trí pháp lý đầy đủ cho các cơ quan khác nhau.
Khái quát các nhận thức nêu trên về quyền tư pháp để thấy rằng, ở nước ta
cho đến nay không có một khái niệm hay định nghĩa thống nhất về quyền tư
pháp. Sự khác nhau trong nhận thức về quyền tư pháp là do sự khác nhau trong
góc độ và mức độ tiếp cận nghiên cứu về quyền này. Có ý kiến cho rằng, một
trong những nguyên nhân của việc chưa quan tâm nghiên cứu một cách đúng
mức lý luận về quyền tư pháp và cùng với đó là chưa có nhận thức đầy đủ về
quyền tư pháp là do trong hệ thống pháp luật của chúng ta chưa có các quy định
mang tính hiến pháp thừa nhận hoặc coi quyền tư pháp như là một loại quyền tự
chủ, độc lập của quyền lực nhà nước.

Page 6


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
Theo người viết, trong nghiên cứu và đề cập về quyền tư pháp cần xem
quyền tư pháp là một bộ phận, một nội dung của quyền lực nhà nước và đặt nó
trong phạm vi và phạm trù quyền lực nhà nước. Lý thuyết về quyền tư pháp phải
được xây dựng trên nền tảng lý luận về quyền lực nhà nước, về tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là thống nhất và gắn với chủ
quyền quốc gia. Dó đó, việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp không thể thoát
ly và phá vỡ sự thống nhất này của quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước được cấu thành và tổ chức theo ba phương diện và ba
chức năng: đặt ra thể chế (xây dựng pháp luật để cai trị hay lập pháp), tổ chức
thực hiện pháp luật đó (hành pháp) và duy trì, bảo vệ trật tự pháp luật đó (tư
pháp). Pháp luật là hình thức phản ánh và ghi nhận ý chí của nhà nước (cụ thể là
của giai cấp thống trị) là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội và cũng là
khung giới hạn quyền lực và hành động của Nhà nước. Pháp luật trên thực tế

không phải lúc nào cũng và luôn luôn được các chủ thể mà nó điều chỉnh tôn
trọng và thực hiện, do đó cần phải có một cơ quan/hệ thống cơ quan có đủ thẩm
quyền (quyền lực) duy trì hiệu lực của pháp luật. Như vậy, quyền tư pháp là một
loại quyền không thể thiếu được trong bất cứ nhà nước nào. Quyền tư pháp giám
sát việc tuân thủ pháp luật. Quyền tư pháp gắn với chức năng duy trì, bảo vệ trật
tự nhà nước, trật tự pháp luật và tất nhiên nó cũng phải được tổ chức trên cơ sở
của pháp luật và vận hành trong khuôn khổ pháp luật. Nói đến quyền tư pháp là
nói đến chức năng và nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quan hệ xã hội
được pháp luật điều chỉnh hoặc hình thành từ pháp luật (chẳng hạn từ các
nguyên tắc của pháp luật). Tuy nhiên, quyền tư pháp không chỉ phán xét tính
hợp pháp của hành vi của những người tham gia các quan hệ xã hội, mà còn
phán xét cả tính hợp pháp của chính các đạo luật, của các văn bản quy phạm
pháp luật khác.
Quyền tư pháp có trọng tâm là hoạt động xét xử, nhưng nó không đồng
nhất với khái niệm quyền tài phán. Quyền tài phán có nghĩa là tổng thể những
quyền hạn của tòa án hoặc cơ quan hành chính nhà nước về việc đánh giá khía
cạnh pháp lý của những sự kiện cụ thể, trong đó có việc giải quyết những tranh
chấp và áp dụng những chế tài theo luật định. Với cách hiểu như vậy không chỉ
các tòa án mà các cơ quan hành chính nhà nước cũng có quyền tài phán.
Quyền tư pháp mang tính giai cấp, bởi nó bảo vệ pháp luật, tức là bảo vệ ý
chí của giai cấp thống trị. Trong các Nhà nước bóc lột, giai cấp thống trị là giai
cấp có tiềm lực kinh tế, nắm giữ các phương tiện lao động chủ yếu và là giai cấp
thống trị về kinh tế. Quyền tư pháp bảo vệ lợi ích của nhóm người đó. Trong
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, người chủ xã hội là những người lao động, chiếm số
đông trong xã hội. Nhà nước đó do giai cấp công nhân và lực lượng lao động
hình thành, tổ chức và cai trị. Quyền tư pháp phục vụ cho lợi ích của số đông đó.
Trong Nhà nước đó, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như vậy suy cho
cùng quyền tư pháp trong nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo vệ quyền lực của nhân
dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Bảo vệ lợi ích của nhân dân là tiêu chí


Page 7


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
đánh giá hiệu quả tổ chức và hoạt động của bộ máy thực hiện quyền tư pháp.
Quyền lập pháp, quyền hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân cũng có mục đích tự thân là phục vụ và bảo vệ lợi ích
nhân dân, nhưng với phương thức và cách thức khác với cách mà quyền tư pháp
thể hiện. Quyền lập pháp ghi nhận lợi ích nhân dân, trong đó có quyền con
người, quyền công dân; quyền hành pháp tổ chức thực hiện các quy định đó và
hiện thực hóa nó. Quyền tư pháp bảo vệ lợi ích nhân dân bằng cách phán xét
hành vi của cá nhân (công dân, nhóm công dân, công chức, viên chức) hay tổ
chức (trong đó có cả cơ quan nhà nước) có hợp pháp hay vi phạm pháp luật. Khi
có đủ căn cứ (theo pháp luật) xác định có vi phạm pháp luật thì áp dụng các chế
tài và biện pháp trừng phạt. Với hoạt động đặc thù và vai trò nổi trội đó của
quyền tư pháp mà không ít người cho rằng, chỉ có cơ quan tư pháp (chủ thể thực
hiện quyền tư pháp) mới là người bảo vệ quyền lợi của họ. Trong việc duy trì và
bảo vệ pháp luật, đôi khi các cơ quan hay cán bộ tư pháp phải đối mặt với sự vi
phạm từ chính các công chức nhà nước, của cơ quan hay người thi hành công vụ
đại diện cho quyền lập pháp, quyền hành pháp và thậm chí của quyền tư pháp.
Như vậy, để thực hiện được chức năng và nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, cơ quan tư
pháp và người làm công tác tư pháp phải có đủ thẩm quyền và được bảo đảm sự
độc lập trong thực thi nhiệm vụ của mình.
Quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân có chức năng và nhiệm vụ chính là bảo vệ lợi ích nhân dân nên
quyền tư pháp phải được tổ chức thành bộ máy với những cơ quan, con người và
thủ tục sao cho người dân dễ sử dụng bộ máy đó để bảo vệ quyền lợi của họ. Ở
đây có hàng loạt yêu cầu và đòi hỏi đặt ra như quyền tiếp cận công lý của người
dân cần được chú ý; thủ tục tư pháp đơn giản, thuận tiện, ít tốn kém; cán bộ tư
pháp chuyên nghiệp và có đạo đức nghề nghiệp. Khả năng đáp ứng các yêu cầu

này của nền tư pháp cũng chính là những tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả và
vai trò của quyền tư pháp.
Pháp luật được bảo vệ bởi nhiều cơ quan và bằng nhiều phương thức khác
nhau, trong đó có việc cơ quan bảo vệ pháp luật xác định hành vi vi phạm pháp
luật và áp dụng chế tài đối với người vi phạm. Trong hoạt động bảo vệ pháp luật
có một chuỗi các hành vi, hành động do các cơ quan bảo vệ pháp luật, người thi
hành công vụ và người tham gia quan hệ tố tụng tư pháp tiến hành. Quyền tư
pháp được thực hiện bởi cơ quan tư pháp. Hoạt động tư pháp là hoạt động của
các cơ quan nhà nước trong việc duy trì và bảo vệ công lý và trật tự pháp luật.
Trên thực tế, quyền tư pháp thường chỉ được thực thi khi trật tự pháp luật bị đe
dọa hoặc quyền lợi theo pháp luật của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm. Tuy nhiên,
mức độ tham gia của các cơ quan tư pháp vào các quan hệ tố tụng tùy thuộc vào
tính chất vụ việc. Trong các vụ án phi hình sự, sự tham gia của cơ quan điều tra
và cơ quan công tố thường rất hạn chế. Quan hệ tố tụng trong các vụ án phi hình
sự thường phát sinh trên cơ sở hành vi khởi kiện hoặc yêu cầu của đương sự (tổ
chức, cá nhân) giả thiết có quyền, lợi ích bị xâm phạm. Trong trường hợp này
tòa án thụ lý đơn kiện (khi có đủ điều kiện thụ lý) và là cơ quan duy nhất nhân

Page 8


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
danh Nhà nước và đại diện cho quyền lực Nhà nước thực thi quyền tư pháp.
Việc công an tư pháp tham gia bảo vệ phên tòa không phản ánh và có nghĩa là
có sự tham gia của cơ quan công an trong thực thi quyền tư pháp. Trong quá
trình giải quyết vụ án, khi cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác như giám định, phiên dịch thì tòa án sẽ yêu cầu các chủ thể này tham gia.
Trong các vụ án hình sự, ngoài tòa án còn có và cần có sự tham gia của các cơ
quan nhà nước khác như cơ quan điều tra (của lực lượng Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân), cơ quan công tố. Các hoạt động

điều tra, truy tố là những hoạt động phục vụ hoặc liên quan trực tiếp tới hoạt
động xét xử. Sự tham gia của các cơ quan điều tra và công tố trong việc thực thi
quyền tư pháp là cần thiết, bởi một mình tòa án không thể tiến hành toàn bộ các
hoạt động từ tìm chứng cứ, xác minh, đánh giá chứng cứ đến xét xử. Trên thế
giới cũng không có nước nào tổ chức hệ thống tòa án với tất cả chức năng và
nhiệm vụ đó. Trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, các cơ quan điều tra,
cơ quan công tố chỉ tham gia ở các mức độ nhất định vào quá trình giải quyết và
bảo vệ công lý. Trong khi đó, tòa án với chức năng xét xử của mình luôn luôn là
chủ thể bắt buộc của quan hệ tố tụng. Với vị trí đó, tòa án là cơ quan đóng vai
trò trung tâm trong hệ thống cơ quan thực thi quyền tư pháp. Sự dẫn giải ở trên
biện luận cho nhận thức rằng, quyền tư pháp là một bộ phận không thể thiếu
được của quyền lực nhà nước. Quyền tư pháp theo nghĩa hẹp chỉ giới hạn thông
qua hoạt động của tòa án với chức năng xét xử, nhân danh Nhà nước đưa ra
phán quyết đối với các hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quyền, lợi ích
của công dân, tổ chức; áp dụng pháp luật; phán xét hành vi hợp pháp của các
cơ quan, công chức nhà nước.
Quyền tư pháp theo nghĩa rộng được thực hiện thông qua hoạt động của
hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật như cơ quan điều tra, cơ quan công tố và
tòa án. Trong hệ thống các cơ quan đó, tòa án với chức năng xét xử có vai trò
trung tâm và thể hiện rõ nhất tính tư pháp của quyền tư pháp. Hoạt động điều tra
có thể được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp nhưng thực hiện chức năng tư
pháp hoặc do cơ quan công tố hoặc cơ quan tòa án đảm niệm. Thi hành án xét về
bản chất không phải là hoạt động tư pháp thuần túy mà mang tính chất hành
chính-tư pháp. Thi hành án là giai đoạn sau của xét xử, không có sứ mệnh xác
định sự thật của vụ án mà chỉ thực thi phán quyết của tòa án. Vì vậy, không nên
coi hoạt động thi hành án thuộc phạm vi của quyền tư pháp và cơ quan thi hành
án không phải là cơ quan tư pháp. Ngoài ra, các hoạt động có tính chất bổ trợ
như bào chữa, giám định, giám sát, tư vấn pháp luật, công chứng v.v… tuy là
cần thiết, giúp cho hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật được chính xác,
khách quan, đúng pháp luật và góp phần bảo vệ công lý, nhưng do các hoạt động

này được tiến hành bởi các tổ chức, cá nhân không được giao hoặc ủy quyền
thực hiện quyền lực nhà nước nên có lẽ không nên coi là hoạt động thực thi
quyền tư pháp. Cùng nhận xét như chúng tôi về bản chất của hoạt động bổ trợ tư
pháp nên có người cho rằng, phạm vi kiểm sát hoạt động tư pháp không nên mở
rộng cả đối với hoạt động tư pháp bổ trợ.

Page 9


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
Nhận thức như trên về quyền tư pháp gần với quan niệm về quyền tư pháp
theo cấp độ thứ ba (quyền tư pháp nghĩa trung) của nhóm quan điểm thứ nhất đã
dẫn ra ở trên. Quan niệm như vậy có thể bị phê phán bởi quan điểm, rằng cơ
quan điều tra và cơ quan công tố về bản chất là cơ quan hành pháp nên việc sắp
xếp các cơ quan này vào hệ thống các cơ quan tư pháp có lẽ không hợp lý. Về
vấn đề này người viết cho rằng, một cơ quan hay nhiều cơ quan và cơ quan nào
thực hiện quyền tư pháp không phải là điều bất biến. Quan trọng là trong một
Nhà nước, quyền tư pháp nhất thiết phải được tổ chức và thực hiện với mục tiêu
và nhiệm vụ duy trì, bảo vệ trật tự nhà nước, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và
lợi ích của công dân. Việc cơ quan điều tra và cơ quan công tố tham gia thực thi
quyền tư pháp là phù hợp với nguyên tắc phân công, phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta. Ngay ở những
nước thực hiện quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, chẳng hạn như
Cộng hòa liên bang Đức, thì các lĩnh vực thẩm quyền của các cơ quan hiến pháp
cũng không phủ hết các chức năng tương ứng của Nhà nước, chẳng hạn như việc
tòa án phát triển các học thuyết pháp lý, việc xây dựng văn bản pháp quy của cơ
quan hành pháp, mối quan hệ giữa tài phán hiến pháp và nhà soạn thảo luật.
3. Hoạt động tư pháp
3.1. Quyền tư pháp chỉ trở thành quyền lực thực tế thông qua các hoạt
động cụ thể của các chủ thể xác định. Đây là quá trình chuyển quyền tư pháp

được ghi nhận trong các văn bản pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội và hoạt
động này được gọi là hoạt động thựchiệnquyền tư pháp hay là hoạt động tư
pháp.
3.2. Do quyền tư pháp là quyền xét xử nên hoạt động tư pháp cũng chính
là hoạt động xét xử. Có nhiều cách giải thích, định nghĩa về xét xử (hoạt động
xét xử). Theo cách hiểu của người viết thì hoạt động xét xử là việc cơ quan
chuyên biệt được pháp luật chỉ định tiến hành xem xét, đánh giá và kết luận về
một sự kiện mang tính tranh chấp, xung đột. Mục đích của hoạt động xét xử là
nhằm phục hồi các quan hệ xã hội bị xâm phạm, bảo đảm ổn định trật tự xã hội,
trật tự pháp luật trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội, phục vụ sự tiến
bộ xã hội.
3.3. Song hành với khái niệm hoạt động tư pháp là khái niệm tố tụng tư
pháp. Tố tụng tư pháp thực chất là hoạt động tư pháp được sắp xếp theo trình tự,
lớp lang định sẵn. Sở dĩ có quy trình này là do nhà làm luật đúc kết, tính toán
theo phương án tối ưu, bảo đảm vừa đạt được mục đích của tư pháp, vừa không
gây hại cho lợi ích lớn hơn của xã hội.
4. Cơ quan tư pháp
4.1. Cơ quan là một thiết chế thực hiện quyền lực. Nhấn mạnh điều này có
ý nghĩa quan trọng không chỉvềphương pháp luận mà còn là thực tiễn. Nhiều
người trong số chúng ta đến nay vẫn lấy làm khó hiểu khi ai đó trình bày, đại

Page 10


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
loại: Bản án hình sự số X, ngày Y, do thẩm phán Z xét xử. Trong trường hợp
này, thẩm phán Z chính là thiết chế thực hiện quyền lực, là cơ quan tư pháp cụ
thể. Thiết tưởng, trong lĩnh vực tư pháp, rất cần những định danh chính xác như:
Bản án của Hội đồng xét xử doThẩm phán X làm chủ tọa, Quyết định truy tố của
Phó Viện trưởng Y, Viện kiểm sát nhân dân huyện Z. Là những chức danh tố

tụng do luật định, các vị này không cần nhân danh cơ quan mà tự thân đã là cơ
quan độc lập.
4.2. Cơ quan tư pháp là cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện
quyền tư pháp. Do quyền tư pháp đồng nghĩa với quyền xét xử nên cơ quan tư
pháp cũng chính là cơ quan xét xử. Thực hiện quyền xét xử, cơ quan xét xử
được quyền phán quyết, ra bản án về một sự kiện có tính xung đột, tranh chấp và
vấn đề chính yếu là phán quyết của cơ quan xét xử lại có hiệu lực pháp lý như
một quy phạm pháp luật, bắt buộc mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan
nghiêm chỉnh thi hành.
4.3. Cơ quan xét xử thông dụng là Tòa án. Ở Việt Nam, kể từ khi có Hiến
pháp năm1946 đến nay, cơ quan xét xử là Tòa án nhân dân các cấp, Tòa án quân
sự và có thể thêm Tòa án đặc biệt. Một số thiết chế như Trọng tài, tổ chức hòa
giải ở cơ sở tuy thực hiện chức năng na ná như xét xử,nhưng không thể gọi là cơ
quan xét xử. Như vậy, chỉ có Tòa án là cơ quan xét xử vàdo vậy, làcơ quan tư
pháp đúng nghĩa.
Hiện nay, ngoài hệ thống Tòa án, hàng loạt cơ quan khác tuy không thực
hiện quyền tư pháp, nằm ngoài hệ thống tư pháp nhưng vẫn được gọi, được coi
là cơ quan tư pháp. Cùng với Bộ Tư pháp của Chính phủ, Ủy banTư pháp của
Quốc hội, ngay cả cơ quan điều tra, cơ quan công tố, Viện kiểm sát, cơ quan thi
hành án cũng được liệt vào danh sách cơ quan tư pháp. Đây là một sự gán ghép
tai hại mà bất cứ ai tham gia vào cuộc thảo luận về cải cách tư pháp ở Việt Nam
cũng đều thấy rõ.
Liên quan đến cơ quan tư pháp, thiết tưởng cũng cần làm rõ các chức
danh tư pháp vốn cũng đang được sử dụng lẫn lộn và tùy tiện ở Việt Nam. Đã
đến lúc không chỉ khẳng định cơ quan tư pháp đích thực là Tòa án mà còn giới
hạn phạm vi chức danh tư pháp chỉ là thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Đây
chính là những chức danh có thẩm quyền tiến hành xét xử. Còn những cán bộ,
công chức, viên chức khác trong các cơ quan tố tụng, kể cả những cán bộ, công
chức trong cơ quan Tòa án đều không thể tùy tiện cho rằng đó là cán bộ tư pháp,
nhân viên tư pháp, công chức tư pháp…Tóm lại là không gán cho họ chức danh

tư pháp vì họ không trực tiếp thực thi quyền lực tư pháp.
II. QUYỀN TƯ PHÁP ĐƯỢC GHI NHẬN TRONG HIẾN PHÁP VÀ
LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN.
Trong Hiến pháp 2013, quy định về quyền tư pháp có những sửa đổi, bổ
sung quan trọng và đây là bước tiến dài trong tiến trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở nước ta.

Page 11


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
Nhiệm vụ cụ thể hóa các quy định này của Hiến pháp trong Luật Tổ chức
TAND (sửa đổi) là rất quan trọng. Với tư cách là một đạo luật về tổ chức và
hoạt động của một cơ quan trong bộ máy Nhà nước, Luật này sẽ bám sát các quy
định của Hiến pháp về tổ chức và thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, cần
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn xét
xử của Tòa án.
Trước hết, Điều 107 Hiến pháp 2013 khẳng định: TAND là cơ quan xét
xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp chứ không chỉ là cơ
quan xét xử như Hiến pháp 1992 quy định. TAND thực hiện quyền tư pháp hoàn
toàn phù hợp với Điều 2 về nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước khi mà
quyền tư pháp được thừa nhận: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy không thừa nhận nguyên tắc tam quyền
phân lập nhưng trong Hiến pháp nước ta, quyền tư pháp vẫn đảm bảo độc lập và
kiểm soát quyền khác trong cơ chế quyền lực thống nhất ở Quốc hội.
Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) có nhiệm vụ quan trọng là cụ thể hóa nội
dung của quyền tư pháp quy định trong Hiến pháp. Để làm được điều đó, trước
hết cần dựa trên nhận thức thống nhất về nội dung của quyền này trong Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Quyền tư pháp trước hết là quyền xét xử

nhưng với tư cách là một loại quyền lực Nhà nước. Quyền tư pháp còn bao hàm
nội dung như quyền giải thích pháp luật, quyền kiểm soát các nhánh quyền lực
khác theo tinh thần kiểm soát quyền lực quy định tại Điều 2 Hiến pháp. Chính vì
vậy, Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) bổ sung nhiệm vụ của Tòa án là: Thông qua
hoạt động xét xử, phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xử lý
văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội...
Về mặt thực tiễn, để đảm bảo cho Tòa án, với tư cách là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp đồng thời kiểm soát quyền lực, cần củng cố tổ chức và hoạt động
của hệ thống Tòa án hành chính. Thiết chế Tòa án hành chính đã hiện diện ở
nước ta và được coi là biểu hiện sinh động nhất của việc Tòa án kiểm soát các
cơ quan hành pháp. Hoạt động của Tòa án hành chính cần được mở rộng thẩm
quyền và nâng cao hiệu quả hơn nữa để đáp ứng nhu cầu kiểm soát quyền lực.
Sửa đổi quan trọng trong chương về Tòa án là việc Hiến pháp năm 2013
khẳng định: TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân thay cho Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân như Hiến pháp hiện hành quy định. Đây cũng là bước đột phá trong tư
duy về pháp luật, tư pháp và Nhà nước pháp quyền. Công lý là lẽ phải, sự công
bằng được xã hội thừa nhận. Pháp luật đồng nghĩa với công lý khi nó chuyển tải
được những giá trị của công lý. Tuy nhiên, điều đó luôn là mơ ước bởi nhiều khi

Page 12


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
“quá sức” đối với pháp luật, nhất là hệ thống pháp luật đang trong quá trình
hoàn thiện. Chính vì vậy, việc khẳng định Tòa án trước hết có nhiệm vụ bảo vệ

công lý là hoàn toàn phù hợp.
Từ việc khẳng định Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý sẽ là cơ sở để
củng cố chế định về Hội thẩm nhân dân, áp dụng án lệ, tập quán trong quá trình
xét xử và áp dụng pháp luật đúng theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW của
Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. Trong Nghị quyết này có chỉ đạo việc xây
dựng án lệ như là sự bổ sung cần thiết cho khoảng trống của pháp luật và đảm
bảo công lý. Chính vì vậy, điểm c khoản 2 Điều 12, dự thảo Luật Tổ chức
TAND (sửa đổi) đã cho thấy nhiệm vụ của TANDTC phát triển án lệ là phù hợp
với tinh thần của Hiến pháp về nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, phù hợp
với việc khẳng định Tòa án thực hiện quyền tư pháp, phù hợp với quá trình hội
nhập quốc tế mọi mặt và đảm bảo chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp.
Nói đến quyền tư pháp là nói đến sự độc lập như một yếu tố thuộc bản
chất của nó. Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) đã thể hiện được một bước tiến quan
trọng nhằm đảm bảo sự độc lập của Tòa án. Sự độc lập của Tòa án có thể xét
dưới nhiều góc độ, trong đó độc lập trong việc giải thích pháp luật là một nội
dung quan trọng. Nói cách khác, phán quyết của Tòa án không thể độc lập nếu
Tòa án không được giải thích pháp luật.
Cuối cùng, điểm nổi bật trong Hiến pháp lần này liên quan đến quyền tư
pháp, đó là nguyên tắc tranh tụng đã được hiến định. Tìm ra chân lý trong tố
tụng có nhiều con đường và cách thức khác nhau. Tố tụng tranh tụng là mô hình
được nhiều quốc gia ưa thích. Việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến
pháp là sự phù hợp rất logic với việc thừa nhận sự tồn tại của quyền tư pháp và
giao cho Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Bởi lẽ, đặc thù của tố tụng tranh tụng
là sự phân định rạch ròi ba chức năng buộc tội - gỡ tội và xét xử, mỗi chức năng
đó do một chủ thể đảm nhiệm.
III. TƯ PHÁP HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Cho đến nay, trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn đời sống chính
trị – pháp luật ở Việt Nam về cơ bản đã đạt được sự thống nhất chung khi quan
niệm hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động thực hiện quyền tư pháp. Tuy
nhiên, khi quan niệm về phạm vi quyền tư pháp và hoạt động tư pháp hình sự,

chủ thể tiến hành hoạt động tư pháp hình sự, lại đang tồn tại nhiều ý kiến khác
nhau. Khái quát lại có 4 loại ý kiến sau đây: Loại ý kiến thứ nhất quan niệm về
quyền tư pháp theo nghĩa hẹp. Những người ủng hộ ý kiến này lập luận rằng
quyền tư pháp là lĩnh vực quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua hoạt
động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các
quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ
thể pháp luật. Do vậy, chủ thể thực hiện quyền tư pháp chỉ là Tòa án và hoạt
động tư pháp hình sự chỉ là hoạt động xét xử. Loại ý kiến thứ hai quan niệm về
quyền tư pháp và hoạt động tư pháp hình sự theo một nghĩa rộng rãi nhất.

Page 13


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
Những người ủng hộ ý kiến này cho rằng, tư pháp là xét xử. Để giải quyết các
tranh chấp pháp luật, các vi phạm pháp luật thì ngoài Tòa án là cơ quan được
giao chức năng thay mặt Nhà nước ra phán quyết, còn có sự tham gia của nhiều
cơ quan, tổ chức khác. Các cơ quan, tổ chức này có vai trò quan trọng trong việc
bảo đảm cho phán quyết của Tòa án được chính xác, khách quan. Vì vậy, việc
thực hiện quyền tư pháp, tức là quyền thay mặt Nhà nước phán quyết về xung
đột pháp lý, vi phạm pháp luật là của Tòa án, nhưng để đi đến phán quyết đó lại
không chỉ là nhiệm vụ của riêng Tòa án. Do vậy, hoạt động tư pháp hình sự là
hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào việc giải quyết vụ
án hình sự. Hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động của các cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi hành án, các cơ quan được giao thực hiện
một số nhiệm vụ tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư pháp (giám định tư pháp, công
chứng tư pháp, luật sư). Loại ý kiến thứ ba cho rằng, hoạt động tư pháp hình sự
là hình thức thực hiện những thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống
Tòa án mà thông qua đó, các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà
nước pháp quyền biến thành hiện thực. Có bốn hình thức hoạt động tư pháp hình

sự tương ứng với bốn chức năng của quyền tư pháp. Hình thức hoạt động tư
pháp thứ nhất là thực hiện thẩm quyền giải thích các quy phạm pháp luật (mà
trước hết là giải thích Hiến pháp). Hình thức hoạt động tư pháp thứ hai là thực
hiện thẩm quyền xét xử bằng hoạt động tố tụng tư pháp (tài phán). Hình thức
hoạt động tư pháp thứ ba là thực hiện thẩm quyền giám sát của Tòa án đối với
tính hợp pháp và có căn cứ của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước
có tính chất tố tụng, tức là thực hiện sự kiểm tra của Tòa án trong việc áp dụng
các chế tài về tố tụng hình sự và hình sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Hình
thức hoạt động tư pháp thứ tư là thực hiện thẩm quyền xác nhận chính thức các
sự kiện (hành vi) có ý nghĩa pháp lý trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hoặc
hạn chế quyền chủ thể tương ứng của các công dân trong quá trình giải quyết
các mối quan hệ xã hội. Loại ý kiến thứ tư cho rằng, hoạt động tư pháp hình sự
là tập hợp những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng
hình sự liên quan trực tiếp đến việc giải quyết các vụ án và hướng tới mục đích
giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, khách quan. Do vậy, hoạt động tư pháp
hình sự bao gồm hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, hoạt động công tố của
Viện kiểm sát, hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động thi hành án của cơ
quan thi hành án.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Bộ luật Tố tụng hình sự với vai trò là một trong những công cụ pháp lý
sắc bén để đấu tranh với mọi loại tội phạm, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập
trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn

Page 14


Một số vấn đề về tư pháp hình sự Việt Nam
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến định;
góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch,

vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
Nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Sau một thời gian
tiến hành lấy ý kiến Nhân dân và các chuyên gia về việc sửa đổi, bổ sung, ngày
27/11/2015, Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII
thông qua tại kỳ họp thứ 10 và sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016. Một trong
những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là đã đưa ra những cơ
chế bảo đảm hoạt động tư pháp hình sự, góp phần đưa chế định này gần hơn với
cuộc sống. Nói một cách khác, pháp luật không chỉ có nhiệm vụ cao cả là hiện thực
hóa các nghĩa vụ đạo đức về tôn trọng và thực hiện các quyền tự nhiên của con người
thành các nghĩa vụ pháp lý, mà còn xã hội hóa giá trị của các quyền tự nhiên của con
người đó vào thực tiễn xã hội./

Page 15



×