Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Đặc điểm thơ lục bát trong sách giáo khoa ngữ văn trung học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.45 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

VŨ THỊ KIM OANH

ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT TRONG SÁCH
GIÁO KHOA NGỮ VĂN TRUNG HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ
Mã số: 60220102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Trí Dõi

SƠN LA - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Vũ Thị Kim Oanh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tôi đã nhận được sự động viên,
giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè và người thân.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Trần Trí Dõi người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.


Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Trường
Đại học Tây Bắc, những thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy, quan tâm tạo điều
kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,
những người đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và
hoàn thành luận văn Thạc sĩ.
Lai Châu, ngày tháng
Tác giả luận văn

Vũ Thị Kim Oanh

năm 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2
3. Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................... 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 5
7. Giả thuyết khoa học .................................................................................... 6
8. Đóng góp của đề tài nghiên cứu ................................................................. 6
9. Bố cục của luận văn: ................................................................................... 6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN PHỤC VỤ CHO VIỆC THỰC HIỆN
LUẬN VĂN ...................................................................................................... 7
1.1. Thơ và thơ lục bát .................................................................................... 7
1.1.1. Thơ và ngôn ngữ thơ ........................................................................... 7
1.1.2. Cách hiểu về thơ lục bát.................................................................... 16

1.1.3. Thơ lục bát là một thể thơ đặc trưng của tiếng Việt. ........................ 17
1.2. Những đặc điểm chính của thơ lục bát ................................................ 21
1.2.1. Tiếng và câu trong thơ lục bát .......................................................... 21
1.2.3. Phối thanh và ngắt nhịp trong thơ lục bát ........................................ 23
1.3. Tiến trình lịch sử của thể loại thơ lục bát ............................................ 25
1.3.1. Tính thuần Việt của thơ lục bát......................................................... 25
1.3.2. Lục bát trong ca dao ......................................................................... 26
1.3.3. Lục bát trong văn học trung đại ....................................................... 28
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 35
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ LỤC BÁT TRONG SGK
NGỮ VĂN TRUNG HỌC THEO TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN ............. 37


2.1. Thơ lục bát trong SGK Ngữ văn trung học. ........................................ 37
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ lục bát ca dao trong SGK ............................. 38
2.2.1. Về ngắt nhịp trong thơ lục bát ca dao .............................................. 38
2.2.2. Về gieo vần trong thơ lục bát ca dao ................................................ 40
2.2.3. Về phối thanh trong thơ lục bát ca dao ............................................ 43
2.3. Thơ lục bát giai đoạn trung đại ............................................................ 44
2.3.1. Về ngắt nhịp, gieo vần, phối thanh trong thơ lục bát của tác giả
Nguyễn Du ................................................................................................... 45
2.3.2. Về ngắt nhịp, gieo vần, phối thanh trong thơ lục bát của tác giả
Nguyễn Đình Chiểu ..................................................................................... 52
2.4. Đặc điểm ngôn ngữ trong lục bát hiện đại. .......................................... 56
2.4.1.Thơ lục bát của tác giả Nguyễn Bính ................................................. 56
2.4.2. Thơ lục bát của tác giả Tố Hữu ........................................................ 60
2.5. Nhận xét chung về đặc điểm ngôn ngữ lục bát trong SGK ................ 66
2.5.1. Về cách ngắt nhịp:............................................................................. 67
2.5.2. Về cách gieo vần. .............................................................................. 68
2.5.3. Về phối thanh .................................................................................... 68

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 69
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VÀ NỘI DUNG PHẢN ÁNH
CỦA THƠ LỤC BÁT TRONG SGK TRUNG HỌC................................. 70
3.1. Cảm hứng chính trong lục bát ca dao .................................................. 71
3.1.1. Những câu thơ lục bát nói về tình cảm gia đình ............................... 71
3.1.2. Những câu lục bát hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người ...... 72
3.1.3. Những câu lục bát than thân ............................................................ 73
3.1.4. Những câu lục bát châm biếm........................................................... 75
3.1.5. Những câu lục bát hài hước .............................................................. 77
3.2. Ngôn ngữ thơ lục bát và nội dung trong văn học trung đại ............... 78


3.2.1. Ngôn ngữ thơ lục bát Truyện Kiều góp phần làm nên thành công
nội dung tác phẩm. ......................................................................................... 79
3.3. Ngôn ngữ thơ lục bát trong văn học hiện đại ...................................... 84
3.3.1. Thơ lục bát Nguyễn Bính................................................................... 84
3.3.2. Thơ lục bát Tố Hữu ........................................................................... 90
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 99
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐẦY ĐỦ

THPT

Trung học phổ thông


THCS

Trung học cơ sở

Nxb

Nhà xuất bản

KHXH

Khoa học xã hội

SGK

Sách giáo khoa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Hệ thống lục bát ca dao và thơ lục bát trong sách giáo khoa ....... 37
Bảng 2.2. Tổng hợp tình trạng ngắt nhịp và biến nhịp của lục bát
trong SGK ................................................................................... 67
Bảng 2.3. Tổng hợp tình trạng gieo vần của ca dao và 4 nhà thơ ................. 68
Bảng 2.4. Tổng hợp phối thanh của ca dao và 4 nhà thơ .............................. 68


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học dân gian nằm trong tổng thể văn hóa dân gian ra đời từ thời
viễn cổ và tiếp tục được bảo tồn, phát triển về sau này, nên nó có vị trí quan

trọng trọng đời sống văn hóa của dân tộc, in đậm dấu ấn bản sắc văn hóa dân
tộc. Nền văn học dân tộc nào cũng có văn học dân gian. Ở Việt Nam, văn học
dân gian có vị trí và vai trò rất quan trọng. Trong những năm Bắc thuộc và ở
thời kỳ dân tộc chưa có chữ viết hoặc chữ viết chưa phổ cập, nó có đóng góp
to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn người dân.
Tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc của văn học dân gian từ nội dung tới hình
thức đã có tác động lớn tới sự hình thành và phát triển của văn học viết dân
tộc. Trong mười hai thể loại của văn học dân gian Việt Nam thì ca dao là thể
loại phong phú, đa dạng cả về số lượng, nội dung, chủ đề và đề tài. Nó đã
được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, văn học, ngôn ngữ học... tìm hiểu,
nghiên cứu, khám phá, phát hiện cái hay, cái đẹp. Trong thực tế nhiều giá trị
nội dung như lí tưởng xã hội, đạo đức truyền thống được ẩn chứa trong hình
thức ngắn gọn, có vần, dễ nhớ nên thực sự đi sâu vào lòng người.
Ngay từ thời thơ ấu, ca dao đã gắn với cuộc đời của mỗi chúng ta. Ca
dao Việt Nam là kho tàng vô giá, làm giàu thêm tiếng Mẹ đẻ cho nên ca dao
là loại hình nghệ thuật ngôn từ được nhiều người tìm hiểu, là nguồn tài liệu vô
cùng quý giá được khai thác từ nhiều khía cạnh. Trong ca dao, dạng thức thơ
lục bát là một kiểu loại điển hình. Dạng thức văn hóa dân gian này cũng đã
ảnh hưởng đến sự sang tác của các nhà thơ được ghi danh. Đề tài "Đặc điểm
thơ lục bát trong sách giáo khoa Ngữ Văn trung học " có mục đích tiếp tục
tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ ca dao lục bát cũng như những sáng tác có ghi
danh theo hình thức này được giới hạn trong một chương trình giảng dạy cụ
thể - chương trình Ngữ Văn trung học .

1


Ở Việt Nam, việc tìm hiểu về ca dao nói chung, ca dao và thơ lục bát
nói riêng đã khá phổ biến. Đó là các công trình nghiên cứu về ca dao như bình
giảng ca dao, Ca dao Việt Nam và những lời bình, thi pháp ca dao, tìm hiểu

Thơ lục bát Việt Nam hiện đại từ góc nhìn ngôn ngữ v,v. Tuy nhiên, hiện
chưa có công trình nào coi ngôn ngữ ca dao và thơ lục bát trong sách giáo
khoa Ngữ Văn trung học là đối tượng nghiên cứu độc lập. Hiểu rõ đặc điểm
thơ lục bát trong chương trình Ngữ Văn trung học sẽ giúp chúng tôi giảng dạy
tốt hơn môn Ngữ Văn ở bậc học này. Và đó là lý do khiến chúng tôi lựa chọn
đề tài nói trên cho luận văn của mình.
Với những lí do như vậy, việc chúng tôi lựa chọn đề tài "Đặc điểm thơ
lục bát trong sách giáo khoa Ngữ Văn trung học" làm đề tài luận văn của
mình là thực sự hữu ích. Khi lựa chọn đề tài như thế, chúng tôi hy vọng có
những đóng góp, tìm tòi xét từ phương diện ngôn ngữ để tìm hiểu thêm các
giá trị của ca dao và thơ lục bát trong chương trình mà mình giảng dạy ở nhà
trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Khi tìm hiểu các công trình nghiên cứu về thơ lục bát Việt Nam chúng
tôi nhận thấy việc nghiên cứu thơ lục bát đã và đang được rất nhiều người
quan tâm. Theo đó, có nhiều nhà nghiên cứu về thơ lục bát ở bình diện văn
hóa dân gian, thi pháp học, văn hóa học v.v. như Tăng Tấn Lộc, Vũ Ngọc
Phan v.v. Đồng thời, cũng có những công trình nghiên cứu cao dao và thơ lục
bát từ góc độ ngôn ngữ học như Phan Ngọc, Nguyễn Phan Cảnh vv. và gần
đây nhất là Hồ Văn Hải.
Cụ thể, Tăng Tấn Lộc trong bài Đi tìm thể lục bát Việt Nam đã khẳng
định lục bát được hình thành và phát triển trong ca dao, dân ca, được thi hào
Nguyễn Du nâng tới đỉnh cao qua "Truyện Kiều" và càng trở nên phong phú,
đa dạng nhờ những đóng góp của các thế hệ nhà thơ nổi tiếng như: Tản Đà,

2


Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyễn Duy,…Nói về
quá trình phát triển của lục bát từ lục bát ca dao đến lục bát trong văn học

hiện đại, người ta đã có thể chia sự phát triển của thơ lục bát thành ba giai
đoạn là giai đoạn lục bát ca dao, giai đoạn lục bát trung đại và giai đoạn lục
bát hiện đại.
Còn nghiên cứu về ca dao và thơ lục bát ở góc độ ngôn ngữ học thì
phải kể đến cuốn "Thơ lục bát Việt Nam hiện đại từ góc nhìn ngôn ngữ" (Nhà
xuất bản văn hóa thông tin, tác giả Hồ Văn Hải) là công trình mới xuất bản
gần đây nhất. Với cuốn sách này, tác giả đã tìm hiểu về ngôn ngữ thơ tiếng
Việt nói chung và thơ lục bát nói riêng. Tác giả cho rằng thơ lục bát Việt Nam
đã đạt đến độ tinh túy lần thứ nhất trong ca dao, lần thứ hai trong Truyện
Kiều, và lần thứ ba trong lục bát hiện đại (Qua bốn tác giả đại diện cho thơ
lục bát là Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu và Nguyễn Duy). Ngôn ngữ lục bát
hiện đại đã có được sự tương hỗ giữa nhạc điệu và ý nghĩa. Một bài lục bát
hiện đại hay là khi nó đạt được sự thống nhất cao giữa hai mặt ngữ âm và ngữ
nghĩa. Đây là xu hướng chung của thơ ca hiện đại nói chung: Đi tìm cảm thức
thời đại trong nhạc điệu, thứ âm thanh hòa quyện một cách chặt chẽ với ý
nghĩa. Ngôn ngữ lục bát hiện đại đã kế thừa ngôn ngữ lục bát truyền thống
trên cả hai bình diện nhạc điệu và phương thức, phương tiện tạo nghĩa. Về
nhạc điệu khi ngữ âm là cơ sở hình thành, tồn tại tính cách luật và tạo thể thì
nó chính là mặt cấu thành bền vững nhất trong thơ cách luật. Vì vậy, lục bát
nói chung và lục bát hiện đại tuân thủ nguyên lí ngữ âm thể loại để duy trì bản
thể của mình. Đó là lý do vì sao giữa lục bát hiện đại và lục bát ca dao lại có
sự tương đồng căn bản về hình thức ngữ âm. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng âm điệu lục bát có nguồn gốc sâu xa từ trong ngôn ngữ và văn hóa của
người Việt cổ. Nhờ đó mà các biểu hiện cơ bản của nó trong lục bát hiện đại
là hết sức bền vững. Có thể nói công trình của Hồ Văn Hải đã dường như tập

3


hợp được những gì mà các nhà nghiên cứu đã khảo sát về ngôn ngữ thơ lục

bát nói chung và thơ lục bát hiện đại nói riêng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Với việc giới hạn đối tượng là ngôn ngữ thơ lục bát trong sách giáo
khoa Ngữ Văn trung học, mục tiêu của chúng tôi là khảo sát để nhận biết đặc
điểm ngôn ngữ của các bài ca dao, các bài thơ dạng lục bát được tập hợp trong
sách giáo khoa Ngữ Văn của bậc trung học.
Sau đó, từ việc khảo sát để nhận biết đặc điểm các bài ca dao, các bài
thơ dạng lục bát được tập hợp trong sách giáo khoa của bản thân, chúng tôi sẽ
đề xuất ra những thao tác cụ thể để giảng dạy cho học sinh, giúp họ dễ dàng
tiếp cận, cảm thụ thơ lục bát trong việc học của mình.
Như vậy, đề tài mà chúng tôi lựa chọn sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả
giảng dạy của giáo viên cho học sinh. Đồng thời qua đề tài, người viết muốn
trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để từ đó tìm ra phương pháp hiệu quả
nhất khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đặc điểm thơ lục bát trong chương trình
Ngữ Văn trung học .
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Như đã trình bày, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là tất cả các
bài ca dao, thơ lục bát có trong sách giáo khoa chương trình trung học của
văn học Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nguồn tư liệu chính là các bài thơ lục bát trong ca dao của tác giả dân
gian trong chương trình Ngữ văn 6, Ngữ văn 7, Ngữ văn 8, Ngữ văn 9, Ngữ
văn 10, bài thơ lục bát của các tác giả truyền thống trong văn học trung đại
như Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du và bài thơ lục bát của tác giả hiện
đại trong văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến cách

4



mạng tháng 8 năm 1945 như Tương Tư của nhà thơ Nguyễn Bính, bài thơ lục
bát của tác giả hiện đại trong văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn từ 1945
đến 1975 như bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tập hợp một cách có hệ thống về những nghiên cứu đã có trong
việc giải thích nguyên tắc thơ lục bát, làm cơ sở lí luận cho việc thực hiện
luận văn.
5.2. Tìm hiểu đặc điểm thơ lục bát trong ca dao, thơ lục bát trung đại,
thơ lục bát hiện đại được lựa chọn trong SGK.
5.3. Từ đó, tìm ra điểm khác biệt giữa đặc điểm của thơ lục bát trong ca
dao và thơ lục bát của mỗi tác giả được lựa chọn trong SGK.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ở luận văn "Đặc điểm thơ lục bát trong sách giáo khoa Ngữ Văn trung
học" tôi sử dụng những phương pháp sau:
6.1. Phương pháp mô tả: Mô tả kết hợp với việc phân tích các âm điệu,
nhịp điệu, vần điệu trong thơ lục bát của tác giả dân gian, bài thơ lục bát của
các tác giả truyền thống trong văn học trung đại, bài thơ lục bát của các tác
giả hiện đại trong văn học Việt Nam hiện đại.
6.2. Phương pháp phân tích: Được sử dụng trong quả trình phân tích để
rút ra đặc điểm thơ lục bát của tác giả dân gian, đặc điểm thơ lục bát của các
tác giả truyền thống trong văn học trung đại Việt Nam, đặc điểm thơ lục bát
của các tác giả hiện đại trong văn học Việt Nam hiện đại.
6.3. Thủ pháp thống kê, phân loại và so sánh: Thống kê có định hướng,
phân loại định lượng, kết hợp với định tính được sử dụng trong quá trình thu
thập và xử lí tài liệu. So sánh đặc điểm thơ lục bát dân gian và đặc điểm thơ
lục bát của các tác giả để từ đó tìm ra điểm khác biệt.

5



7. Giả thuyết khoa học
Nếu nghiên cứu kĩ về đặc điểm ngôn ngữ thơ lục bát Việt Nam trong
sách giáo khoa thuộc chương trình trung học phổ thông thì chất lượng dạy học
nội dung này của người giáo viên sẽ được nâng cao.
8. Đóng góp của đề tài nghiên cứu
Đề tài là một bài tập thực tế để qua đó có được phương pháp cụ thể hóa
về điểm khác biệt về thơ lục bát của tác giả dân gian, với đặc điểm thơ lục bát
của các tác giả truyền thống trong văn học trung đại Việt Nam và đặc điểm
thơ lục bát của các tác giả hiện đại trong văn học Việt Nam hiện đại được lựa
chọn trong SGK. Với luận văn này, tôi hi vọng đây sẽ là nghiên cứu đúng
đắn, đạt hiệu quả cao trong việc giảng dạy về thể thơ lục bát.
9. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận phục vụ cho việc thực hiện đề tài
Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ thơ lục bát trong SGK Ngữ văn trung
học theo tiến trình phát triển.
Chương 3: Đặc điểm ngôn ngữ và nội dung phản ánh của thơ lục bát
trong SGK trung học.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN PHỤC VỤ CHO VIỆC THỰC HIỆN LUẬN VĂN
1.1. Thơ và thơ lục bát
1.1.1. Thơ và đặc điểm của ngôn ngữ thơ
Thơ là một hình thức sáng tạo văn học đầu tiên của loài người. Chính vì
vậy mà có một thời gian rất dài thuật ngữ thơ được dùng chỉ chung cho văn
học. Thơ có lịch sử lâu đời như thế nhưng để tìm một định nghĩa thể hiện hết
đặc trưng bản chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật không dễ

đối với nhà nghiên cứu.
Trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, khái niệm “thơ là gì” đã
được đề cập từ rất sớm. Tuy nhiên để định nghĩa chính xác, khách quan sẽ
giúp ta xác định được các bình diện của ngôn ngữ thơ cần tiếp cận và khai
thác.“Công trình lý luận về thi ca sớm nhất của phương Đông cách đây 1500
năm là Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp đã đề cập tới ba phương diện cơ bản
cấu thành tác phẩm thơ là hình văn, thanh văn và tình văn. Ngôn từ thơ có sự
vật (hình văn), nhạc ( thanh văn) và cảm xúc ( tình văn). Đến đời Đường,
Bạch Cư Dị đã cụ thể hóa thêm một bước các yếu tố cấu thành thơ ca : Cái
cảm hóa được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi
trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc
bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh,
quả là ý nghĩa” [17- tr 18]. Quan niệm này không chỉ dừng lại ở việc nêu lên
các yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng,
giống như gốc rễ, mầm lá, hoa, quả gắn liền với nhau trong một thể thống
nhất hoàn chỉnh và sống động. Đây có thể coi là quan niệm về thơ toàn diện
và sâu sắc nhất trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa.
Các nhà Cấu trúc chủ nghĩa Châu Âu lại thay thế câu hỏi “Thơ là gì”
bằng một câu hỏi khác: tính thơ là gì? Và nó được thể hiện ra như thế nào?

7


Theo cái cách từ ngữ được cảm nhận như là từ ngữ chứ không phải như vật
thay thế đơn giản của đối tượng chỉ định, theo cách những từ, những cú pháp,
những ngữ nghĩa của chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng
không phải là các dấu hiệu vô hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng,
mang một giá trị riêng. Tiếp tục triển khai lý thuyết tự quy chiếu, Jacobson
sau khi nhắc lại hai kiểu sắp xếp cơ bản của hoạt động ngôn ngữ là tuyển
chọn và kết hợp đã đi đến kết luận chức năng thi ca đêm nguyên lý tương

đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp. Mặc dù có lưu ý ít nhiều đến
hoạt động nguyên lý tương đương về ý nghĩa nhưng trong tư duy nghiên cứu
của Jacobson, cái ý nghĩa ở đây chỉ là ý nghĩa của đối tượng gọi tên và ý
nghĩa ngữ pháp nảy sinh tờ những mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc có
tính chất khép kín của văn bản. Điều đó cũng có nghĩa là khái niệm ý nghĩa
được hiểu một cách hạn hẹp. Bởi trong thực tế, như ta thấy, ý nghĩa của thơ
nhiều khi vượt ra ngoài giới hạn của văn bản và trong một chừng mục nhất
định phụ thuộc vào nhận thức của người đọc.
Ở Việt Nam, khái niệm “thơ là gì” cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề
cập với nhiều quan niệm, nhiều khuynh hướng khác nhau. Lý giải về bản chất
của thơ, các tác giả nhóm Xuân thu nhã tập cho rằng Thơ là cái gì huyền ảo,
tinh khiết, thâm thúy, cao siêu. Dưới cái nhìn cấu trúc, trong chuyên luận
Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học nhà thơ Phan Ngọc cho rằng: thơ
là cách tổ chức và sắp xếp ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận
phải nhớ, phải cảm xúc và suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này. Quan
niệm trên của giáo sư Phan Ngọc đã kế thừa được những khám phá quan
trọng về thơ của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau của
Tây Âu trong mấy chục năm qua. Đặc biệt đã gợi ra một trường nghiên cứu
thơ hết sức rộng rãi: thơ không chỉ là hiện tượng ngôn ngữ học thuần túy mà
chủ yếu là hiện tượng giao tiếp nghệ thuật, một phát ngôn trong ý nghĩa đầy
đủ của từ này.

8


Lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã chứng kiến rất nhiều định
nghĩa về thơ, các định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong cuốn từ điển thuật ngữ văn học có thể xem là chung
nhất “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống thể hiện tâm
trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và

nhất là có nhịp điệu” [16- tr210]. Định nghĩa này đã định danh một cách đày
đủ về thơ ở cả nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt đã khu biệt được đặc trưng cơ
bản của ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ trong thể loại văn học khác.
Từ sự nhận diện về thơ như trên, ta có điều kiện để đi vào tìm hiểu
những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ. So với ngôn ngữ văn xuôi, chúng
ta nhận thấy ngôn ngữ thơ có những đặc điểm khác biệt như:
Thứ nhất, ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Thơ trữ tình phản ánh cuộc
sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà thơ không
chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn cả bằng âm thanh, nhịp điệu
của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh lọc của ngôn ngữ
như cao độ, cường độ, trường độ... không được tổ chức hay sử dụng ở mức
cần thiết thì trong thơ, trái lại những đặc tính ấy được tổ chức một cách chặt
chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ
ngữ không nói hết. Bởi thế, đặc trưng tính nhạc được coi là một trong những
đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ nét trong ngôn ngữ thơ ca.
Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ở ba khía
cạnh cơ bản. Đó là sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp.
Sự cân đối là sự tương xứng hài hòa giữa các dòng thơ. Sự hài hòa đó
có thể là hình ảnh, âm thanh, chẳng hạn:
“Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Cũng có thể là cách sắp xếp tổ chức mà chúng ta dễ dàng nhận thấy ở
cặp câu thực, câu luận trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đối với thơ

9


hiện đại, yêu cầu này không thật sự khắt khe. Tuy vậy, nhà thơ vẫn hết sức
chú ý đến hiệu quả nghệ thuật của phép đối xứng trong thơ của mình.

Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hòa âm, sự thay đổi độ
cao giữa hai nhóm thanh điệu. Xuân Diệu với hai dòng toàn vận dụng thanh
bằng đã biểu biện được cảm xúc lâng lâng, bay bổng theo tiếng đàn du dương,
nhẹ êm khi người ta đọc thơ ông:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Chính Tố Hữu đã có lần nói đến ngữ âm của từ “xôn xao” trong câu
“Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa” (Mẹ Tơm). Đó đâu chỉ là âm vang của
tự nhiên mà là âm vang của tâm hồn, cái làm nên âm vang đó chính là âm
thanh, âm thanh của từ “xôn xao” đã cùng với ý nghĩa của nó làm nên điều kì
diệu ấy. Sự trầm bổng của ngôn ngữ còn thể hiện ở nhịp điệu:
“Sen tàn/ cúc lại nở hoa
Sầu dài/ ngày ngắn/ đông đà sang xuân”
Dòng thơ cắt theo nhịp 2/4 và 2/2/4 đều đặn như nhịp chuyển vần đều đặn
của tháng năm bốn mùa... Nhịp thơ ở đây là nhịp của cảm xúc, cảm nhận. Như
vậy, âm thanh, nhịp điệu trong thơ không đơn thuần là hình thức mà là những yếu
tố góp phần biểu hiện khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con người.
Sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và
điệp cấu trúc. Chúng có tác dụng như phương tiện kết dính các dòng thơ lại
với nhau thành một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho trí nhớ
vừa tạo nên ve trùng điệp cho ngôn ngữ thơ:
“Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọt đàn mưa xuân”
(Tiếng đàn mưa - Bích Khê)

10



Lối điệp từ, ngữ và điệp cấu trúc ở đây vừa diễn tả được hình ảnh cơn mưa
của đất trời vừa tạo nên một ấn tượng vương vấn không dứt trong lòng người.
Như vậy, tính nhạc hay nhạc điệu trong thơ là đặc điểm cơ bản của
ngôn ngữ thơ. Ngày nay nhu cầu của thơ có phần đổi khác, một số người đổi
vần để tạo cho câu thơ sự tự do hóa triệt để. Nhưng nếu như một bài thơ
không có một nhạc điệu nội tại nào đó như sự đối xứng giữa các dòng, các
đoạn thơ, tiết tấu, nhịp điệu của câu thơ thì bài thơ đó không còn là bài thơ
giầu nhạc điệu của ngôn ngữ thơ nữa.
Thứ hai, ngôn ngữ thơ có tính hàm súc. Đây là đặc điểm chung của
ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương nói chung, nhưng do đặc trưng của thể
loại mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ
thơ, bởi thơ là thể loại có dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại tác
phẩm văn học, nhưng thơ lại có tham vọng chiếm lĩnh nhiều tình cảm trong
thế giới bao la. Nói như Ô-giê-rốp ở trong một bài thơ là một lượng thông tin
lớn nhất trong một diện tích ngôn ngữ nhỏ nhất và chính sự hạn định số tiếng
trong câu thơ, bài thơ buộc người nghệ sỹ phải phát huy sự tư duy ngôn ngữ
để lựa chọn từ ngữ cho tác phẩm. Bởi thế, Maiacopxki gọi lao động nghệ
thuật ngôn từ của nhà thơ là “trả chữ với giá cắt cổ”:
“Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ
Như khai thác chất hiếm radium
Lấy một gam phải mất hàng bao công lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ”
( Maiacôpski - nhà thơ Nga)
Như vậy, tính hàm súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu
tả mọi hiện tượng của cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều
ý, ý tại ngôn ngoại. Đây chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu
trưng cao nhất.

11



Hàm súc trong thơ nghĩa là phải chính xác, giàu hình tượng, có tính
truyền cảm và thể hiện cá tính của người nghệ sỹ. Chẳng hạn, từ “khô” trong
câu thơ của Tản Đà “Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày” là một từ có
tính hàm súc cao mà những yếu tố tương đương với nó (như “tuôn”) không
thể thay thế. Nó không chỉ diễn tả tình cảm còn gọi lên cả chiều dài của
những tháng năm chờ đợi.Nó vừa đảm bảo tính chính xác, tính hình tượng và
có tính truyền cảm.
Để đạt được tính hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện được cái vô tận của
cuộc sống trong những cái hữu hạn của đơn vị ngôn ngữ, thơ ca phải tính đến
kiểu tố chức đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là kiểu tổ chức “quái
đản”. Dưới áp lực của cấu trúc ngôn ngữ khác thường này, ngữ nghĩa của từ
trong thơ không dừng lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển mà
mang thêm những nét nghĩa phong phú, sâu sắc và đôi khi rất tinh tế. Đó là
thứ nghĩa được tạo sinh nhờ quan hệ và trong quan hệ giữa từ ngữ với nhau.
Ví dụ, khi tác giả Hồng Nguyên viết “Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau”
thì chính trong quan hệ với những yếu tố trước và sau nó mà từ “ đột kích”
được cấp cho một nét nghĩa mới chỉ có trong bài thơ, gợi lên những rung
động thẩm mỹ đặc biệt. Hay trong câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ “Em đã lấy
tình yêu của mình thắp lên ngọn lửa” thì sự kết hợp bất thường về nghĩa “tình
yêu … thắp… lửa” đã mở ra cho người đọc những liên tưởng hết sức thú vị.
Trong đời thường, khi nói tới việc “thắp lửa” người ta nghĩ đến phương tiện
như: cái bật lửa, que diêm ... hay là dùng nguyên liệu như dầu hỏa. Ở đây, nhà
thơ lại thay nó bằng một chất liệu rất trừu tượng thuộc lĩnh vực tinh thần. Và
trong quan hệ với chất liệu trừu tượng đó, nghĩa bề mặt của ngọn lửa bị mờ
đi, mở ra những nghĩa mới. Đó là chân lý, niềm tin, lý tưởng cuộc đời...
Định lượng số tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với
một mật độ dày đặc các phương tiện nghệ thuật trong thơ so với văn xuôi.

12



Nhiều lúc trong một bài thơ, người ta có thể thấy sự xuất hiện cùng một lúc
các phương tiện tu từ khác nhau như ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng, điệp từ,
điệp ngữ. Ví dụ như bài ca dao sau đã đã thể hiện rõ điều đó:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề.”
(Bài ca dao số 4 - Ngữ văn 10- tập 1- trang 83)
Bài ca dao ngắn, với số lượng từ không nhiều nhưng bằng các biện
pháp tu từ (cách sử dụng ngôn ngữ) đã thể hiện được tâm trạng khắc khoải
nhớ mong của nhân vật trữ tình, nó sẽ là ấn tượng không phai mờ trong lòng
độc giả.
Hay trong bài thơ “Ta đi tới” của nhà thơ Tố Hữu, với biện pháp tu từ
bằng cách dùng từ ngữ để so sánh cũng đã thể hiện rõ điều đó:
Ta đi tới trên đường ta bước tiếp
Rắn như thép, vững như đồng.
Đội ngũ ta trùng trùng, điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chí ta lớn như biển Đông trước mặt!
(Tố Hữu, Ta đi tới)
Rồi, cũng bài thơ “Ta đi tới” của nhà thơ Tố Hữu, với biện pháp tu từ


13


hoán dụ đã khắc họa sâu sắc được tâm trạng của nhân vật trữ tình nói riêng,
và tâm trạng của người dân Việt Nam nói chung:
Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa.
Chúng nó chẳng còn mong được nữa
Chặn bàn chân một dân tộc anh hùng.
Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn
Đã bước dưới mặt trời cách mạng
(Tố Hữu, Ta đi tới)
Thứ ba, ngôn ngữ thơ có tính truyền cảm. Tính truyền cảm cũng là đặc
trưng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, bởi tác phẩm văn học
là sản phẩm thể hiện của cảm xúc của người nghệ sỹ trước cảnh đời, cảnh
người, trước thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương phải
biểu hiện được cảm xúc của tác giả và phải truyền được cảm xúc của tác giả
đến người đọc, khơi dậy trong lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ theo
cách của họ. Tuy nhiên, do đặc trưng của thơ là tiếng nói trực tiếp của tình
cảm, trái tim nên ngôn ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt hơn.
Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ ưu tiên chú trọng miêu tả cái
khách quan như ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự. Nếu nhà văn dùng ngôn ngữ
để thuyết minh, miêu tả, nhắn nhủ, giải thích...thì thay vào đó nhà thơ dùng
ngôn ngữ chủ yếu để truyền cảm. Khi Quang Dũng viết:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
(Quang Dũng,Tây Tiến)
Quang Dũng không có ý hỏi ai lên Châu Mộc trong buổi chiều sương
nào đó có nhìn thấy phong cảnh hữu tình không mà tác giả khơi trong ta nỗi


14


nhớ thương mất mát , nuối tiếc ngậm ngùi, những ngày tháng, những kỉ niệm,
những ảo ảnh đã tan biến trong đời. Quang Dũng đã gợi trong ta một trạng
thái tâm lý liên tưởng bằng cách hồi sinh những gì đã mất, đồng thời phản ánh
tâm trạng của chính mình.
Lời thơ thường là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ chủ thể với
cuộc đời. Là lời đánh giá trực tiếp, thể hiện tâm trạng cho nên sự lựa chon từ
ngữ, phương thức tu từ trong thơ bao giờ cũng làm cho nội dung cảm xúc,
thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán, ca ngơi trở nên nổi bật:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu.
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước)
Ở đây, mỗi câu thơ như đều mang một từ tập trung sức nặng của tình
cảm. Những tập từ đó như là những tiêu điểm để ta nhìn thấu vào tâm hồn tác
giả. Tính truyền cảm của ngôn ngữ không chỉ biểu hiện qua cách lựa chọn từ
ngữ, các phương thức tu từ mà còn biểu hiện qua nhạc điệu của thơ. Chẳng
hạn như hai câu thơ:
“ Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn”
(Tố Hữu, Em ơi Ba Lan)
Sự tập trung dày đặc các nguyên âm có độ mở rông và phụ âm mũi
vang khiến câu thơ nghe giàu tính nhạc, ngân dài như âm vang của sóng biển
vỗ bờ. Nhạc tính đó không đơn thuần chỉ là sự ngân nga của ngôn ngữ mà
chính là khúc nhạc hát lên trong lòng người đọc.
Tóm lại, thơ là một hình thái nghệ thuật ngôn từ đặc biệt cao quý, tinh
vi và sáng tạo của văn học nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ
mang tính nghệ thuật. Nó là thứ ngôn ngữ trước hết vừa mang đầy đủ thuộc

tính của ngôn ngữ cộng đồng vừa mang đặc trưng chung của văn học nghệ
thuật. Nhưng nó là thứ ngôn ngữ văn học nghệ thuật đặc biệt, theo đó vừa

15


chứa đựng tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, vừa có tính tạo hình và
tính biểu cảm cao. Tuy nhiên ở mỗi loại tác phẩm thơ khác nhau, những đặc
điểm ấy lại biểu hiện dưới những sắc thái và mức độ khác nhau.
1.1.2. Cách hiểu về thơ lục bát
Lục bát là thể thơ dân tộc mang đậm bản sắc và phong vị quê hương.
Thơ lục bát rất dễ thuộc và dễ nhớ vì lời thơ giản dị, mộc mạc, có sự kết hợp
giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường. Câu thơ đọc lên mà cứ ngỡ là câu
hát hay một bản nhạc, vừa có vần vừa có điệu nghe rất thanh thoát và êm tai.
Có nhiều câu lục bát đã đi vào lòng người như một lời ru:
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
(Ca dao)
Đó còn là hình ảnh của đôi thanh niên nam nữ trong buổi đầu làm quen:
Gặp đây mận mới hỏi đào,
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ?
Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
(Ca dao)
Trong quyển "Từ điển Thuật ngữ Văn học" thì định nghĩa về lục bát
như sau: "Lục bát là thể thơ câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ". Riêng ở
quyển "Từ điển Văn học", tác giả Phương Lựu lại khẳng định như sau: "Đây
là một thể thơ cách luật cổ điển thuần tuý Việt Nam"

Còn ý kiến về thơ lục bát của Phương Lựu - Trần Đình Sử - Nguyễn
Xuân Nam - Lê Ngọc Trà - La Khắc Hòa - Thành Thế Thái Bình trong quyển
"Lí luận văn học" như một định nghĩa ngắn gọn, dễ hiểu và đầy đủ "Lục bát là

16


thể thơ cứ một dòng sáu chữ tiếp đến một dòng tám chữ. Thơ dài bao nhiêu
cũng được miễn là dừng lại ở dòng tám. Đó là thể thơ quen thuộc của dân
tộc. mang cốt cách thuần túy Việt Nam ..Chữ cuối của dòng sáu hiệp vần với
chữ thứ sáu của dòng tám. Chữ cuối của dòng tám lại hiệp vần với chữ cuối
của dòng sáu dưới. Như thế ngoài vần chân (cước vận)có cả hai dòng sáu và
tám, lại có vần lưng (yêu vận) ở dòng tám. Cứ hiệp vần như thế cho đến hết
bài ".[24 - tr.451]
Nhìn chung, những khái niệm về thơ lục bát trên đây là tương đối thống
nhất với nhau. Vì thế đã có thể giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về thể thơ
lục bát để từ đó góp phần nhận diện về lục bát một cách sâu sắc và rõ ràng hơn.
1.1.3. Thơ lục bát là một thể thơ đặc trưng của tiếng Việt.
Thông thường mỗi dân tộc đều có một thể thơ đặc trưng (tương hợp lớn
nhất với tiếng nói của chính cộng đồng ấy). Lục bát chính là thể thơ đặc trưng
cho nền thơ ca tiếng Việt. Chính vì vậy, người luyện đan chữ nghĩa – Nguyễn
Tuân đã từng nói rằng, làm cho tôi món luộc tôi sẽ cho anh biết thịt hàng anh
như thế nào và cho tôi xin một ít lục bát, tôi sẽ thưa anh có phải nhà thơ thứ
thiệt hay không. Tại sao lấy thơ lục bát mà không phải thể thơ nào khác để sát
hạch tay nghề của các nghệ sĩ ngôn từ? Bởi vì ở Việt Nam, văn học dân gian
có vị trí và vai trò rất quan trọng. Trong những năm Bắc thuộc và ở thời kỳ
dân tộc chưa có chữ viết hoặc chữ viết chưa phổ cập, nó có đóng góp lớn
trong việc phát triển ngôn ngữ dân tộc, thể hiện và nuôi dưỡng tâm hồn nhân
dân. Tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc của văn học dân gian từ nội dung tới
hình thức đã có tác động lớn tới sự hình thành và phát triển của văn học viết.

Trong mười hai thể loại của văn học dân gian Việt Nam thì ca dao là thể loại
phong phú, đa dạng cả về số lượng, nội dung, chủ đề, đề tài. Nó đã được
nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, văn học, ngôn ngữ học... tìm hiểu, nghiên cứu,
khám phá, phát hiện cái hay, cái đẹp. Trong thực tế nhiều giá trị nội dung như

17


×