Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tác động của các khu công nghiệp đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.38 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TRẦN TIẾN DŨNG

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA TỈNH HƯNG YÊN

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số :
60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ ĐINH QUANG TY

HÀ NỘI, 2007

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc hình thành các KCN, KCX ở Việt Nam được bắt đầu đặt ra từ năm
1986. Đây là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chủ trương xây dựng và phát
triển KCN, KCX được Đảng và Nhà nước ta đưa ra trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng
lý luận chung về phát triển kinh tế thị trường, kinh nghiệm của các nước trong khu
vực và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Trong nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng, tiếp đến Đại hội VIII, IX và X, định hướng chiến lược xây


dựng và phát triển các KCN đã được triển khai trong cả nước, từng bước được bổ
sung, hoàn thiện và chứng tỏ tính đúng đắn qua sự kiểm chứng của đời sống thực
tiễn. Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc xây dựng, phát triển các
KCN, văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “ Quy hoạch phân bố hợp lý
công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế
xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và
khu kinh tế mở” [10]. Tiếp tục chủ trương này, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ
phát triển KT - XH 5 năm 2006-2010 đã được Đại hội X thông qua, có đoạn nhấn
mạnh: “ Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả
nước; hình thành vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với
bảo đảm các điều kiện sinh hoạt cho người lao động” [11].
Trong quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam,
nhiều KCN, KCX đã đáp ứng các mục tiêu thu hút vốn, công nghệ, tạo nguồn lực
xuất khẩu, giải quyết việc làm và đã có những đóng góp đáng kể vào tăng trưởng
chung của nền kinh tế.
Thực tiễn trong nước hơn một thập niên vừa qua cho thấy, một số KCN đã
thể hiện khá rõ vai trò là mũi đột phá, là động lực thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất
nước. Ngoài ra, các KCN còn góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT, cơ
cấu lao động xã hội và thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
nhiều địa phương và cả nước. Đồng thời, với vai trò là hạt nhân thúc đẩy sự hình
thành những đô thị mới, các KCN còn có ảnh hưởng quan trọng đến việc cải tạo và
phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, mở rộng các dịch vụ công cộng... Tuy nhiên, cho
đến nay, nhìn trên phạm vi cả nước, việc quy hoạch tổng thể mạng lưới các KCN

2


còn nhiều bất cập, hiệu quả KT - XH nhìn chung còn thấp nếu so sánh với một số
nước trong khu vực và nhất là so với các nước công nghiệp phát triển.
Riêng ở tỉnh Hưng Yên, từ năm 1997 đã xây dựng chiến lược phát triển KT XH đến năm 2010 và một số định hướng đến năm 2020, trong đó xác định “Hưng

Yên không thể làm giàu nếu chỉ dựa vào nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, do
vậy phải tập trung cao độ để phát triển nhanh mạnh, vững chắc công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp làm động lực cho phát triển nông nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực
khác”.
Ngay sau khi được tái lập (năm 1997), Tỉnh ủy và UBND đã chỉ đạo các cấp,
các ngành tiến hành quy hoạch các khu, cụm công nghiệp và đã dành những mặt
bằng có vị trí thuận lợi nhất để xây dựng các KCN. Đến nay, tỉnh đã quy hoạch
được 5 KCN tập trung nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư (trong đó 2 khu đã có
quyết định thành lập, hoạt động theo quy chế KCN): Như Quỳnh A, Như Quỳnh B,
Phố Nối A, Phố Nối B, thị xã Hưng Yên. Đồng thời, Tỉnh ủy đã có Nghị quyết
“Đẩy mạnh hợp tác đầu tư trên địa bàn tỉnh Hưng Yên”; UBND đã ban hành quy
định hướng dẫn việc thực hiện thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư và quy định quản lý
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỉnh ngoài trên địa bàn Hưng Yên. Đây là
những văn bản tạo cơ sở pháp quy bước đầu cho việc thống nhất quản lý hoạt động
đầu tư trên phạm vi của địa phương. Để khuyến khích thu hút đầu tư, tỉnh chủ
trương cho các dự án được hưởng các chính sách ưu đãi ở mức tối đa theo các quy
định của Chính phủ. Thủ tục cấp giấy phép đầu tư tương đối đơn giản và nhanh
chóng, đối với các dự án đặc biệt có thể được tỉnh cho phép hưởng thêm các ưu đãi
khác.
Đến tháng 6 năm 2005, đã có 374 dự án đầu tư vào địa bàn Hưng Yên, với
tổng số vốn đầu tư đăng ký là 16.625 tỷ đồng; trong đó đã có 160 dự án đã đi vào
hoạt động. Sự hình thành và phát triển các khu, cụm công nghiệp đã tạo ra động thái
phát triển mới của ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh, với mức tăng trưởng khá
cao: giai đoạn 1997-2000 mức tăng trưởng bình quân đạt 60,35%/năm; giai đoạn
2001-2005 đạt bình quân 26,7%/năm. Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp đạt
5.925 tỷ đồng (tính theo giá cố định năm 1994). Như vậy, sau 8 năm tái lập, giá trị
sản xuất công nghiệp của Hưng Yên đã tăng gấp 16,7 lần so với năm 1996. Sự phát
triển của các ngành công nghiệp đã góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
CCKT của tỉnh theo hướng CNH, HĐH. Năm 1997, trong cơ cấu GDP của tỉnh,


3


nông nghiệp - thủy sản chiếm tỷ trọng 51,87%, công nghiệp - xây dựng 20,26%,
dịch vụ là 27,87%; đến năm 2005 CCKT tương ứng là: 30,5% - 38% - 31,5%; thu
nhập bình quân đầu người đạt 7,3 triệu đồng/năm.
Bên cạnh những tác động tích cực đến quá trình phát triển KT - XH của địa
phương, các KCN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên cũng gặp phải không ít những vướng
mắc về cơ chế chính sách và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức gây
ảnh hưởng bất lợi đến hiệu quả phát triển KT - XH: Còn có những biểu hiện lúng
túng trong việc thiết kế và hoàn thiện quy hoạch phát triển KCN. Hệ thống chính
sách phát triển KCN còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục bổ sung và hoàn thiện; việc
xây dựng và phát triển hạ tầng các KCN còn nhiều bất cập; việc đền bù, giải phóng
mặt bằng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. BQL các KCN cấp tỉnh và thủ tục hành
chính trong KCN còn nhiều mặt chưa hợp lý. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ và chăm
lo đời sống công nhân trong các KCN còn nhiều khó khăn. Việc xây dựng các tổ
chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp ở các KCN cũng nảy sinh nhiều vấn đề
mới, chưa có hướng giải quyết hợp lý,...
Xuất phát từ tình hình nêu trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tác động
của các khu công nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên“
để thực hiện luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị, với hy vọng sẽ
có những đóng góp nhất định vào công cuộc đổi mới và phát triển của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề phát triển các KCN, trong những năm gần đây ở nước
ta đã có một số đề tài nghiên cứu, nhiều hội thảo khoa học và các bài viết được công
bố trên các tạp chí, kỷ yếu khoa học.
Ở đây, xin điểm qua một số công trình có liên quan gần với đề tài luận văn:
Luận án PTS kinh tế của Nguyễn Xuân Thu (thực hiện năm 1992), về “Xây
dựng phương pháp đồng bộ hoá một khu công nghiệp ở Việt Nam khi chuyển sang
nền kinh tế theo cơ chế thị trường (lấy KCN Hưng Yên làm đối tượng thể hiện)”;

Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Ngọc Hưng, với đề tài “Các giải pháp hoàn
thiện và phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam”;
Luận án tiến sĩ kinh tế của Lê Tuyển Cử (thực hiện năm 2004): “Những biện
pháp phát triển và hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp ở
Việt Nam”;

4


Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Xuân Hinh (thực hiện năm 2003), về
“Quy hoạch và phát triển khu công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”;
Sách chuyên khảo “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực pháp lý
quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất” của
Trương Thị Minh Sâm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004;
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Thu Hương về “Hoàn thiện công tác xúc
tiến đầu tư nhằm phát triển các khi công nghiệp ở Việt Nam”;
Các bài viết: “Khu công nghiệp, khu chế xuất với cơ hội đầu tư ở Việt Nam”,
đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo của TS Phạm Quang Châu; và “Đầu tư vào
Hưng Yên - tiềm năng và cơ hội”, đăng trên Tạp chí Kinh tế - Hội nhập của tác giả
Hà Thuỷ; v.v…
Các công trình nói trên có giá trị tham khảo rất bổ ích đối với tác giả luận văn;
tuy nhiên chưa đi sâu vào việc đánh giá, phân tích tác động của các KCN đối với sự
phát triển KT - XH của tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ tác động của các KCN hiện có ở tỉnh Hưng Yên đối với
sự phát triển KT - XH địa phương.
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy và nâng cao tác động tích
cực của các KCN ở tỉnh Hưng Yên đối với sự phát triển có KT - XH của địa
phương trong giai đoạn sắp tới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau

đây:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về KCN và một số kinh nghiệm thực
tiễn trong nước về việc hình thành, phát triển các KCN;
- Tập hợp, xử lý, phân tích các tài liệu, các số liệu thống kê để làm rõ những
tác động chủ yếu của các KCN hiện có ở tỉnh Hưng Yên đối với sự phát triển KT XH, những mặt được, chưa được và các nguyên nhân tương ứng.
- Làm rõ căn cứ khoa học và thực tiễn trong việc xây dựng và đề xuất các
giải pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các KCN hiện đang hoạt động tại tỉnh Hưng Yên và những tác động chủ yếu
của chúng.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khảo sát quá trình hình thành, phát triển và phân tích những tác động chủ
yếu của các KCN đến sự phát triển KT - XH ở tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm
2005; bàn các giải pháp tương ứng cho giai đoạn 2006 - 2010 và đặt trong tầm nhìn
đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để khảo sát đối tượng nghiên cứu và đạt được mục đích, nhiệm vụ đã xác
định, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, áp dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp, đối chiếu và so sánh, kết hợp logic với lịch sử, khảo sát thực tế,...
Công trình này có sử dụng số liệu thống kê của trung ương và địa phương;
chắt lọc, tham khảo các kết quả nghiên cứu đã có về các KCN.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn khái niệm, vai trò của KCN trong nền kinh tế thị
trường; bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm thực tiễn của một số tỉnh, thành phố

trong nước về phát triển các KCN.
- Làm rõ những tác động chủ yếu của các KCN hiện có tại tỉnh Hưng Yên
đến sự phát triển KT - XH ở giai đoạn 1997 - 2005.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp thúc đẩy các KCN của
tỉnh Hưng Yên phát triển hợp lý và có hiệu quả hơn trong giai đoạn 2006 - 2010 và
các năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương và 8 tiết:
Chương 1: Khu công nghiệp: một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn;
Chương 2: Các khu công nghiệp hiện có tại tỉnh Hưng Yên - lịch sử hình
thành, phát triển và những tác động chủ yếu của chúng;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát huy tác động của các khu công
nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2006-2010 và đến năm 2020.

6


Chương 1
KHU CÔNG NGHIỆP: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN TRONG NƯỚC
1.1. Khu công nghiệp nhìn dưới góc độ lý luận
1.1.1. Một số khái niệm có liên quan
Trong khuôn khổ của luận văn, dưới đây chúng tôi tập trung làm rõ hơn khái
niệm về khu chế xuất, và khái niệm về khu công nghiệp.
1.1.1.1. Khu chế xuất
Sau chiến tranh thế giới thứ II, vào thập kỷ 60, từ những thay đổi trong môi
trường kinh tế - kỹ thuật của nền kinh tế thế giới, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra với
quy mô và tốc độ ngày càng lớn, đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hóa thương

mại và đầu tư. Trước những tác động khách quan đó, các nền kinh tế ngày càng phụ
thuộc vào nhau nhiều hơn và hầu hết đều có xu hướng mở cửa theo quỹ đạo của nền
kinh tế thị trường.
Tại các nước công nghiệp phát triển, đã xuất hiện một loạt yếu tố làm giảm
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Trong khi đó, các nước
đang phát triển vừa mới giành được độc lập dân tộc lại ở trong tình trạng rất khó
khăn, thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu tư và ngoại tệ để khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập. Trong tình hình nói trên, đã
xuất hiện “sự gặp nhau” về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước phát triển và các
nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân công và nguyên liệu giá rẻ
đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp dùng
nhiều lao động và tài nguyên ra nước ngoài, đến các nước đang phát triển có khá
sẵn những yếu tố này. Đối với các nước đang phát triển, việc thu hút vốn đầu tư,
công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nước phát triển trở thành một giải pháp
lớn, có tính “cứu cánh” để giải quyết những vấn đề kinh tế bức xúc và để tạo đà
tăng trưởng cho toàn bộ nền kinh tế.
Các KCX chính là một hình thức tạo ra những điều kiện để có thể lợi dụng
và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một vùng, bằng cách
tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Xét về mặt lợi ích và hiệu quả

7


theo lý thuyết về lợi thế so sánh, và như đã được thực tiễn mấy thập kỷ gần đây
kiểm chứng, KCX là nơi hội tụ lợi ích của các nước đang phát triển và của các công
ty xuyên quốc gia, nơi hội tụ chủ yếu nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các KCX được thành lập nhằm tạo ra một khu vực chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của nước nhận đầu tư. Thuật
ngữ KCX được hiểu theo nhiều cách khác nhau; điển hình nhất là định nghĩa của Tổ
chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) và của Hiệp hội Các KCX thế

giới (WEPZA).
Theo quan điểm của UNIDO, trong tài liệu “KCX tại các nước đang phát
triển” (Export Processing Zone in Developing Countries) công bố năm 1990 thì
“KCX là khu vực tương đối nhỏ phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia, nhằm
mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách
cung cấp cho ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận
lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Trong đó đặc biệt là
KCX cho phép nhập khẩu cho sản xuất để miễn thuế ” [7].
Theo Điều lệ hoạt động của WEPZA: “Khu chế không chỉ bao gồm khu vực
công nghiệp chuyên môn hóa sản xuất, mà còn bao gồm tất cả các khu vực được
chính phủ các nước cho phép như khu cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu quá
cảng...” [7], “ hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA
công nhận”. Như vậy, theo khái niệm này, KCX được hiểu theo nghĩa rộng hơn,
bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ nước nhận đầu tư cho phép như cảng tự
do, khu mậu dịch, khu vực ngoại thương tự do, những khu vực được miễn thuế.
Khái niệm này đã được bổ sung bằng những quan điểm mới như khu kinh tế mở,
đặc khu kinh tế, phù hợp với nhu cầu phát triển của các mối quan hệ thương mại và
đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng, cũng như xuất phát từ những nhu cầu bức
thiết của quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của các nước đang phát
triển.
KCX là mô hình kinh tế mà các nước đang phát triển, nhất là các nước châu
Á đã sử dụng như một công cụ tích cực nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh
công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Thông qua việc sử dụng các KCX, các nước
đang phát triển đã tìm thấy ở mô hình kinh tế này một giải pháp trung gian phù hợp,
cho phép chuyển mạnh nền kinh tế theo định hướng xuất khẩu. Đối với mục tiêu

8


thành lập KCX nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng trưởng xuất khẩu, tạo

công ăn việc làm, tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, học tập kinh nghiệm quản
lý của các công ty xuyên quốc gia, thì mô hình KCX đã từng là một thực thể kinh tế
năng động, phản ánh những biện pháp kinh tế, chính sách, luật pháp đặc biệt nhằm
tăng trưởng kinh tế, từng bước đưa các nước đang phát triển hòa nhập vào nền kinh
tế thế giới. Tuy nhiên, không phải tất cả các KCX đã được thành lập tại các nước
đều hoạt động thành công, do nhiều nguyên nhân dẫn đến những thất bại, trong đó có
thể kể tới:
- Có quá nhiều KCX được thành lập ở một số nước gần nhau, tập trung với
mật độ cao trong một khu vực có những điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý gần giống
nhau, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Ngoài mục tiêu xuất khẩu, các nước có KCX đều hy vọng sẽ tạo ra nhiều
công ăn việc làm, lợi dụng được kỹ thuật và kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài.
Trên thực tế các mục tiêu này không dễ đạt được.
- Do yêu cầu tăng xuất khẩu hàng hóa và nguồn thu ngoại tệ, đồng thời phải
bảo hộ nền sản xuất trong nước, các nước đều buộc các doanh nghiệp trong KCX
phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường nước ngoài. Điều này dẫn đến các
doanh nghiệp trong KCX buộc phải cạnh tranh khốc liệt trong việc tìm kiếm thị
trường tiêu thụ ở nước ngoài, trong khi đó họ bị khép kín theo quy chế KCX đối với
thị trường nội địa, nơi có nhu cầu tiêu thụ tương đối lớn.
Các KCX nhìn chung đã có ảnh hưởng tích cực đến kinh tế của nhiều nước
đang phát triển. Tuy nhiên, theo xu hướng tự do hóa đầu tư và tự do hóa thương mại
ngày càng tăng, thì vai trò của mô hình KCX đã giảm dần, phải nhường bước cho
mô hình mới thích hợp hơn.
1.1.1.2. Khu công nghiệp
Sau một thời gian phát triển, mô hình kinh tế KCX đã bộc lộ một số hạn chế
như đã trình bày ở trên. Để khắc phục những hạn chế này, nhiều nước đã chuyển
sang xây dựng một loại hình kinh tế uyển chuyển hơn, năng động hơn - đó là KCN.
Sự thay đổi này là phù hợp với xu thế phát triển và mở cửa của nền kinh tế thị
trường thế giới và quan hệ hợp tác kinh tế hiện đại.
Với mô hình KCN, thị trường nội địa của nước nhận đầu tư được tính đến

như là một yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài - đối tượng đầu tư chủ

9


yếu, bằng việc nới lỏng cho họ nhiều quy chế. Với mô hình kinh tế này, thị trường
nội địa trở thành yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, hứa hẹn tiềm năng tiêu
thụ rất lớn, trong khi thị trường thế giới ngày càng trở nên bão hòa với những sản
phẩm của các doanh nghiệp trong KCX, vốn tương đối giống nhau cả về chủng loại
và chất lượng. Bên cạnh đó, việc mở rộng thị trường nội địa là phù hợp với xu
hướng tự do mậu dịch khu vực và thế giới.
Việc hàng hóa của các doanh nghiệp trong KCN được tiêu thụ trong nước
góp phần đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu từ bên ngoài. Đây là yếu tố kích thích
cạnh tranh, nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, do không bị sức
ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra nước ngoài; đồng thời, do có những điều
kiện kinh doanh dễ dàng hơn so với KCX, nên mô hình kinh tế KCN cũng được các
nhà đầu tư trong nước đặc biệt quan tâm.
Trên thế giới hiện nay, nhìn tổng thể, có hai loại mô hình KCN khác nhau,
tùy vào điều kiện cụ thể của từng nước.
- Loại thứ nhất: là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp,
dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở... Loại hình
này về thực chất là những khu hành chính - kinh tế, điển hình là một số KCN ở
Indonesia, Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
- Loại thứ hai: là khu vực lãnh thổ, có giới hạn nhất định, tập trung các
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh
sống. Nơi có nhiều KCN theo loại hình này là Singapore; ngoài ra, ở Đài Loan và
một số nước khác cũng có một số khu theo mô hình tương tự và đã hoạt động khá
thành công.
Đối với Việt Nam, khái niệm về KCN và một số thuật ngữ có liên quan,

được quy định tại Chương I và Chương II Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao,
ban hành kèm theo Nghị định số 36-NĐ/CP, ngày 24 tháng 4 năm 1997 của Chính
phủ.
Theo đó, KCN được xác định “là khu tập trung các doanh nghiệp công
nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất
công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Hưng Yên (2007), Báo cáo tổng hợp tình
hình thu hút đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp trong các khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên năm 2006.
2. Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Hưng Yên (2007), Báo cáo tình hình
phát triển các khu công nghiệp của tỉnh Hưng Yên (Báo cáo Tổng Bí thư Nông
Đức Mạnh về thăm và làm việc tại tỉnh Hưng Yên, đến thăm khu công nghiệp).
3. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Hưng Yên (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVI.
4. Chính phủ (1997), Nghị định số 36/CP, ngày 24 tháng 4 năm 1997, Về việc ban
hành Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
5. Cục thống kê tỉnh Hưng Yên, Niên giám thống kê: 1997 - 2005.
6. Cục thống kê tỉnh Hưng Yên (2006), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều
tra năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005.
7. Mai Ngọc Cường (1993), Các khu chế xuất châu Á-Th¸i B×nh D-¬ng, Nxb
Thèng kª, Hµ Néi.
8. Trần Thị Mỹ Diệu, Nguyễn Trung Việt (2003), "Khu công nghiệp sinh thái,
những khái niệm cơ bản", Tạp chí Bảo vệ môi trường, (11).
9. Nguyễn Hữu Dũng (2006), "Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động và
việc làm ở Việt Nam", Tạp chí Lao động và Xã hội, (291), tr.42-43.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Minh Đức (2003), "Chủ động và năng động Bình Dương", Trang tin
điện tử Tạp chí cộng sản, địa chỉ , (33).
13. Đỗ Hữu Hào (2006), "Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất đối với việc
nâng cao trình độ công nghệ, quản lý doanh nghiệp và hiện đại hóa hệ thống kết
cấu hạ tầng", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

14. Lê Văn Học (2006), "Thành tựu và những bài học kinh nghiệm qua 15 năm xây
dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam", Trang tin
điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ
15. Hiệp hội doanh nghiệp Hưng Yên (2006), "Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh(PCI)", Bản tin doanh nghiệp-Doanh nhân Hưng Yên.

11


16. Lê Phương Hiếu (2006), "Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, (8),
tr.7, 8.
17. Trần Ngọc Hưng (2007), "Cần nhanh chóng hoàn thiện cơ chế quản lý và tổ
chức bộ máy quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao, khu kinh tế cho phù hợp với pháp luật về đầu tư", Trang tin điện
tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ
18. Trần Ngọc Hưng (2007), "Một số vấn đề về công tác thanh tra, kiểm tra khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế", Trang tin điện tử Tạp chí khu công
nghiệp, địa chỉ
19. Vũ Văn Hòa (2006), "Quy hoạch phát triển khu chế xuất, khu công nghiệp, cum

công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp trong giai đoạn 2006 2010", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

20. Lê Doãn Huyền (2006), "Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác xúc tiến
đầu tư vào các khu công nghiệp", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp,
địa chỉ
21. Nguyễn Thường Lạng (2006), "Quan điểm chủ yếu về phát triển khu công
nghiệp trong điều kiện hội nhập tổ chức thương mại thế giới", Trang tin điện tử
Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ
22. Trúc Lâm (2006), Vai trò của các khu công nghiệp trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

23. Nguyễn Công Liêm (2006), "Khu công nghiệp và tác động lan tỏa đối với
doanh nghiệp Việt Nam", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

24. Hồ Nga (2006), "Thực trạng về môi trường các khu công nghiệp, khu chế xuất
các tỉnh phía Bắc và bài học kinh nghiệm", Tạp chí Công nghiệp, Kỳ 1 tháng
8/2006, tr.12-14.
25. Sở Công nghiệp tỉnh Hưng Yên (2005), "Những thành tựu công nghiệp Hưng
Yên", Công nghiệp Hưng Yên trên đường phát triển, Đặc san chào mừng kỷ
niệm 60 năm ngày truyền thống ngành công nghiệp (28/8/1945 - 28/8/2005),
tr.5.

12


26. Chu Thành Thái (2006), "Khu công nghiệp, khu chế xuất với vấn đề bảo vệ môi
trường và các tác động về mặt xã hội", Trang tin điện tử Tạp chí khu công
nghiệp, địa chỉ
27. Diệu Thúy-Hoàng Giang (2003), "Hưng Yên, điểm sáng phát triển các khu
công nghiệp", Tạp chí Công nghiệp, (12), tr.36.

28. Bùi Sĩ Tiếu (2007), "Phát triển khoa học, công nghệ thúc đẩy quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (7/127), tr.43, 47.
29. Tỉnh ủy Hưng Yên (2007), Báo cáo tình hình thực hiện những nhiệm vụ kinh tếxã hội, xây dựng Đảng của Đảng bộ Hưng Yên (Báo cáo của Ban thường vụ
tỉnh ủy tại buổi làm việc với Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tại Hưng Yên, ngày
13, 14 tháng 4 năm 2007).
30. Bùi Đức Tuấn, Vũ Thành Hưởng, Vũ Cương (2007), "Vấn đề phát triển bền
vững các khu công nghiệp", Tạp chí khu công nghiệp Việt Nam, (77), tr.26, 28
31. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2005), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội năm 2005 và mục tiêu, nhiệm vụ năm 2006.
32. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2006), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội năm 2006 và mục tiêu, nhiệm vụ năm 2007.
33. Nguyễn Văn Việt (2007), "11 năm xây dựng các khu công nghiệp và chế xuất
Hà Nội", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

34. Đỗ Hồng Yến (2006), "Đổi mới quan điểm quy hoạch khu công nghiệp, khu
chế xuất ở Việt Nam", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

35. Website Tổng cục thống kê, Trang tin điện tử Tổng cục thống kê, địa chỉ

36. Website tỉnh Hưng Yên, Trang tin điện tử tỉnh Hưng Yên, địa chỉ


13



×