Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Các biện pháp quản lý nhằm tăng cường hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên trường cao đẳng công nghiệp nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.34 KB, 13 trang )

Đại học Quốc gia Hà Nội
Khoa Sư phạm

Các biện pháp quản lý nhằm tăng cƣờng hoạt động tự
học ngoại ngữ của sinh viên trƣờng Cao đẳng
Công nghiệp Nam Định
Hoàng Văn Chính
Luận văn ThS. Giáo dục học
Hà Nội 2008

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, giáo dục- đào tạo có vai trò rất quan trọng là đào tạo cho xã hội nguồn nhân
lực có chất lượng “vừa hồng, vừa chuyên” như lời Bác Hồ dạy : “cách học tập:..
lấy tự học làm cốt”. Nghị quyết TW 4 (khoá 7) đã chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng của
giáo dục và đào tạo là phải “ khuyến khích tự học”, “áp dụng những phương pháp
giáo dục sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”... Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng
toàn quộc lần thứ IX cũng nêu: “ Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những
động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện
để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững...” Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi
mới nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý
giáo dục thực hiện “ chuẩn hoá, hiện đại hoá”, phát huy tư duy khoa học và sáng
tạo, năng lục tự nghiên cứu của sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện
học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng các hình


thức chính quy và không chính quy, thực hiên tốt công tác xã hội hoá giáo dục để
cả nước trở thành xã hội học tập.
Tinh thần các nghị quyết của Đảng về giáo dục- đào tạo đã được thể chế hoá


trong Luật giáo dục. Điều 24- Luật giáo dục năm 1998, điều 28 Luật giáo dục sửa
đổi năm 2005 chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động sáng tạo cho người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ
năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho người học”. Ngày
20/4/1999 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT có chỉ thị 15/1999/CT cho các trường sư phạm,
trong đó có nêu vấn đề: “Đổi mới phương pháp giảng dậy và học tập, phát huy tính
chủ động, sáng tạo và năng lực tự học, tự nghiên cứu của học sinh, sinh viên.
Người thầy giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức, điều khiển, định hướng quá
trình dạy học, còn người học giữ vai trò chủ động trong quá trình học tập tiếp thu
kiến thức và tham gia nghiên cứu khoa học... Có ý thức xây dựng thói quen tự học,
tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính tích
cực, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.
Trong dự thảo đề án: Xây dựng xã hội học tập ở Việt nam, do Bộ Giáo dục
và Đào tạo phối hợp với hội khuyến học Việt Nam soạn thảo theo công văn số 167/
VPCP ngày 27/10/2003 của văn phòng Chính phủ, có đoạn viết: “ Cốt lõi của sự
học là “ con người ham muốn học và biết cách tự học”... Phát huy nội lực của
người học bằng tự học, tự rèn luyện lập thân, lập nghiệp... Dạy cho người học biết
cách tự tìm, tự tạo việc làm sau khi ra trường tiếp tục vừa làm, vừa học, thích ứng
với sự biến đổi nhanh chóng của công nghệ và thực tế sản xuất... Triển khai nhiều
hình thức cho người lớn tuổi và trẻ em thất học ở bên ngoài nhà trường cũng được
học và tự học thường xuyên liên tục, suốt đời... Động viên, khuyến khích, hỗ trợ


cho mọi người tự học...”. Như vậy tự học là một tư tưởng lớn trong chiến lược phát
triển giáo dục & đào tạo ở nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Quản lí giáo dục nói chung, quản lí dạy học nói riêng có nội dung cốt lõi là
quản lí các hoạt động của nhà trường, trong đó có hoạt động dạy học.
Dạy học là quá trình tương tác hoạt động giữ người dạy và người học, trong

đó người dạy thực hiện những tác động nhằm gây ảnh hưởng đến người học, trong
và bằng cách đó hình thành và phát triển hoạt động học- tự học cho người học.
Như vậy, quản lí hoạt động dạy học xét đến cùng là nhằm giúp cho người
học, học có kết quả và hiệu quả cao. Điều đó cũng có nghĩa, phải quản lí được hoạt
động tự học của họ, hình thành và phát triển cho người học năng lực tự học.
Trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định nói riêng và các trường đào tạo
nghề trong tỉnh nói chung đang trong quá trình thực hiện đổi mới giáo dục, đổi mới
phương pháp dạy học. Theo đó mục tiêu cần đạt được của nhà trường là phải biết
dạy cho học sinh, sinh viên biết cách học. Phương pháp giáo dục, thường xuyên
phải phát huy vai trò chủ động, khai thác kinh nghiệm của người học, coi việc bồi
dưỡng năng lực tự học, sử dụng phương tiện hiện đại và công nghệ thông tin để
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học.
Quản lý hoạt động dạy và học nói chung, quản lý việc tự học của sinh viên
nói riêng có vai trò rất quan trọng. Việc phát triển năng lực tự học cho sinh viên sẽ
góp phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của trường
Cao đẳng Công nghiệp Nam định
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi chọn đề tài: “Các biện pháp quản
lý nhằm tăng cường hoạt động tự học Ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng
Công nghiệp Nam Định” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu


Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động dạy học ngoại ngữ ở trường
Cao đẳng Công nghiệp Nam Định, đề xuất các biện pháp quản lý nhằm tăng cường
hoạt động tự học Ngoại ngữ của sinh viên trong trường.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lí hoạt động học tập ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng
Công nghiệp Nam Định.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu

Biện pháp quản lý nhằm tăng cường hoạt động tự học Ngoại ngữ của sinh
viên trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định.
4.Giả thuyết nghiên cứu
Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý hợp lý, khả thi để tăng cường hoạt
động tự học ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định sẽ
từng bước nâng cao chất lượng dạy học môn học và góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục - đào tạo của trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quản lý dạy học và quản lý hoạt
động tự học Ngoại ngữ của sinh viên.
- Nghiên cứu thực trạng về hoạt động tự học và quản lý hoạt động tự học
Ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm tăng cường hoạt
động tự học của sinh viên trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định .
6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý nhằm tăng cường hoạt
động tự học ngoại ngữ của sinh viên nội trú Trường Cao đẳng Công nghiệp Nam
Định
7. Phƣơng pháp nghiên cứu


7.1. Các phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống những vấn đề về lý
luận có liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài qua sách, báo và các tài liệu
tham khảo
7.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra: sử dụng mẫu phiếu điều tra với sinh viên, giáo viên,
cán bộ quản lý để nắm được về thực trạng tự học của sinh viên, về công tác quản lý
hoạt động tự học của trường.
+ Thống kê, phân tích tổng hợp, sử dụng số liệu sau điều tra

+ Các phương pháp hỗ trợ: trao đổi, phỏng vấn với sinh viên, giáo viên và
cán bộ quản lý
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục.
Luận văn được trình bày theo ba chương.
+ Chương 1 Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
+ Chương 2 Thực trạng công tác quản lí hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh
viên trường Cao đẳng Công nghiệp Nam định
+ Chương 3 Biện pháp quản lí nhằm tăng cường hoạt động tự học ngoại ngữ của
sinh viên trường Cao Đẳng Công Nghiệp Nam định


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
NGOẠI NGỮ CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG
1.1 Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ giữa thế kỷ 18 , cùng với sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp, khoa
học quản lí cũng phát triển, xuất hiện các học thuyết, các trường phái quản lí mới.
Chẳng hạn, Fredrick Winslow Taylor (1856- 1915) với thuyết quản lí khoa học;
Henry Fayol (1841-1925) với thuyết quản lí hành chính; Mary Parker Follet (18681933), Elton Mayor (1880-1949) thiên về trường phái quản lí theo quan hệ con
người; G.B. Watson (1878-1958); Douglas Hugo Munsterberge (1683-1916);
Abraham Maslow (1908-1970); Douglas Mc.Gregor (1906-1964) với thuyết quản
lí theo hành vi. Về thuyết quản lí tổ chức, phải kể đến Chester Irving Barnard
(1886-1961). Về các thuyết văn hoá quản lí có thuyết Z của William Ouchi, và đại
biểu của trào lưu này còn phải kể đến Thomas J. Peters, Robert H. Waterman,...
Trên nền tảng khoa học quản lí chung, khoa học quản lí giáo dục trên thế giới và
Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể.
Cũng từ giữa thế kỷ 18 này, trên thế giới đã xuất hiện những công trình về
thực tiễn hoạt động giáo dục của K. Raumer (1842, Đức), về cải cách giáo dục của
R. H. Quych (1868, Mỹ). Từ giữa và cuối thế kỷ 19, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên

cứu những vấn đề cụ thể về giáo dục, trong đó đề cập tới quản lí giáo dục như
K.Ker, A.Lavrôxki, M.I. Calinin, N.K. Crupxcaia, A.X. Makarencô...
Ở Việt Nam, một số tư tưởng, quan điểm về giáo dục cũng đã được các
nhà nghiên cứu đề cập tới trong các công trình nghiên cứu của mình như Ngô Sĩ
Liên (TK 15), Lê Quí Đôn (TK 18). Trong nửa đầu thế kỷ 19, Phan Huy Chú đã
nghiên cứu chi tiết, có hệ thống về công việc điều hành, tổ chức thi cử trong giáo
dục. Từ 1945, sau cách mạng tháng 8 thành công, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt
động sư phạm đã đề cập tới quản lí giáo dục, đặc biệt như Hồ Chủ Tịch trong “ Tư


tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có một hệ thống
các bài viết, bài nói về giáo dục.
Tiếp theo đó, có những tổng kết lí luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát
triển, quản lí giáo dục theo một số giai đoạn như Nguyễn Văn Huyên với cuốn “
Quá trình 16 năm xây dựng giáo dục - Hà nội, 1961”, Nguyễn Khánh Toàn với “20
năm xây dựng giáo dục - Hà nội, 1965”, Nguyễn Lân với “Lịch sử giáo dục thế
giới - Hà nội, 1958”,...
Trưởng thành, lớn mạnh theo sự phát triển kinh tế - xã hội, khoa học quản lí
giáo dục Việt nam dần dần hoàn thiện, tiếp cận với thế giới. Trong quá trình đó,
xuất hiện nhiều nhà quản lí giáo dục như Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đức Minh, Nguyễn
Ngọc Quang, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quang Phúc, Lê Sơn,...
Vào cuối thế kỷ 20, bước sang đầu thế kỷ 21, xuất hiện những nhà nghiên
cứu kết hợp với thực tiễn giáo dục ở Việt nam với những yếu tố hiện đại như Đặng
Quốc Bảo với “Về phạm trù nhà trường và nhiệm vụ phát triển nhà trường trong
bối cảnh hiện nay”, “ Quản lí giáo dục- nhiệm vụ và phương hướng”, NXB Đại
học - Hà nội, 1996; Nguyễn Quốc Chí- Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Bài giảng Cơ sở
khoa học quản lí ”, Hà nội 1996/2004; Nguyễn Văn Lê với “ Khoa học quản lí”,
1994; Bùi Văn Quân “động lực học tập và tạo động lực học tập”, Tạp chí giáo dục,
tháng 12/2005. Trang 47 “Quản lý giáo dục”, NXB giáo dục, 2007...
Nghiên cứu quản lý hoạt động tự học của sinh viên nói chung đã được thực

hiện trong một số nghiên cứu luận văn thạc sĩ QLGD. Theo hướng nghiên cứu này,
có thể kể đến một số công trình như: “Biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh
viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình” của tác giả Đỗ Thị Lan Hương; “Một
số biện pháp tăng cường quản lí nâng cao chất lượng dạy học môn ngoại ngữ ở
trung tâm Đào tạo bồi dưỡng cán bộ trường Đại học Hải Phòng” của tác giả
Nguyễn Phương Lan. Rõ ràng, những nghiên cứu về quản lý tự học của sinh viên
cao đẳng, đặc biệt là quản lí hoạt động tự học ngoại ngữ nhằm tăng cường năng lực


tự học cho sinh viên cao đẳng tuy đã được nhiều người quan tâm, song vẫn còn
nhiều hạn chế.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Tự học
Thông thường, tự học được hiểu là tự mình học lấy cho mình. Tuy nhiên,
chuyện tự học đề cập ở đây không phải chỉ được hiểu một cách đơn giản như vậy.
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi
cả cơ bắp, cùng các phẩm chất, rồi cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới
quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên
trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận
lợi,…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó
thành của mình”.
Giáo sư Vũ Văn Tảo nhận định: “Sự học dù dưới dạng nào, tại trường lớp
hoặc ngoài trường lớp, có người thầy hướng dẫn hoặc không có thầy, có sự hỗ trợ
của các phương tiện kỹ thuật, của công nghệ thông tin hoặc chưa, đều phải có sự tự
học… Học là một quá trình trong đó chủ thể tự biến đổi mình, tự làm phong phú
mình bằng cách thu lượm và xử lý thông tin từ môi trường sống xung quanh mình”.
Nhà giáo dục John Lubbock nói: “Cái gì ta tự học được thì mới thực là của
ta, hơn những cái người khác dạy cho ta”.
Tự học là nội lực của người học, là nhân tố quyết định sự phát triển của bản

thân người học. Có tự học mới phát triển được tư duy độc lập, từ chỗ có tư duy độc
lập mới có tư duy phê phán, có khả năng phát hiện vấn đề, nhờ đó mới có tư duy
sáng tạo. Tự học là quá trình tích cực, tự giác chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ
năng, kỹ xảo của chính bản thân người học. Nhờ có tự học, người học mới thực sự
nắm vững tri thức, làm chủ tri thức và vận dụng những tri thức đó vào thực tiễn
cuộc sống. Tự học có thể tóm tắt lại như sau: Trò học, cốt lõi là tự học, học cách


học, cách tư duy. Thầy dạy cốt lõi là dạy cách học, cách tư duy. Tác động dạy của
người thầy là ngoại lực đối với sự phát triển của người học. Theo quy luật phát
triển của sự vật, ngoại lực dù quan trọng đến đâu, lợi hại đến mấy cũng chỉ là nhân
tố hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện. Nội lực mới là nhân tố quyết định sự phát triển
của bản thân sự vật. Sự vật đó phát triển đến trình độ cao khi nội lực và ngoại lực
cộng hưởng được với nhau.
Hoạt động tự học là công việc mà mọi người có thể tiến hành ở mọi nơi,
mọi lúc, bằng mọi cách và với mọi nội dung. Nói như giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn
là thực hiện “5 mọi” trong học tập.
Khi bàn về vấn đề tự học, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười có ghi trong thư
gửi “Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo” ngày 06/01/1998
như sau: “Tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời mỗi con người
trong điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau, đó cũng là truyền
thống quý báu của con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu
quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi
biến được quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Quy mô giáo dục được mở rộng
khi có phong trào toàn dân tự học”.
Hoạt động tự học diễn ra với ba hình thức sau:
- Hình thức thứ nhất: Có sách, có tài liệu, người học tự tìm kiếm tri thức để
thoả mãn nhu cầu nâng cao, mở rộng hiểu biết của riêng mình, bổ sung, mở rộng
kiến thức ngoài chương trình đào tạo của nhà trường. Đây là tự học ở mức độ cao.
- Hình thức thứ hai: Có sách, có tài liệu, và có thêm người thầy ở xa hướng

dẫn tự học thông qua các phương tiện viễn thông. Hướng dẫn tự học từ xa là hướng
dẫn tư duy trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Đây là tự học có hướng dẫn.
- Hình thức thứ ba: Có sách, có tài liệu, có thầy trực tiếp hướng dẫn một số
tiết trong ngày, trong tuần. Tự học diễn ra dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể trước


của thầy và chịu sự kiểm tra kết quả sau tự học. Đây là hình thức trực tiếp có thầy
trên lớp và về nhà tự học theo hướng dẫn.
Trong đề tài này, căn cứ vào mục đích và phạm vi nghiên cứu, tác giả chỉ
đề cập đến hoạt động tự học theo hình thức thứ ba.
1.2.2. Sinh viên
Trong tiếng Pháp, từ “étudiant” (sinh viên) được cấu thành từ từ gốc
“étude” (học tập, nghiên cứu). Trong tiếng Anh, từ “student” (sinh viên) được cấu
thành từ, từ gốc “study” (học tập, nghiên cứu). Như vậy, sinh viên là những người
gắn liền với công việc học tập và nghiên cứu.
Về trình độ văn hoá, sinh viên là những người đã tốt nghiệp bậc học trung
học phổ thông và có đủ điều kiện để học tiếp các cấp học cao hơn như cao đẳng,
đại học.
Hầu hết sinh viên ở độ tuổi từ 18 đến 22, đang trưởng thành về nhận thức
xã hội, tinh thần và đạo đức, bắt đầu hình thành nhân cách và những phẩm chất
nghề nghiệp. Sinh viên sống có niềm tin, có lý tưởng, có ước mơ cao đẹp, có hoài
bão cho tương lai, có tình cảm nghĩa vụ, tinh thần trách nhiệm, khát vọng được
cống hiến. Họ có tính độc lập sáng tạo, có nguyện vọng tự khẳng định mình và
mong muốn xã hội đánh giá đúng mình. Sinh viên là lứa tuổi có thể lực đang phát
triển khoẻ mạnh, trí tuệ tiếp thu nhanh, nhạy bén, ham học hỏi và tìm tòi cái mới.
Bên cạnh những điểm mạnh trên đây, sinh viên cũng thường bộc lộ một số
nhược điểm. Họ mới rời ghế nhà trường phổ thông, chưa từng trải, có ít kinh
nghiệm trong cuộc sống, tiếp thu các yếu tố bên ngoài không chọn lọc kỹ, khi có
tác động của ngoại cảnh thì dễ bị ảnh hưởng. Hơn nữa, sau kỳ thi tuyển sinh căng
thẳng, những sinh viên không xác định đúng mục đích, động cơ học tập dễ có tư

tưởng “xả hơi”, học hành chểnh mảng, thậm chí chơi bời quá đà dẫn đến sa ngã. Vì
vậy, nhà trường cần có những biện pháp quản lý, giáo dục, định hướng cho sinh
viên để họ tránh những lệch lạc trong cuộc sống cũng như học tập.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Qui chế công tác học sinh, sinh viên nội trú trong các
trường Đại học, Cao đẳng, Trung học Chuyên nghiệp và Dạy nghề, 1997.
2. Văn kiện đại hội Đảng cộng sản Việt Nam khoá VIII, I X, X . Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Luật giáo dục. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,1998
4. Đặng Quốc Bảo. Một số khái niệm về quản lý giáo dục. Trường Cán bộ Quản lý
Giáo dục - Đào tạo TƯ1, Hà Nội, 1997.
5. Nguyễn Ngọc Bảo – Hà Thị Đức. Hoạt động dạy học ở trường THCS. Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội,2002.
6. Nguyễn Ngọc Bảo – Trần Kiểm. Lý luận dạy học ở trường THCS. Nhà xuất
bản Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005.
7. Nguyễn Quốc Chí- Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Những cơ sở khoa học về quản lí
giáo dục. Trường cán bộ quản lí giáo dục và đào tạo, 1997
8. Hồ Ngọc Đại. Tâm lý học dạy học. Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội,1998
9. Nguyễn Minh Đạo. Cơ sở khoa học quản lý. Nhà xuất bản chính trị Quốc gia
Hà nội, 1999
8. Trần Xuân Điệp. Vấn đề động lực trong giảng dạy tiếng Anh. Kỉ yếu hội nghị
nghiên cứu khoa học, phương pháp dạy- học bộ môn theo tinh thần đổi mới đào tạo
Đại học, Đại học ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà nội, 1998
10. Đặng Xuân Hải. Giáo dục với cộng đồng- nhà trường và xã hội. Trường Cán
bộ quản lí giáo dục và đào tạo, 1998.
11. Phạm Minh Hạc. Một số vấn đề về quản lý giáo dục và khoa học giáo dục.
Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, 1986.
12. Hà Sĩ Hồ. Những bài giảng về quản lý trường học. Nhà xuất bản Giáo dục Hà

Nội, 1998.


13. Trần Kiều. Bước đầu đổi mới kiểm tra kết quả học tập các môn học của học
sinh. Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, 2003.
14. Nguyễn Kỳ. Phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm. Nhà
xuất bản Giáo dục Hà Nội, 1995.
15. Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo.Trường Cán bộ
quản lí giáo dục và đào tạo, 1998.
16. Luật giáo dục. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,1998
17. Hồ Chí Minh. Vấn đề giáo dục. Nhà xuất bản giáo dục Hà nội 1962
18. Hồ Chí Minh. Bàn về vấn đề giáo dục. Nhà xuất bản giáo dục, 1990
19. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, Giáo dục học tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục Hà
Nội, 1988.
20. Vũ Thị Hồng Ngọc. Một số biện pháp quản lí nâng cao chất lượng dạy học
ngoại ngữ ở trường Cao đẳng Sư phạm trung ương. Luận văn thạc sĩ, 2006
21. Hoàng Phê (Chủ biên). Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học. Nhà xuất bản
Đà Nẵng, 1998.
22. Bùi Văn Quân. Giáo trình quản lí giáo dục. Nhà xuất bản giáo dục Hà nội,
2007
23. Nguyễn Ngọc Quang. Những vấn đề cơ bản về lý luận quản lý giáo dục.
Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục - Đào tạo TW1 Hà Nội, 1989.
24. Nguyễn Cảnh Toàn. Quá trình dạy tự học. Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội,
1997
25. Nguyễn Cảnh Toàn. Tự giáo dục tự học tự nghiên cứu, tập 1, tập 2. Trường
Đại học Sư phạm Hà nội, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông tây
26. Thái Duy Tuyên. Những vấn đề cơ bản của giáo dục hiện đại. Nhà xuất bản
Giáo dục Hà Nội, 1999.
27. Phạm Viết Vƣợng. Giáo dục học. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội,
2001



28. M.I.Kôndakôp. Cơ sở lý luận quản lý khoa học giáo dục khoa học quản lí
giáo dục- một số vấn đề lí luận và thực tiễn. Nhà xuất bản giáo dục
29. Viện hành chính Quốc gia, quản lí hành chính nhà nước,1996



×