Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

TÀI LIỆU NHỮNG lý LUẬN CHUNG về đầu tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI FDI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.48 KB, 8 trang )

CHƯƠNG I:
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI FDI
I. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) là hình thức đầu tư
dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất,
kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh
doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có
được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn
trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh
doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài
sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
II. Đặc điểm
1.Về kinh tế
FDI là hình thức đưa vốn, kĩ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh và năng lực Marketing vào
nước tiếp nhận. Chủ đầu tư đưa vốn vào đầu tư là tiến hành tổ chức sản xuất kinh doanh và sản
phẩm làm ra được tiêu thụ ở thị trường nước sở tại hoặc thị trường quốc tế.
Việc tiếp nhận FDI phát sinh nợ cho nước nhận đầu tư. Thay cho lãi suất, nước nhận đầu tư
được nhận phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó,
nước sở tại còn có điêu kiện phát triển tiềm năng trong nước.
Chủ thể đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này
chiếm 90% khối lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới.
2. Về mặt pháp lý
Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vôn pháp định tùy theo luật đầu
tư của mỗi nước. Đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư vốn của tư nhân do có chủ đầu tự
quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lãi, lỗ. Hình thức
này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị.


III. Những nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước


Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên (số có
thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng thêm một đơn vị của yếu tố
sản xuất)của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn.
Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự
di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí
sản xuất của các nước thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như vậy không
có nghĩa là tất cả những hoạt động nào có năng suất cận biên cao mới được các Doanh nghiệp
đầu tư sản xuất mà cũng có những hoạt động quan trọng, là sống còn của Doanh nghiệp thì họ
vẫn tự sản xuất cho dù hoạt động đó cho năng suất cận biên thấp.
Chu kỳ sản phẩm
Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kỳ sống của các sản
phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản phẩm mới; giai đoạn sản phẩm chín
muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa. Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban
đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước
ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường bản địa
tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng
cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước ngoài(giai đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu
cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại
xuất hiện (giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn
đến sự hình thành FDI.
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa
trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung
cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới
quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các
nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn.
Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia

Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman A. A. (1987)
và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng
hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên
họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc
gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát huy các lợi
thế đặc thù nói trên. Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công nghệ đầu
tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ
tiềm năng... ta dễ dàng nhận ra lợi ích của việc này!
Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương.
Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nướcTây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương
mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản
đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay
tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực
tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu.
Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mạiKhông phải FDI chỉ đi theo hướng từ
nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn
nữa. Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ.
Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các


chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu
tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung
Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công
ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuấtmáy tính xách tay của
công ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp
cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập
với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electroincs, việcNational Offshore Oil
Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến
lược như vậy.

Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có
nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật
Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích
tương tự.
IV. Lợi ích của việc thu hút FDI
Bổ sung cho nguồn vốn trong nước
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế
muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền
kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.
Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào
bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không
thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có
cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và
phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công
nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực
tiếp thu của đất nước.
Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa
quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng
sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ
hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất
thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu
nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng
kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà
trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được



xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI.
Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội
làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn thu ngân sách lớn
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng
thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50% số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006.
V. Các hình thức của FDI
1.Phân theo bản chất đầu tư
1.1.Đầu tư phương tiện hoạt động
Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết
lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng
đầu tư vào.
1.2. Mua lại và sáp nhập
Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang
hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận
đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình
thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.
2. Phân theo tính chất dòng vốn
2.1. Vốn chứng khoán
Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong
nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công
ty.
2.2.Vốn tái đầu tư
Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá
khứ để đầu tư thêm.
2.3.Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ
Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay
để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.

3. Phân theo động cơ của nhà đầu tư
3.1. Vốn tìm kiếm tài nguyên
Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp
nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn
lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có
thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác
các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các
nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.


3.2.Vốn tìm kiếm hiệu quả
Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá
nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên
lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi,điều kiện pháp lí
v.v...
3.3. Vốn tìm kiếm thị trường
Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh
tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh
tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm
nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu.

CHƯƠNG II:
THƯC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI TẠI VIỆT NAM
I.Tổng quan về FDI vào Việt Nam
Nhờ ảnh hưởng của việc Việt Nam gia nhập WTO, vốn FDI đăng kí tăng mạnh. Đặc biệt, năm
2008, vốn đăng ký đạt mức kỷ lục từ trước đến nay với 71,7 tỷ USD bất chấp khủng hoảng tài
chính toàn cầu từ cuối năm 2007 đến đầu 2008.
Tuy nhiên, do sự lan rộng và ảnh hưởng ngày càng lớn của khủng hoảng kinh tế thế giới nên
từ năm 2009 đến 2011, vốn đăng ký FDI giảm dần giảm dần từ 23,1 tỷ USD xuống còn 15,6 tỷ
USD, trung bình mỗi năm giảm khoảng 4 tỷ USD.

Từ 2012 đến nay, cùng với sự phục hồi của kinh tế thế giới, vốn FDI bắt đầu có xu hướng tăng
trở lại, tăng nhẹ lên 16,2 tỷ USD năm 2012 và đặc biệt trong năm 2013, FDI đăng ký đạt 21,6
tỷ USD, vốn giải ngân đạt 11,5 tỷ USD..
Nhìn chung, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chịu ảnh hưởng và tác động mãnh
mẽ của các sự kiện kinh tế lớn trong và ngoài nước như khủng hoảng tài chính, tiền tệ hay
tham gia các tổ chức thương mại khu vực và thế giới.
Trong đó, việc Việt Nam gia nhập WTO đã có ảnh hưởng lớn đến việc gia tăng nhanh chóng
vốn FDI vào Việt Nam với quy mô lớn hơn, từ đó xác lập vị trí và vai trò ngày càng quan
trọng hơn của FDI trong nền kinh tế Việt Nam.
II. Cơ cấu FDI vào Việt Nam 2013 – đầu 2014
Tổng vốn FDI vào Việt Nam năm 2013 là 22,35 tỉ USD, tăng 35,9% so với năm 2012.
Trong đó, có 1.530 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư có tổng vốn đăng ký xấp xỉ
14,5 tỉ USD, tăng gần 66,8% so với năm trước. Số còn lại là tăng vốn đầu tư với tổng vốn
đăng ký thêm là 7,86 tỉ USD, tăng 1,2% so với năm 2012. Nhật Bản tiếp tục là quốc gia đầu tư
vào Việt Nam lớn nhất về số vốn đăng ký mới lẫn tăng thêm với tổng vốn 5,875 tỉ USD, chiếm


26,3% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Singapore xếp tiếp theo với số vốn đầu tư 4,76 tỉ USD
(21,3%); Hàn Quốc với 4,46 tỉ USD (20%).
Về cơ cấu, vốn FDI năm nay chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, với
16,6 tỷ USD, chiếm 76,9% tổng vốn đăng ký. Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước
nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 2 tỷ USD, chiếm 9,4%. Các ngành còn lại đạt 3 tỷ
USD, chiếm 13,7%.
Trong năm 2013, khu vực FDI đã xuất khẩu 88,4 tỷ USD (tính cả dầu thô), tăng 22,4%. Nếu
không kể dầu thô đạt 81,2 tỷ USD, tăng 26,8% so với năm trước.
Số liệu dựa theo Tổng cục thống kê
theo Cục đầu tư nước ngoài, trong 2 tháng đầu năm 2014 nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào
14 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực Công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được
nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 62 dự án đầu tư đăng ký mới. Lĩnh vực kinh
doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 278,33

triệu USD, chiếm 18,1% tổng vốn đầu tư. Đứng thứ 3 là lĩnh vực vận tải kho bãi với 9 dự án
đầu tư mới, tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 21,75 triệu USD.
Nhờ gần 200 triệu USD đổ vào từ đầu năm, Bình Dương trở thành địa phương thu hút vốn đầu
tư nước ngoài tốt nhất trong 18 tỉnh, thành trực thuộc trung ương, tiếp đến là TP.HCM, Bắc
Giang và Thái Nguyên.
Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với hơn 430 triệu USD, chiếm hơn một nửa tổng vốn đăng ký
cấp mới. Với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm gần 470 triệu USD, Hàn Quốc
dẫn đầu các quốc gia có dự án đầu tư tại Việt Nam. Singapore đứng vị trí thứ hai và Nhật Bản
đứng vị trí thứ 3.
III. Các dự án lớn 2014
1.Tại Bà Ria – Vũng Tàu
 Dự án Trung tâm Thương mại tổng hợp Lotte Vũng Tàu, 34 triệu USD
 Dự án Sản xuất phân bón của Behn Meyer Agricare, 27 triệu USD.

2. Hải Phòng
 Dự án mở rộng khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ Việt Nam - Singapore Hải Phòng

(VSIP): 268,2 triệu USD
 Dự án sản xuất tất của Apex Wealth International Limited (Hong Kong): 14 triệu USD.
 Dự án Sản xuất chi tiết, phụ tùng, linh kiện nhựa Dong Yang Hải Phòng: 38 triệu USD
 Dự án Sản xuất linh kiện điện tử Comet Vina (10 triệu USD)

3. Bình Định
 Dự án lọc hóa dầu, hợp tác với Tập đoàn dầu khí Thái Lan: 27 tỷ USD

4. Bình Dương
 Dự án Khu phức hợp VSIP Bình Hòa - Bình Dương (tổng vốn đầu tư 199,6 triệu USD)


5. Đồng Nai

 Dự án Terumo tại Đồng Nai (98 triệu USD)
 Dự án Bệnh viện Shink Mark (tại Đồng Nai, 80 triệu USD)

IV Những vấn đề đặt ra
Đầu tư nước ngoài vẫn chưa khắc phục được những điểm yếu như tình trạng mất cân đối giữa
các đối tác đầu tư; tình trạng mất cân đối giữa các ngành kinh tế; tình trạng mất cân đối trong
hình thức đầu tư; mức vốn giải ngân (vốn thực hiện) còn thấp so tổng vốn đăng ký…
Cụ thể, danh mục 10 nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất 2012-2013 cho thấy trong tổng số khoảng
100 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án ĐTNN tại Việt Nam, thì chủ yếu là các quốc gia và
vùng lãnh thổ Châu Á, vắng bóng các nhà đầu tư từ Châu Âu, Bắc Mỹ…
Đáng lo ngại là Liên minh Châu Âu - một trong những nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với
1.810 dự án FDI và tổng vốn đăng ký khoảng 723 nghìn tỷ đồng (34,28 tỷ USD) - lại vắng
bóng trong bảng xếp hạng 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam 2012-2013. Điều này cho thấy
cần phải cải thiện niềm tin và nhận định về triển vọng kinh doanh tại Việt Nam của các doanh
nghiệp Châu Âu.
Về cơ cấu ngành, Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn,
nhưng ĐTNN 2013 vẫn chưa có các tiến bộ trong thu hút đầu tư vào lĩnh vực này. Tổng vốn
ĐTNN 2013 đầu tư vào nông, lâm, ngư nghiệp, thủy sản chỉ có 89 triệu USD trên tổng số 21,6
tỷ USD đăng ký đầu tư vào Việt Nam 2013.
Về hình thức, đầu tư 100% vốn nước ngoài hiện vẫn là hình thức đầu tư chủ yếu trong ĐTNN
tại Việt Nam (chiếm 86% dự án đăng ký mới năm 2013). Dù đến nay vẫn chưa có một kết quả
nghiên cứu chính thức nào so sánh về hiệu quả của các hình thức ĐTNN tại Việt Nam được
công bố. Nhưng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài cho thấy sẽ có hạn chế hơn so với các
hình thức khác (như liên doanh) trong các mặt tiếp thu và nhận chuyển giao công nghệ, điều
chỉnh các bất cập trong quản lý doanh nghiệp…
Bên cạnh đó, tuy vốn thực hiện ĐTNN 2013 cao hơn các năm trước, chiếm tới trên 50% số
vốn đăng ký (11,5 tỷ USD/21,6 tỷ USD ), nhưng vẫn chưa tạo ra được sự đột phá về giải ngân.
Thực tế giải ngân nhiều năm qua vẫn giữ ở mức bình quân 10-11 tỷ USD /năm. Hiện vẫn còn
hơn 100 tỷ USD vốn đăng ký, nhưng chưa giải ngân và chưa có giải pháp đột phá để tháo gỡ.
Trích Báo điện tử chính phủ: www.baodientu.chinhphu.vn


CHƯƠNG III:
NHỮNG GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI NĂM 2014
Theo Tiến sĩ Tô Ánh Dương – Viện Kinh tế Việt Nam:


- Thứ nhất, Việt Nam cần một Chiến lược về Đầu tư trực tiếp nước ngoài chung của
Quốc gia mang tính dài hạn và cụ thể.
Các mục tiêu trong Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Đầu tư chung hiện nay quá nhiều, chồng
chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau (ví dụ, vừa ưu tiên phát triển công nghệ cao, vừa ưu tiên những
ngành sử dụng nhiều lao động,…)
- Thứ hai, Chiến lược FDI cần mang tính Quốc gia
Không nên để tình trạng mỗi tỉnh, mỗi địa phương có Kế hoạch FDI của riêng mình dẫn tới
tình trạng nguồn vốn FDI được phân bổ và sử dụng kém hiệu quả.
- Thứ ba, Chiến lược FDI cần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của khu vực doanh
nghiệp FDI.
Tuy nhiên, công nghiệp phụ trợ trong nước kém phát triển, giá trị gia tăng của FDI kém là
nguyên nhân chủ yếu khiến cho các doanh nghiệp FDI liên tục nhập siêu (nếu bỏ dầu thô ra
khỏi kim ngạch xuất khẩu của khối này), góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng thâm hụt
cán cân thương mại kinh niên của Việt Nam. Bởi vậy, cần thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ
trợ trong nước.
- Thứ tư, mục tiêu chủ yếu thu hút FDI hiện nay là vốn và công nghệ (bao gồm công nghệ
sản xuất và công nghệ quản lý) vào những ngành, lĩnh vực mà Việt Nam chưa làm được (ví
dụ, các dự án lớn về cơ sở hạ tầng, điện, nước,…) theo hình thức Công tư kết hợp (PPP –
Public Private Partnership). Tuy nhiên, Việt Nam lại chưa có khuôn khổ pháp lý nào để đưa
đầu tư nước ngoài vào thực hiện theo hình thức PPP này
-Thứ năm, phải coi FDI là chất xúc tác về kinh doanh.
Ví dụ, trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam không thể tự xây các khu văn phòng, khách sạn
hiện đại, nay các doanh nhiệp Việt Nam có thể tự làm được.
Việt Nam thì việc thu hút FDI càng trở nên dễ dàng hơn.




×