Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong tư tưởng hồ chí minh về xây dựng quân đội nhân dân việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.37 KB, 58 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

HOÀNG XUÂN KIÊN

NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

HOÀNG XUÂN KIÊN

NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Quốc phòng và an ninh

Người hướng dẫn khoa học

Đại tá ĐÀO VĂN CHUNG



HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Đại tá. Đào Văn Chung,
Phó Giám đốc Trung tâm giáo dục quốc phòng Hà Nội 2 đã dành nhiều thời gian
hướng dẫn chỉ bảo tận tình em trong suốt thời gian em thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và các thầy giáo trong Trung
tâm giáo dục quốc phòng Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em
trong suốt thời gian em làm khóa luận.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy giáo giảng dạy trực tiếp đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 04 năm 2016
Sinh viên

Hoàng Xuân Kiên


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những nội dung em trình bày trong khóa luận là kết
quả nghiên cứu của riêng bản thân, không trùng với kết quả nghiên cứu của
tác giả khác.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 04 năm 2016
Sinh viên

Hoàng Xuân Kiên



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI KIỂU

5

MỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN THEO QUAN
ĐIỂM TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1.1. Nguồn gốc, bản chất, chức năng của Quân đội.

5

1.2. Sức mạnh chiến đấu của quân đội.

14

Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ

28

CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM
2.1. Khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn

28

đề có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân

tộc ở Việt Nam.
2.2. Quân đội ta do Đảng tổ chức và lãnh đạo là Quân đội của

29

dân, do dân, vì dân.
2.3. Quân đội nhân dân Việt Nam - Đội quân chiến đấu, đội

32

quân công tác, đội quân sản xuất.
2.4. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn

34

diện trong đó lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở.
2.5. Quân đội nhân dân Việt Nam phải tiến lên chính quy.
Chương 3 VẬN DỤNG NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA

36
39

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về
mọi mặt của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Quân đội
nhân dân Việt Nam.

39



3.2. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn

42

diện về mọi mặt.
3.3. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu

46

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
KẾT LUẬN

51

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

52


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, nhà lãnh tụ kiệt xuất của dân
tộc Việt Nam. Người là người cha thân yêu của lực lượng vũ trang Việt Nam
nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Cuộc đời cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành một phần công sức rất lớn lao cho công việc
rèn luyện, giáo dục Quân đội, hun đúc lên hình ảnh “anh Bộ đội Cụ Hồ” thật
đẹp trong mắt những người dân Việt Nam và bạn bè thế giới. Đó là hình ảnh
Quân đội ta luôn luôn tận trung với Đảng, với nước, tận hiếu với dân, sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Trên cơ sở quán triệt sâu

sắc những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin xây dựng Quân đội
kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện Quân đội ta, một Quân
đội mang đầy đủ bản chất, tính chất, đặc điểm của Quân đội kiểu mới của giai
cấp công nhân, được nhân dân kính trọng suy tôn là “Bộ đội Cụ Hồ”. Quân đội
nhân dân Việt Nam - “Bộ đội Cụ Hồ” - là một biểu hiện đặc thù của sự vận
dụng sáng tạo tư tưởng của Lê Nin về xây dựng Quân đội kiểu mới của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, thể hiện bản chất cách mạng của Quân đội của giai cấp công
nhân Việt Nam “Quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự thương yêu, đùm bọc,
nuôi dưỡng của nhân dân. Sự ra đời và lớn mạnh không ngừng của Quân đội
nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, dân tộc ta đã giành được thắng
lợi vẻ vang trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945, trong 2 cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Những thắng lợi vĩ đại đó là minh
chứng cho sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo và vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhà chiến lược quân sự thiên tài, người cha thân yêu của lực lượng vũ

1


trang nhân dân Việt Nam, người sáng lập, giáo dục rèn luyện Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam là
một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản quân sự mà người để lại cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nội dung những quan điểm đó không chỉ có ý
nghĩa trực tiếp đến việc xây dựng Quân đội nhân dân trong đấu tranh cách
mạng, mà còn là cơ sở nền tảng để Đảng ta xây dựng Quân đội nhân dân
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Trong tình hình mới hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực
hiện âm mưu “diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ”; sử dụng các chiêu bài

“dân chủ”,“nhân quyền”, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Chúng sử dụng tất cả các thủ đoạn có thể, kể cả thủ đoạn vũ lực, tiến công
xâm lược vũ trang nếu chúng thấy “cần thiết”. Một trong những mũi nhọn
hướng tới của “diễn biến hòa bình” là tiến công vào Quân đội, thực hiện âm
mưu “phi chính trị hóa” Quân đội ta, hòng làm cho Quân đội ta không còn là
Quân đội kiểu mới của dân, do dân vì dân nữa. Trước yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng trong bối cảnh lịch sử mới, hơn lúc nào hết, đòi hỏi chúng ta càng phải
thấm nhuần sâu sắc, tiếp tục đi sâu nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nâng cao
chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cảu Quân đội, làm cho Quân đội
ta thực sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu
mến, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay, từ ý nghĩa và tính thực
tiễn của vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu những vấn đề cơ bản

2


trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam” làm
đề tài nghiên cứu khóa luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận về xây dựng Quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân
theo tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin.

- Những vấn đề cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam.
- Vận dụng những nội dung cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn Cách mạng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam và vận dụng trong xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp logic
- Phương pháp liệt kê
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
- Một số phương pháp chuyên ngành.

3


6. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, khẳng định giá trị to lớn trong Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đề tài góp phần bổ sung những cơ sở, nền tảng trong xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nan, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
7. Kết cấu đề tài
Cấu trúc đề tài gồm 3 phần:

- Phần Mở đầu
- Phần Nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận về xây dựng Quân đội kiểu mới của giai cấp
công nhân theo quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chương 2. Những vấn đề cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Chương 3. Vận dụng những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Kết luận
Tài liệu tham khảo

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI KIỂU MỚI
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN THEO QUAN ĐIỂM TƯ TƯỞNG
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1.1. Nguồn gốc, bản chất, chức năng của Quân đội
1.1.1. Nguồn gốc của quân đội
1.1.1.1. Khái niệm quân đội
Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Quân đội là một tập đoàn vũ trang có tổ chức, do
nhà nước xây dựng lên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công hoặc chiến
tranh phòng ngự ”. Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam viết: “Quân đội, tổ
chức vũ trang chuyên nghiệp do một tập đoàn nhà nước, tập đoàn chính trị
hoặc phong trào chính trị làm chức năng nhà nước xây dựng để tiến hành đấu
tranh vũ trang nhằm thực hiện mục đích chính trị của nhà nước, tập đoàn hay
phong trào đó”.
Trước hết, quân đội là một tổ chức vũ trang chuyên nghiệp, một tổ
chức xã hội đặc thù. Quân đội bao gồm những người có vũ trang, được tổ

chức chặt chẽ cơ cấu biên chế đặc thù phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được
giao và thực hiện chức năng bằng các vũ khí chuyên dùng. Đây là đặc trưng
cơ bản của quân đội về phân biệt tổ chức quân đội với các tổ chức xã hội khác
và tổ chức vũ trang trong xã hội cộng sản nguyên thủy.
Quân đội là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của một giai cấp, nhà nước
nhất định. Quân đội mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trong một điều kiện cụ thể,
quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một tập đoàn chính trị đại diện cho một
giai cấp nhất định, đang có chức năng như nhà nước. Ba đặc trưng cơ bản trên
của quân đội có quan hệ biện chứng với nhau, phản ánh các mối liên hệ tất yếu
của một tổ chức đặc thù trong xã hội có giai cấp và nhà nước.

5


1.1.1.2. Nguồn gốc của quân đội
Trên lập trường duy tâm, các nhà tư tưởng của giai cấp phong kiến thời
kì trung đại quan niêm quân đội do Chúa Trời sinh ra để dành hòa bình và
công bằng cho Cơ Đốc giáo, bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến và nhà
thờ. Các nhà tư tưởng tư sản khi bàn về nguồn gốc của quân đội đã coi quân
đội là sản phẩm tất yếu, tự nhiên thuần túy và tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử.
Do ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm, phương pháp siêu hình và lợi ích
giai cấp nên họ đã giải thích sai lầm, phiến diện nguồn gốc của quân đội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, vấn đề nguồn gốc của quân đội mới
được xem xét, luận giải một cách khoa học trên cơ sở quan hệ kinh tế và giai
cấp của xã hội. Đi từ các quan hệ kinh tế - xã hội hiện thực, quan điểm Mácxit
cho rằng, quân đội có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và đối kháng giai cấp. Trong đó, chế độ tư hữu là nguồn gốc kinh tế nguồn gốc sâu xa, đối kháng giai cấp là nguồn gốc xã hội - nguồn gốc trực
tiếp của quân đội. Chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp trong xã hội là nguồn
gốc khách quan đưa tới sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Để bảo vệ lợi
ích của mình, đàn áp quần chúng nhân dân lao động, giai cấp thống trị đã tổ

chức ra quân đội. Mác - Lênin chỉ rõ: quân đội chính là công cụ bạo lực chủ
yếu của quyền lực nhà nước.
Thực tiễn lịch sử xã hội đã chứng minh, trong xã hội cộng sản nguyên
thủy dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp và đối kháng giai
cấp chưa xuất hiện; Do đó, quân đội cũng chưa xuất hiện. Việc giữ gìn, bảo
vệ tài sản của thị tộc, bộ lạc nguyên thủy là trách nhiệm của tất cả các cư dân
đã đến tuổi trưởng thành. Ph. Ăngghen cho rằng, trong thị tộc và bộ lạc đã có
tổ chức “nhân dân vũ trang” hay tổ chức “vũ trang tự động” để giải quyết
xung đột vũ trang. Đó không phải tổ chức vũ trang chuyên nghiệp nên không
phải quân đội.

6


Đến cuối thời kỳ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất phát triển đã
đưa tới “của dư” xuất hiện trong xã hội. Những người có chức quyền trong thị
tộc, bộ lạc đã lợi dụng quyền lực để thâu tóm hầu hết tư liệu sản xuất và của
cải do xã hội tạo ra. Từ đó, phân chia xã hội thành các giai cấp có địa vị kinh
tế - xã hội đối lập nhau và xuất hiện mầm mống quân đội. Thời kỳ đầu, đây là
tổ chức của những người có vũ trang, dưới hình thức các đội vũ trang thường
trực, các đội dân binh phục vụ và bảo vệ tầng lớp quý tộc, thượng lưu. Khi
suất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ và bộ máy cưỡng bức của nó là nhà nước
chủ nô, tổ chức quân đội cũng chính thức xuất hiện. Giai cấp thống trị chủ nô
đã tổ chức cơ cấu chỉ huy chặt chẽ huấn luyện chu đáo và trang bị vũ khí
chuyên dùng cho quân đội.
Từ khi xuất hiện bộ máy cưỡng bức đặc biệt là nhà nước, quân đội
thực sự trở thành công cụ bạo lực để nhà nước đàn áp nhân dân lao động,
duy trì lợi ích của giai cấp thống trị trong nước; bảo vệ lãnh thổ của nhà
nước đó khỏi sự xâm lược từ bên ngoài và đi xâm chiếm các nước khác để
mở rộng lãnh thổ của nhà nước đó khỏi sự xâm lược tự bên ngoài và đi xâm

chiếm các nước khác để mở rộng lãnh thổ, áp đặt ách nô dịch đối với các
dân tộc khác.
Như vậy, quân đội là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện, tồn tại gắn
liền với chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp và sẽ mất đi khi không còn chế
độ tư hữu và đối kháng giai cấp.
1.1.2. Bản chất của quân đội
1.1.2.1. Quan điểm các nhà lý luận ngoài mácxít
Các nhà lý luận ngoài mácxít luôn tìm cách che đậy và xuyên tạc bản
chất vốn có của quân đội, phủ nhận bản chất giai cấp của quân đội, cho quân
đội là lực lượng siêu giai cấp, của mọi giai cấp hoặc của toàn dân tộc. Họ tìm
mọi cách xóa nhòa sự khác biệt về bản chất giữa quân đội tư sản với quân đội
xã hội chủ nghĩa, hòng lừa bịp nhân dân và binh lính trong quân đội của họ.

7


1.1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
* Bản chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một
nhà nước nhất định.
Quân đội mang bản chất giai cấp sâu sắc. Vấn đề đã được Mác -Lênin
khẳng định: “Không phải chỉ dưới chính thể quân chủ, quân đội mới là công
cụ đàn áp. Nó vẫn là công cụ đàn áp trong tất cả các chính thể cộng hòa tư
sản, kể cả những chính thể cộng hòa dân chủ nhất”.
Với tính cách là một hiện tượng chính trị - xã hội, bất cứ quân đội nào
trong lịch sử cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Yếu tố quyết định bản chất
giai cấp của một quân đội là ở chỗ, quân đội đó là chỗ dựa của chế độ chính
trị xã hội nào; hoạt động của nó bảo vệ lợi ích của giai cấp nào. Bản chất giai
cấp của quân đội còn được thể hiện trong quá trình xây dựng và tổ chức quân
đội. Giai cấp thống trị đảm bảo sự vững mạnh về chính trị của quân đội, bảo
đảm phương hướng phát triển và hoạt động của quân đội phù hợp với lợi ích

của mình.
Trong lịch sử chưa có một quân đội nào chiến đấu vì lợi ích chung của
tất cả các giai cấp, vì nó là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà
nước nhất định. Để giữ vững phương hướng chính trị và tăng cường bản chất
giai cấp cho quân đội, giai cấp thống trị tiến hành truyền bá hệ tư tưởng của
nó cho quân đội bằng hệ thống giáo dục về tư tưởng cho binh lính; thực hiện
triệt để đường lối tổ chức, phương hướng hoạt động và kiểm soát mọi hoạt
động của quân đội.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của quân đội luôn gắn với vai trò của
giai cấp và nhà nước. Bản chất giai cấp của quân đội được biểu hiện vai trò
quyết định của giai cấp, nhà nước đối với quân đội về cả chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Về chính trị, giai cấp và nhà nước quyết định mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu; đến các chức năng nhiệm vụ cơ bản của quân đội. Đồng thời, hệ tư

8


tưởng của giai cấp đó luôn giữ vai trò thống trị đối với quân đội, chi phối đến
đời sống tinh thần của quân đội. Về tổ chức, giai cấp và nhà nước quyết định
đường lối, nguyên tắc tổ chức xây dựng quân đội; quyết định cơ chế lãnh đạo,
thành phần chỉ huy và binh lính tham gia trong quân đội.
Những nội dung trên là biểu hiện bản chất giai cấp của quân đội. Để
tăng cường bản chất giai cấp của quân đội, bảo đảm cho quân đội thực sự
trung thành với lợi ích của mình, các giai cấp và nhà nước tổ chức ra quân đội
phải luôn đặc biệt quan tâm xây dựng các yếu tố cơ bản trên.
Bản chất của quân đội tương đối ổn định, xong không phải là cái cố
định, bất biến mà có sự vận động, biến đổi. Sự vận động biến đổi đó tùy thuộc
vào nhiều yếu tố và theo hai chiều hướng hoặc tăng cường, hoặc là suy giảm.
Quân đội là một tổ chức, một lực lượng chính trị - xã hội của nhà nước, một
bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng nên sự tác động

của các điều kiện kinh tế, chính trị, giai cấp, xã hội môi trường tất yếu ảnh
hưởng đến bản chất giai cấp của quân đội. Trong các yếu tố ảnh hưởng đến
bản chất giai cấp của quân đội, yếu tố giai cấp luôn tác động trực tiếp, mạnh
mẽ và quyết định nhất. Quân đội nào cũng do nhà nước tổ chức ra và chịu sự
chi phối bởi đường lối chính trị của một giai cấp. Bài học xương máu của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho thấy, khi Đảng cộng sản
mất vai trò lãnh đạo sự biến chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là không
tránh khỏi và hậu quả tất yếu của nó là làm cho quân đội mất phương hướng
chính trị, thì có phải tỏ rõ điều đó bằng tổ chức quân sự của mình.
* Đấu tranh, phê phán các học giả tư sản đang ra sức tuyên truyền cho
quan điểm siêu giai cấp của Quân đội
Họ cho rằng, quân đội là công cụ của toàn xã hội, sự tồn tại của nó là
cần thiết để đảm bảo hoạt động “bình thường” của bất cứ hệ thông xã hội nào.
Do vậy, quân đội là tổ chức đứng ngoài xã hội và không có bản chất giai cấp;

9


là lực lượng “trung lập về chính trị”. Thực chất của quan điểm trên là che đậy
bản chất phản động vốn có của quân đội tư sản đế quốc; thực hiện mưu đồ
“vô hiệu hóa” quân đội của các nước có chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ
nghĩa còn lại, làm cho quân đội xã hội chủ nghĩa dao động về tư tưởng làm
mất phương hướng chính trị; phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; tước bỏ
quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội. Cần thấy rằng, đây là
một thủ đoạn hết sức nham hiểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo
loạn lật đổ và chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc hiện
nay để thực hiện mục tiêu lật đổ và xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bởi
vậy, cần đấu tranh vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của các luận
điểm trên và khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc do Mác - Lênin chỉ ra là,
hiện nay cũng như trước kia và sau này, quân đội sẽ không bao giờ trung lập

được. Nghĩa là, không có quân đội nào ra đời và tồn tại lại thoát ly khỏi các
quan hệ chính trị, giai cấp hiện thực; tăng cường bản chất giai cấp công nhân,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản với quân đội xã hội chủ nghĩa
là vấn đề tất yếu đặt ra. Mặt khác, cần chủ động đấu tranh ngăn chặn, khắc
phục các tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công nhân
của quân đội chủ nghĩa hiện nay.
1.1.3. Chức năng của quân đội
1.1.3.1. Chức năng của quân đội là dùng bạo lực vũ trang, kể cả tiến
hành chiến trang để bảo vệ lợi ích căn bản của giai cấp, nhà nước tổ chức ra nó.
Bản chất giai cấp và vai trò của quân đội trong một hệ thống chính trị xã hội còn được biểu hiện trực tiếp ở chức năng của nó. Chức năng của quân
đội là dùng bạo lực vũ trang, kể cả tiến hành chiến tranh để bảo vệ lợi ích căn
bản của giai cấp, nhà nước tổ chức ra nó.
Mỗi quân đội có hai chức năng cụ thể là chức năng đối nội và chức
năng đối ngoại. Tùy theo mục đích chính trị, tính chất nhiệm vụ, khả năng và

10


điều kiện thực hiện cũng như quan điểm và phương hướng sử dụng công cụ
bạo lực của giai cấp, nhà nước nhất định mà dẫn đến biểu hiện chức năng của
mỗi quân đội cụ thể có sự khác nhau.
Quân đội của các giai cấp, nhà nước bóc lột, về đối nội là công cụ bạo
lực để đàn áp sự phản kháng của nhân dân và phong trào cách mạng trong
nước, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Về đối ngoại, quân đội là công cụ
tiến hành chiến tranh xâm lược các nước khác nhằm mở rộng quyền thống trị
của giai cấp thống trị ra ngoài biên giới quốc gia, chống phá các nước xã hội
chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.
Quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, chức năng đối nội là công cụ bạo
lực vũ trang của giai cấp công nhân và nhà nước chuyên chính vô sản để đè
bẹp sự phản kháng của các thế lực thù địch, bảo vệ nền chuyên chính vô sản,

bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Về đối ngoại, quân đội xã hội chủ nghĩa là
công cụ bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù
bên ngoài, làm nghĩa vụ quốc tế nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
1.1.3.2 Bất cứ quân đội nào cũng có hai chức năng là đối nội và đối
ngoại
Bất cứ quân đội nào cũng có hai chức năng là đối nội và đối ngoại. Hai
chức năng của quân đội có quan hệ biện chứng với nhau. Song, tùy theo
đường lối chính trị của giai cấp, nhà nước và trong hoàn cảnh cụ thể mà các
chức năng đó được biểu hiện và thực thi khác nhau, đồng thời luôn có sự vận
động, biến đổi.
Sự tồn tại thực tế của các quân đội trong lịch sử cho thấy, bất cứ quân
đội nào cũng là cơ sở bạo lực chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng đối
nội và đối ngoại. Theo đó, quân đội bao giờ cũng có chức năng bạo lực vũ
trang. Quân đội của các nhà nước thống trị bóc lột trong lịch sử luôn dùng sức

11


mạnh bạo lực vũ trang để răn đe, buộc quần chúng lao động phải phục tùng
giai cấp thống trị và nhà nước của nó; dùng sức mạnh bạo lực vũ trang để
đàn áp sự phản kháng của quần chúng lao động và duy trì sự áp bức của
giai cấp thống trị bóc lột đối với toàn xã hội. Mặt khác, nó còn là công cụ
bạo lực vũ trang chủ yếu để nhà nước thống trị bóc lột tiến hành chiến
tranh, sức mạnh bạo lực vũ trang của quân đội được nhà nước sử dụng để
bảo vệ lãnh thổ đất nước khỏi các cuộc xâm lược từ bên ngoài và có thể
tiến hành chiến tranh xâm lược các dân tộc khác vì lợi ích ích kỷ của giai
cấp thống trị bóc lột trong nước.
Ra đời và phát triển gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam, do Đảng
Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo và nhà nước xã hội chủ nghĩa tổ chức nuôi

dưỡng. Quân đội nhân dân Việt Nam có các chức năng và nhiệm vụ riêng.
Tuy nhiên, chức năng và nhiệm vụ của quân đội ta không phải thoát ly khỏi
chức năng, nhiệm vụ của quân đội xã hội chủ nghĩa; vẫn là biểu hiện bản
chất giai cấp công nhân, phản ánh sự phát triển phong phú các chức năng
của quân đội xã hội chủ nghĩa, đồng thời, còn gắn với đặc thù của cách
mạng Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội có chức năng chiến đấu. Là
công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quân đội ta
có chức năng dùng sức mạnh bạo lực vũ trang để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng đập tan các âm mưu xâm lược của các thế lực thù
địch từ bên ngoài; bảo vệ các thành quả cách mạng và công cuộc lao động hòa
bình của nhân dân và thực hiện các nghĩa vụ quốc tế trên lập trường của các
giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, quân đội ta còn phải dùng sức mạnh bạo lực
vũ trang để răn đe và sẵn sàng đập tan các cuộc vũ trang phản cách mạng của
các thế lực phản động trong nước; bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và
góp phần bảo vệ trật tự, an ninh xã hội. Trong tình hình mới hiện nay, quân

12


đội ta còn phải tham gia tiến công địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn
hóa,… làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội có chức năng công tác. Là quân
đội của dân, do dân, vì dân; công cụ bạo lực chủ yếu của Đảng Cộng sản Việt
Nam và nhà nước xã hội chủ nghĩa, quân đội ta có chức năng công tác, vận động
quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng, chính
sách của Nhà nước; tham gia xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh.
Chức năng công tác của quân đội ta góp phần tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân; giữa quân đội với nhân dân. Quân đội giúp đỡ nhân

dân trong phòng chống thiên tai, giải quyết các khó khăn trong đời sống và
sản xuất; cùng với nhân dân đấu tranh làm thất bại các âm mưu chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội có chức năng sản xuất. Là quân
đội kiểu mới, một tổ chức của Nhà nước và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ
nghĩa, quân đội ta còn tham gia tăng gia sản xuất để nâng cao đời sống cho bộ
đội và tham gia xây dựng, phát triển kinh tế đất nước. Từ khi ra đời đến nay,
quân đội ta luôn tích cực tăng gia sản xuất ở mọi lúc, mọi nơi và tham gia có
hiệu quả vào xây dựng, phát triển kinh tế đất nước. Trong giai đoạn hiện nay,
quân đội ta tiếp tục đi đầu phát triển các khu kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn
trọng điểm chiến lược với mục tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh là chủ yếu.
Trên cơ sở các chức năng cơ bản, nhiệm vụ của quân đội ta có sự vận
động, phát triển để đáp ứng với từng giai đoạn cụ thể của sự nghiệp cách
mạng. Trong giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng, nhiệm vụ của quân đội
ta có sự phát triển mới. Đảng ta xác định, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực
lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,

13


bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định
chính trị của đất nước, đẩy lùi và kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ
đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
1.2. Sức mạnh chiến đấu của quân đội
1.2.1. Quan niệm về sức mạnh chiến đấu của quân đội
1.2.1.1. Quan niệm ngoài mácxít về sức mạnh chiến đấu của quân đội
* Quan niệm tuyệt đối hóa sức mạnh vật chất

Quan điểm tuyệt đối hóa sức mạnh vật chất, ra sức biện hộ cho sức
mạnh của vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự; xem đó là yếu tố có vai trò quyết
định trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Quan điểm này thường xem nhẹ,
hạ thấp, thậm chí phủ nhận vai trò của yếu tố con người, yếu tố tinh thần.
Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ quân sự,
những quan điểm này càng có điều kiện tiếp tục tồn tại và phát triển.
* Quan niệm tuyệt đối hóa sức mạnh tinh thần
Ngược lại, quan điểm tuyệt đối hóa sức mạnh tinh thần, ra sức biện hộ
cho yếu tố tinh thần; coi đó là yếu tố duy nhất quyết định sức mạnh chiến đấu
của quân đội. Quan điểm này thường xem nhẹ, hạ thấp, thậm chí phủ nhận vai
trò của yếu tố vật chất, của vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự. Hiện nay, trước
sự trỗi dậy của những quan điểm duy tâm, tôn giáo, những quan điểm lý luận
này càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
Cả hai hệ thống lý luận trên đây đều không dựa trên cơ sở khoa học,
cách mạng; do đó, không thể đưa ra được quan niệm đúng đắn về sức mạnh
chiến đấu của quân đội.
1.2.1.2. Quan niệm mácxít về sức mạnh chiến đấu của quân đội
Theo quan niệm Mác - Lê nin, sức mạnh chiến đấu của quân đội là tổng
thể các yếu tố vật chất, tinh thần và sự tương tác giữa các yếu tố đó quy định

14


trạng thái và khả năng thực hiện mục đích chính trị của nhà nước, giai cấp
nhất định.
Sức mạnh chiến đấu của quân đội được biểu hiện cụ thể ở trạng thái và
khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Trong thời bình là
trình độ huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu. Trong chiến tranh là khả
năng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu của đối tượng tác chiến cụ thể gắn với
những điều kiện lịch sử cụ thể.

Sức mạnh chiến đấu của quân đội là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu
tố, trong đó có các yếu tố cơ bản như: quân số, cơ cấu tổ chức biên chế; chính
trị - tinh thần và kỷ luật; số lượng, chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật quân
sự; trình độ khoa học và nghệ thuật quân sự; bản lĩnh lãnh đạo, trình độ tổ
chức, chỉ huy, quản lý của đội ngũ sĩ quan. Việc xác định đúng vị trí, vai trò
của mỗi yếu tố có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét, đánh giá, xây dựng,
củng cố và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.
* Quân số, cơ cấu tổ chức biên chế
Quân số, tổ chức biên chế là tình hình về quân số và cách thức tổ chức
biên chế của quân đội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đây là một trong
những yếu tố cơ bản, quan trọng, không thể thiếu trong sức mạnh chiến đấu
của quân đội. Thực chất nói đến sức mạnh chiến đấu của quân đội trước hết
phải nói đến yếu tố con người và mối quan hệ con người, cái “cốt vật chất”
tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Mỗi quân đội đều phải có số lượng nhất định về quân số mới có thể
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách được giao. Quân số nhiều hay
ít không chỉ phụ thuộc vào yêu cầu, nhiệm vụ, mà còn phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế của mỗi nước. Ph. Ăngghen cho rằng: “không bao giờ có một
nước nào lại có thể giữ 5% dân số của mình ở lại cầm súng trong một thời
gian dài”.

15


Quân số nhiều hay ít còn phụ thuộc vào vũ khí, trang bị kỹ thuật quân
sự, khoa học nghệ thuật quân sự và phương thức tác chiến. Trong điều kiện
chiến tranh được tiến hành bằng vũ khí công nghệ cao, chắc chắn quân số trực
tiếp chiến đấu sẽ giảm đáng kể, trong lúc đó, quân số phục vụ chiến đấu sẽ có
chiều hướng tăng lên.
Tổ chức quân đội là hình thức tổ chức đặc thù. Đó là hình thức kết hợp

giữa con người với vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự trên cơ sở khoa học, phù
hợp với điều kiện thực tiễn. Tổ chức đó phải đảm bảo cho quân đội có được
sức mạnh chiến đấu cao. Cơ cấu tổ chức, biên chế của quân đội phải phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ của quân đội trong mỗi thời kỳ lịch sử; phù hợp với vũ
trang, trang bị kỹ thuật quân sự; tư tưởng nghệ thuật quân sự và điều kiện
kinh tế của đất nước. Theo đó, cơ cấu biên chế tổ chức của quân đội luôn có
sự vận động, phát triển.
* Chính trị - tinh thần và kỷ luật
Yếu tố chính trị - tinh thần và kỷ luật trong sức mạnh chiến đấu của
quân đội là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền
thống,… về chính trị, pháp luật, đạo đức được thấm sâu vào từng quân nhân
và thái độ, trách nhiệm của họ đối với những quan điểm tư tưởng ấy đối với
Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội. Đây là một yếu tố cơ bản, suy đến cùng
giữ vai trò quyết định sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Theo Ph. Ăngghen, muốn đánh giá đúng đắn khả năng chiến đấu của
một quân đội, cần xem xét không những mặt trang bị của nó, mà cần xem xét
cả trình độ kỷ luật, tinh thần quyết chiến, khả năng và sự chuẩn bị của nó để
chịu đựng những gian khổ của chiến tranh và “nhất là trạng thái tinh thần của
nó, nghĩa là có thể đòi hỏi nó những gì mà không sợ làm cho nó mất tinh
thần”. Tinh thần của quân nhân tham chiến giữ vai trò quyết định đến thắng
bại của chiến tranh, vì chiến tranh là sự nguy hiểm đến tính mạng con người.

16


Bất cứ một nhiệm vụ nào trong chiến tranh, mỗi bước trong tấn công hay mỗi
ngày đêm trong phòng ngự đều có thể đổ máu và vũ khí càng nguy hiểm với
con người bao nhiêu thì tinh thần của những người tham chiến càng giữ một
vai trò quan trọng bấy nhiêu. Mác - Lênin đã khẳng định: “Trong một cuộc
chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng

đang đổ máu trên chiến trường”.
Quy luật này được thể hiện đặc biệt rõ trong những cuộc chiến tranh mà
một bên theo đuổi mục đích chính trị là giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc,
tính chất chính trị xã hội là chính nghĩa, bên kia là mục đích chính trị xâm lược,
nô dịch, tính chất chính trị xã hội là phi nghĩa. Quy luật này sẽ có những biểu
hiện mới trong chiến tranh được tiến hành bằng vũ khí công nghệ cao.
Nội dung cơ bản của tinh thần là toàn bộ những tư tưởng chính trị và
đạo đức, tâm trạng và tình cảm đã thấm sâu vào tập thể sĩ quan và chiến sĩ,
thể hiện ở thái độ của họ đối với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ xã hội.
Trong chiến tranh, đó còn là thái độ đối với mục đích của chiến tranh, thái độ
đối với kẻ thù và tinh thần nhiệt tình chiến đấu, dốc sức giành thắng lợi.
Tinh thần của quân đội hình thành và phát triển phụ thuộc vào chế độ
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của giai cấp
cầm quyền. Trong chiến tranh, tinh thần của quân đội phụ thuộc vào mục đích
chính trị, tính chất chính trị xã hội của chiến tranh. Mác - Lênin cho rằng:
“Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng, cần phải hy
sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em là yếu tố nâng cao tinh
thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng
thấy”. Đặc biệt, yếu tố tinh thần của quân đội xã hội chủ nghĩa vận động, phát
triển phụ thuộc vào hoạt động của công tác Đảng, công tác chính trị trong
quân đội. Mác - Lênin khẳng định: “Ở đâu mà công tác chính trị trong quân
đội, công tác của các chính ủy làm được chu đáo nhất, thì ở đấy… tinh thần
của họ cũng cao hơn”.

17


Hoạt động của quân đội là hoạt động đặc biệt, hoạt động có sử dụng vũ
khí, trang bị kỹ thuật quân sự. Hoạt động đó còn là sự gắn kết, phối hợp của
nhiều lực lượng, của các quân binh chủng khác nhau, với những ngành

chuyên môn kỹ thuật khác nhau. Trong chiến tranh hay trong các hoạt động
quân sự đòi hỏi một sự phối hợp thực hiện các mệnh lệnh quân sự, nhất là
trong điều kiện chiến đấu, cả khi chiến đấu trong đội hình chung cũng như
trong tình huống chiến đấu độc lập. Do đó, hơn bất cứ một tổ chức nào khác,
quân đội phải có kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh.
Chỉ có trên cơ sở có sự thống nhất cao về ý chí và hành động mới tạo
nên sức mạnh. Kỷ luật là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức
mạnh chiến đấu của quân đội. Mác - Lênin cho rằng: “Ở đâu mà kỷ luật giữ
được vững nhất… ở đấy không hề có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội, quân
đội giữ gìn được trật tự tốt hơn và tinh thần của họ cũng cao hơn, ở đấy thu
được nhiều thắng lợi hơn”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quân đội
mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm”.
Trình độ kỷ luật của quân đội được biều hiện cao nhất là tự giữ kỷ luật,
một trong những đảm bảo cho sự vững chắc của tổ chức quân sự. Tinh thần
kỷ luật của quân đội được thể hiện ở ý thức và hành động triệt để chấp hành
mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, tuyệt đối phục tùng lãnh đạo và chỉ huy. Tinh
thần kỷ luật của quân đội còn được thể hiện ở việc kiên quyết làm tròn chức
trách, nhiệm vụ một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật của Nhà nước, các điều lệnh, điều lệ, quy định của quân đội,
của đơn vị cũng là một trong những biểu hiện của kỷ luật quân đội.
* Số lượng, chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự
Số lượng, chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật trong sức mạnh chiến
đấu của quân đội là khả năng bảo đảm về vũ khí trang bị kỹ thuật cho quân
đội và từng đơn vị nhằm đáp ứng yếu cầu nhiệm vụ của quân đội trong từng

18


giai đoạn lịch sử nhất định. Đây là một yếu tố cơ bản trong sức mạnh chiến
đấu của quân đội. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng trong chiến tranh con

người là yếu tố quyết định thắng lợi. Song, yếu tố con người phải gắn với vũ
khí, trang bị kỹ thuật quân sự. Yếu tố tinh thần chỉ có thể phát huy được tác
dụng tích cực, có hiệu quả khi được dựa trên một cơ sở vật chất nhất định.
Tinh thần của quân đội dù có đến đâu cũng không thể là yếu tố duy nhất đảm
bảo thắng lợi. V.I. Lênin cho rằng: “Một đội quân giỏi nhất, những người
trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu
diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ”.
Vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự là cơ sở vật chất của sức mạnh chiến
đấu của quân đội. Vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự càng nhiều về số lượng,
càng cao về chất lượng càng tạo ra khả năng to lớn để chiến thắng đối
phương. Vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự của quân đội càng đầy đủ, hoàn
thiện, hiện đại và được sử dụng có hiệu quả, hoạt động quân sự càng đạt hiệu
quả cao. Tuy nhiên, cũng không nên quan niệm, hễ cứ có lắm tiền, nhiều súng
là có thể không xảy ra đối với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trong cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam.
Số lượng, chất lượng của vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự phụ thuộc
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ.
Quốc gia nào có lực lượng sản xuất phát triển, khoa học và công nghệ ngày
càng cao càng có những khả năng khách quan để phát vũ khí, trang bị kỹ
thuật quân sự. Tuy nhiên, việc phát triển vũ khí, trang bị kĩ thuật quân sự
nhằm mục đích gì còn tùy thuộc vào tính chất của cuộc chiến tranh mà giai
cấp và nhà nước đại diện theo đuổi.
Chủ nghĩa xã hội với bản chất ưu việt, việc phát triển vũ khí, trang bị kỹ
thuật quân sự để tăng cường sức mạnh chiến đấu của quân đội là nhằm mục đích
tiến hành chiến tranh chống xâm lược, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

19



×