A. MỞ ĐẦU
Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, một trong
những chức năng quan trọng của Hội đồng nhân dân là chức năng giám sát.
Do đó việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực giám sát của Hội đồng nhân
dân có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thông qua giám sát nhằm kịp thời phát
hiện và khuyến khích những nhân tố tích cực, đề xuất các biện pháp nhằm
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý tồn tại, khắc phục hạn chế trong quá
trình tổ chức thực hiện, góp phần thực hiện đúng đắn, đầy đủ các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân. Thực hiện giám sát một cách toàn diện và nghiêm túc đó
cũng là cơ sở thực tiễn để Hội đồng nhân dân đề ra được những quyết định
đúng đắn về chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an
ninh, đảm bảo cho các quyết định của Hội đồng nhân dân có tính khả thi cao
và phát huy hiệu quả trong đời sống xã hội. Vì vậy yêu cầu đặt ra là tiếp tục
đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, góp
phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân.
Xuất phát từ yêu cầu lý luận và thực tiễn, tôi chọn đề tài: “Nâng cao
hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân
dân tỉnh Thái Nguyên nói riêng nhiệm kỳ 2015 – 2020”
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận luận, nội dung tiểu luận gồm 3 Chương:
Chương I: Một số khái niệm cơ bản.
Chương II: Thực trạng giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Thái
Nguyên nhiệm kỳ 2010 – 2015
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên nói riêng nhiệm
kỳ 2015 – 2020.
1
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Một số khái niệm cơ bản.
1. Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên.
Như vậy, Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
nói riêng có 2 tính chất pháp lý cơ bản: "là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương"; và "là cơ quan đại biểu của nhân dân ở địa phương".
Là cơ quan quyền lực Nhà nước tại địa phương, Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh có chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm trong việc quyết định các chủ
trương, biện pháp quan trọng nhằm xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội ở
địa phương, trong đó có các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp
luật ở địa phương; củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa
phương đối với cả nước.
Là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân tỉnh
được cử tri trên địa bàn tỉnh bầu, là đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ nhân dân ở địa phương. Hội đồng nhân dân có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phương theo quy định pháp luật.
2. Giám sát
- Theo từ điển Tiếng Việt, giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định hay không.
- Có quan niệm cho rằng, giám sát là sự theo dõi, xem xét làm đúng
hoặc sai những điều đã quy định.
- Quan niệm khác coi giám sát là việc theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không; là chức quan thời xưa trông nom, coi
sóc một loại công việc nhất định.
2
- Có ý kiến coi giám sát là một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi một
việc nào đấy.
- Với cách tiếp cận mang tính hệ thống, ý kiến khác lại quan niệm giám
sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên
tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để bắt buộc và định
hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo quy chế,
nhằm đạt được những mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho
pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh.
- Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, khái niệm "giám sát"
được giải thích: Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu
Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ "giám sát" có
khác nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: giám
sát là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm
đã thực hiện đúng hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy định để từ đó
có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt được những
mục đích hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện
đúng và đầy đủ
3. Hoạt động giám sát của HĐND
Giám sát là một trong hai chức năng quan trọng của HĐND, thông qua
hoạt động giám sát chúng ta có thể kiểm chứng lại tính đúng đắn, sự phù hợp
về các quy định của pháp luật đã, đang được áp dụng trong cuộc sống và
những chủ trương biên pháp mà Hội đồng nhân dân đã quyết nghị; giúp
chúng ta phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc và kịp thời có những giải
pháp tháo gỡ để thực hiện nhiệm vụ một cách chủ động. Hoạt động giám sát
còn là cơ sở để thực hiện công tác thẩm tra và đi đến quyết định vấn đề một
cách chính xác, bảo đảm các nghị quyết ban hành có chiều sâu, sát thực tiễn,
phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của cử tri.
3
Nội dung mà Hội đồng nhân dân tiến hành giám sát bao gồm: giám sát
tổ chức hoạt động của các cơ quan do Hội đồng nhân dân bầu ra và giám sát
việc thi hành pháp luật và nghị quyết của các đối tượng chịu sự giám sát của
Hội đồng nhân dân thông qua các hình thức: xem xét báo cáo công tác của
những đối tượng theo quy định pháp luật; xem xét trả lời chất vấn của những
đối tượng này; tổ chức các đoàn giám sát; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do Hội đồng nhân dân bầu, thông qua việc tiếp dân và theo dõi việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Hội đồng nhân dân...
Chủ thể giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm: giám sát của Hội
đồng nhân dân tại kỳ họp, giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, giám
sát của các Ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của đại biểu Hội đồng
nhân dân.
Đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên
môn của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp, Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và các cơ quan nhà nước
khác, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của
công dân ở địa phương trong việc chấp hành pháp luật và nghị quyết của Hội
đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động công tác của các cơ quan do Hội
đồng nhân dân bầu ra hoặc theo quy định của pháp luật là đối tượng phải báo
cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, giám sát việc thi hành pháp luật và
nghị quyết của Hội đồng nhân dân đối với đối tượng thuộc quyền giám sát
của Hội đồng nhân dân.
Để hoạt động giám sát có hiểu quả, Hội đồng nhân dân thực hiện thông
qua các hình thức như: xem xét báo cáo công tác của những đối tượng theo
quy định của pháp luật; xem xét trả lời chất vấn của các đối tượng này; tổ
chức các đoàn giám sát; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội
đồng nhân dân bầu, thông qua việc tiếp dân và theo dõi việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân gửi đến Hội đồng nhân dân……
4
CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động kiểm tra, giám sát của
HĐND tỉnh Thái Nguyên nhiệm kỳ 2010 – 2015
1. Thực trạng
Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên khoá I, nhiệm kỳ 2010 – 2015
được bầu ra trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân vào tháng 4/2010 gồm có
50 đại biểu. Trong đó, đại biểu nữ có 9 đại biểu chiếm tỷ lệ 18%, đồng bào
dân tộc thiểu số 9 đại biểu chiếm 18%, ngoài đảng 3 đại biểu chiếm tỷ lệ 6 %,
tôn giáo 1 đại biểu chiếm tỷ lệ 2%. Tại Kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân
tỉnh đã bầu ra: Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh gồm 3 đồng chí: Chủ
tịch, Phó Chủ tịch và Uỷ viên Thường trực hoạt động chuyên trách; 4 Ban của
Hội đồng nhân dân tỉnh: Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn hoá – Xã hội, Ban
Pháp chế, Ban Dân tộc; trong đó Trưởng các Ban của HĐND tỉnh là Trưởng
ban hoặc Phó Trưởng ban các ban đảng của Tỉnh uỷ, Phó Trưởng ban Hội
đồng nhân dân tỉnh hoạt động chuyên trách và 5 thành viên là lãnh đạo các sở,
ban, ngành của tỉnh, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp
huyện. Trong suốt nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân tỉnh luôn đổi mới phương
thức hoạt động, khắc phục mọi khó khăn, quyết định những chủ trương, biện
pháp quan trọng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc
phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và đời sống tinh thần
của nhân dân trên địa bàn tỉnh, xứng đáng là cơ quan đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương.
Trong nhiệm kỳ 2010– 2015, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh tổ
chức 86 cuộc giám sát dưới nhiều hình thức: giám sát tại kỳ họp của Hội đồng
nhân dân tỉnh, giám sát theo nghị quyết hàng năm của Thường trực Hội đồng
nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh và hoạt động giám sát của các
đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh. Nội dung các cuộc giám sát chủ yếu tập
trung vào việc triển khai thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và
các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Sau mỗi đợt
5
giám sát, tổ chức họp rút kinh nghiệm; chỉ rõ cho các cơ quan, đơn vị chịu sự
giám sát thấy được những ưu điểm cần phát huy và những hạn chế cần khắc
phục; tìm ra những tồn tại và nguyên nhân tồn tại. Trên cơ sở đó có những đề
xuất, kiến nghị với các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát cũng như các cơ quan
đơn vị có thẩm quyền giải quyết. Các đề xuất, kiến nghị của các Đoàn giám
sát đều có tác động tích cực đến hiệu quả công tác của từng đơn vị, được cơ
sở tiếp thu và có biện pháp khắc phục, sửa chữa. Công tác giám sát qua văn
bản cũng được Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân
quan tâm, thường xuyên theo dõi việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân cấp dưới và UBND cùng cấp nhằm bảo đảm các văn
bản đúng thẩm quyền, đúng quy định.
Nhìn chung, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp từ đầu
nhiệm kỳ đến nay đã đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, qua các đợt giám sát, khảo sát đã chỉ ra được những hạn chế, đề ra
nhiều giải pháp thiết thực giúp cơ quan thi hành thực hiện hiệu quả nhiệm vụ
được giao; các chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước được thực hiện
nghiêm túc, đầy đủ theo quy định, qua giám sát cũng đề nghị UBND và Hội
đồng nhân dân ban hành nhiều nghị quyết, quyết định về chủ trương chính
sách trên địa bàn nhằm thực hiện hiệu quả các quy định của Nhà nước cấp
trên và của Đảng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính
trị và ổn định hệ thống chính trị của địa phương.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn, hạn chế do các quy định của pháp luật chưa cụ thể như, đặc biệt là
chế tài trong giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp chưa rõ ràng, nên các
kiến nghị sau giám sát chưa được quan tâm giải quyết, nhưng không có biện
pháp để xử lý, phần nào hoạt động giám sát đang bị xem nhẹ; việc tham gia
hoạt động giám sát của các cá nhân đại biểu Hội đồng nhân dân chưa tích
cực, hầu hết việc giám sát dừng lại ở Thường trực Hội đồng nhân dân, các
Ban Hội đồng nhân dân nên chất lượng giám sát còn hạn chế.
6
2. Đánh giá
2.1 Ưu điểm
Qua theo dõi kết quả việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
về chương trình giám sát hằng năm, thì hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh Thái Nguyên từ đầu nhiệm kỳ đến nay có nhiều tiến bộ và từng bước
đi vào nề nếp với chất lượng và hiệu quả từng bước được nâng lên… Các hoạt
động giám sát của Thường trực, các Ban được tổ chức thường xuyên vào thời
điểm trước, trong và giữa hai kỳ họp; kế hoạch giám sát được xây dựng khá
cụ thể, sát thực tế; nội dung giám sát được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, văn hoá xã hội, pháp luật… từng thời gian có tập trung vào những
vấn đề bức xúc, sát thực tiễn và phù hợp với nguyện vọng của cử tri; hình
thức giám sát không ngừng được đổi mới… Sau giám sát các Đoàn đều rút
kết được những vấn đề bức xúc cần giải quyết, đồng thời nêu những kiến nghị
cụ thể để yêu cầu các cơ quan chức năng giải quyết và được các đơn vị thực
hiện khá nghiêm túc.
2.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong nhiệm kỳ 2010 – 2015
của Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên, hoạt động giám sát vẫn còn nhiều
lúng túng, bất cập, chưa mang lại hiệu quả cao, thường bộc lộ một số hạn chế
chủ yếu sau: Công tác giám sát chưa đều, chủ yếu do Thường trực và các ban
của Hội đồng nhân dân tiến hành; việc tham gia hoạt động giám sát của các
đại biểu còn hạn chế, chủ yếu mới giám sát tại kỳ họp; nội dung giám sát có
lúc chưa sâu, chưa tập trung vào các vấn đề mang tính bức xúc ở địa phương,
những vấn đề mà nhiều cử tri quan tâm. Kết luận của Đoàn giám sát đôi lúc
còn sơ sài, chưa chỉ đúng căn nguyên, đúng trọng tâm vấn đề đề cập… Cũng
có trường hợp kết luận của đoàn giám sát chưa được coi trọng, sự tiếp thu,
khắc phục còn hạn chế. Ngoài ra, trong thực hiện giám sát vẫn còn có sự né
tránh, nể nang, ngại va chạm… nên hiệu lực và hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân chưa cao.
7
2.3 Nguyên nhân
* Về nhận thức:
Việc nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về vị trí, chức năng, vai trò,
trách nhiệm của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân
dân, các tổ đại biểu và các đại biểu Hội đồng nhân dân trong hoạt động Hội
đồng nhân dân và công tác giám sát của Hội đồng nhân dân; là sự lẫn lộn giữa
hai khái niệm giám sát và thanh tra, kiểm tra; là việc chưa nắm vững đối
tượng giám sát và nội dung giám sát.
* Các quy định của pháp luật – căn cứ pháp lý cho hoạt động giám sát:
Mặc dù, hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân đã được sửa đổi, bổ sung khá nhiều nhưng vẫn chưa chưa đồng bộ, thiếu
thống nhất, thiếu cụ thể, đặc biệt thiếu hẳn những chế tài, biện pháp xử lý
sau giám sát đối với các chủ thể bị giám sát. Chúng ta đã có Luật giám sát
của Quốc hội nhưng Hội đồng nhân dân thì chưa có, vì vậy, Hội đồng nhân
dân chưa có công cụ pháp lý đủ mạnh và hữu hiệu trong hoạt động giám sát
của mình.
* Sự thiếu tự tin và chưa quyết liệt:
Tư tưởng nể nang, ngại va chạm, biết nhưng không dám nói hoặc nói
như thế nào để giữ hòa khí vẫn còn trong một số đại biểu Hội đồng nhân dân.
Thêm nữa, tính hình thức trong hoạt động của Hội đồng nhân dân vẫn còn, cơ
chế cho hoạt động giám sát của từng đại biểu chưa rõ ràng làm cho một số đại
biểu Hội đồng nhân dân thiếu tự tin và tin tưởng vào hoạt động Hội đồng
nhân dân và công tác giám sát của Hội đồng nhân dân.
* Về năng lực, trình độ:
Nội dung hoạt động Hội đồng nhân dân và công tác giám sát của Hội
đồng nhân dân rất phong phú, đa dạng, có nhiều vấn đề mang tính nghiệp vụ
chuyên sâu trong khi đa số các đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động kiêm
nhiệm, mỗi người chỉ có năng lực chuyên môn trong từng lĩnh vực chuyên
ngành nhất định, kỹ năng thảo luận, đánh giá vấn đề còn hạn chế. Điều này
8
gây khó khăn đáng kể cho hoạt động Hội đồng nhân dân và công tác giám sát
của Hội đồng nhân dân.
3. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, một trong những yếu tố tạo nên thành công của hoạt động
giám sát là vai trò tích cực của đại biểu Hội đồng nhân dân, chủ thể thực hiện
quyền năng giám sát. Do đó, phát huy vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân
trong hoạt động giám sát là một trong những yếu tố quyết định chất lượng
giám sát.
Thứ hai, phối hợp chặt chẽ với UBND huyện trong việc chỉ đạo, đôn
đốc các cơ quan có liên quan thực hiện các kiến nghị sau giám sát.
Thứ ba, phát huy vai trò giám sát tại các kỳ họp, đối với những nội
dung chậm được giải quyết, qua tổng hợp Thường trực Hội đồng nhân dân có
thể đưa ra chất vấn tại kỳ họp để tiếp tục đôn đốc việc thực hiện.
Thứ tư, một số trường hợp, Hội đồng nhân dân có thể tổ chức tái giám
sát, tiếp tục kiến nghị và đeo bám đến cùng, chọn vấn đề nổi cộm, phối hợp
với các cơ quan thông tin địa phương tạo dư luận xã hội tích cực nhằm thúc
đẩy tiến độ giải quyết các kiến nghị sau giám sát.
9
CHƯƠNG III: Một số giải pháp nâng cao vai trò của hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân
tỉnh Thái Nguyên nói riêng nhiệm kỳ 2015 - 2020
Một là, các kiến nghị trong báo cáo, thông báo kết luận giám sát phải
chỉ rõ những hạn chế, thiếu sót và đảm bảo tính hợp lý, phù hợp với điều kiện
thực tế, đề xuất hướng giải quyết khả thi, xác định đúng các nội dung cần kiến
nghị với cơ quan có thẩm quyền về những giải pháp để khắc phục, tránh
chung chung gây khó khăn cho cơ quan chấp hành trong quá trình thực hiện.
Nếu kiến nghị chung chung, không chỉ ra được những tồn tại, thiếu sót của cơ
quan nhà nước, không thấy được sự bất cập của chính sách thì hiệu quả giám
sát sẽ không cao, mang nặng tính hình thức.
Hai là, phát huy quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, tiếp
tục đổi mới hoạt động chất vấn theo hướng đối thoại trực tiếp. Các ý kiến đặt
ra phải trên cơ sở khảo sát thực tế, nguyện vọng chính đáng của nhân dân
hoặc dựa trên cơ sở khảo sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân. Để bảo đảm việc thực hiện chất vấn đối với các vấn đề đã kiến nghị qua
các cuộc giám sát của Hội đồng nhân dân mà các cơ quan, đơn vị có liên quan
chưa giải quyết kịp thời, đạt được hiệu quả thì phải hạn chế những chất vấn
mang tính kiến nghị, thông tin, người được chất vấn phải trả lời rõ ràng, phải
có biện pháp khắc phục cụ thể.
Ba là, tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân, các ban Hội đồng nhân dân huyện trong hoạt động
giám sát thực hiện các kiến nghị sau giám sát. Coi công tác kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện các kiến nghị qua các cuộc giám sát là một việc làm thường
xuyên. Phân công hợp lý cho các Ban Hội đồng nhân dân trong việc kiểm tra,
đôn đốc thực hiện kiến nghị sau giám sát, góp phần tháo gỡ kịp thời những
khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan được giám sát, động viên, khuyến
khích các cơ quan này phát huy những mặt tốt và chỉ ra được những sai sót
10
cần kịp thời sửa chữa. Từ đó mà tạo được mối quan hệ tốt và gắn bó giữa
HĐND và các đơn vị được giám sát.
Bốn là, thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp giữa Thường trực Hội đồng
nhân dân, các ban Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan hữu
quan trong hoạt động giám sát thực hiện kiến nghị sau giám sát.
Năm là, tăng cường hoạt động giám sát thực hiện kiến nghị tại kỳ họp,
chú trọng nâng cao chất lượng thảo luận tại các phiên họp toàn thể. Việc thảo
luận các báo cáo tại phiên họp toàn thể sẽ giúp cho các đại biểu Hội đồng
nhân dân tập trung ý chí, tranh luận và thảo luận các vấn đề, nhất là những
vấn đề đã kiến nghị nhưng chậm giải quyết để nghe các cơ quan giải trình.
Trên cơ sở thông tin đã được phân tích, đại biểu tiếp tục cho ý kiến về vấn đề
đặt ra, nếu còn khúc mắc. Muốn vậy, cần thực hiện tốt chế độ cung cấp thông
tin cho đại biểu làm cơ sở đánh giá, xem xét.
11
C. KẾT LUẬN
Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện
nay, vấn đề tiếp tục cải cách, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung và hệ thống chính quyền địa
phương nói riêng trong đó có Hội đồng nhân dân các cấp là yêu cầu khách
quan và tất yếu. Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đồng thời đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do đó, xây dựng
hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp có thực quyền để đảm đương đầy
đủ vai trò, trách nhiệm là một yêu cầu bức xúc hiện nay. Với hai chức năng
cơ bản: chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương và
chức năng giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thì chức năng giám
sát có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đảm bảo HĐND thực sự là cơ quan đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền
lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một
trong những yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng
nhân dân.
Để thực hiện tốt chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân, cần sửa
đổi bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân, ban hành Luật Giám sát của Hội đồng nhân dân. Trong đó,
chú trọng bảo đảm các chế tài đủ mạnh để Hội đồng nhân dân hoạt động thực
quyền hơn, đại biểu Hội đồng nhân dân phát huy hiệu quả chức năng giám
sát, nhất là có chế tài cụ thể xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân không chấp hành
nội dung yêu cầu qua giám sát.
Cần ban hành hướng dẫn thực hiện Luật Thi đua khen thưởng đối với
cơ quan dân cử ở địa phương nhằm động viên, khen thưởng kịp thời các đại
biểu có thành tích trong hoạt động của Hội đồng nhân dân.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chính sách công - Khoa Nhà nước và pháp luật - HV Báo
chí tuyên truyền.
2. Bộ máy hành chính tỉnh Thái Nguyên - NXB Văn học - Thái
Nguyên 2002
3. Báo Thái Nguyên điện tử
4. Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên
5. Một số tài liệu tham khảo khác.
13
MỤC LỤC
14