Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

tiểu luận cao học hoạch định chính sách công cơ sở hoạch định chính sách công (autosaved)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.3 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH

Đề tài

NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM

1


Phần I:
GIỚI THIỆU CHUNG
1. Đặt vấn đề.

Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân
hoà giàu nghèo diễn ra rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm nghèo và
giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây
dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy
được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và
tiến bộ của thời đại.
Xoá đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó còn là
vấn đề kinh tế -xã hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa
chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Thực hiện thành công chương trình
xoá đói giảm nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu
nhập chính đáng cho người nông dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xoá đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn còn là nền tảng, là cơ sở để cho sự
tăng trưởng và phát triển một nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp
đổi mới đất nước. Hơn thế nữa nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị xã
hội. Xoá đói giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăn sóc tốt sức
khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà


nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành
mạnh, giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo,
ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và
chủ trương của đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ
nạn xã hội khác, bảo vệ môi trường sinh thái.
Với tầm quan trọng của việc xóa đói giảm nghèo hiện nay thì việc xây
dựng một chính sách xóa đói giảm nghèo cụ thể sẽ cần phải được thực hiện
một cách chu toàn hơn. Trong đó hoạch định chính sách chính là giai đoạn
quyết định một chính sách có phù hợp và đúng đắn để áp dụng vào thực tiễn
2


hay không. Muốn hoạch định một chính sách xóa đói giảm nghèo tốt thì cần
phải có những căn cứ chủ yếu để dựa vào, từ đó sẽ xác định được rõ ràng mục
tiêu và giải pháp mà chính sách đang hướng đến.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi:
- Hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo cần dựa vào những căn
cứ nào?
- Những căn cứ đó có ảnh hưởng như thế nào đến quá trình hoạch định
chính sách xóa đói giảm nghèo?
- Những hạn chế khi hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo gặp phải
là gì? Phương pháp giải quyết hạn chế?
3. Đối tượng & phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Căn cứ để hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo
- Phạm vi nghiên cứu: Trong giai đoạn hoạch định chính sách xóa
đói giảm nghèo ở Việt nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết : Thông qua giáo trình nghiên cứu
những khái niệm chuyên ngành để hiểu sâu hơn về vấn đề đang cần giải
quyết.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp kết hợp với phân tích mô tả,
so sánh
+ Phương pháp phân tích- tổng hợp...

3


4


Phần II:
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.

CHÍNH SÁCH CÔNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1.1. Khái niệm chính sách công
Chính sách: Là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà
quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của
mình.
Chính sách công: Là quyết định của các chủ thể quyền lực nhà nước, nhằm
quy định mục đích, cách thức và chế định hành động của những đối tượng liên
quan, để giải quyết những vấn đề nhất định mà xã hội đặt ra. Đó là tổng thể các
chuẩn mực, biện phá mà nhà nước sử dụng để quản lý xã hội. ( Khoa học chính
sách công- Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội 2008, tr 16)
1.2. Quy trình chính sách công.
Quy trình chính sách công là những bước đi cơ bản, tất yếu. bao quát toàn

bộ đời sống của một chính sách, kể từ khi nảy sinh ý tưởng( vấn đề chính sách)
tới việc định hình, hoàn chỉnh, thi hành, kiểm nghiệm, sửa đổi hoặc hủy bỏ.
Quy trình chính sách công gồm:

-

Hoạch định chính sách công

-

Thực thi chính sách công

-

Đánh giá, tổng kết chính sách công.

2.
2.1.

HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG
Khái niệm hoạch định chính sách công
Hoạch định chính sách công (Public Policy Making ) là giai đoạn đầu
tiên trong quy trình xây dựng một chính sách. Là việc xây dựng một chính
sách mới theo yêu cầu quản lý, bao gồm việc nghiên cứu đề xuất ra một chính
sách và ban hành chính sách đó. Quá trình hoạch định chính sách do nhiều
khâu hợp thành với ảnh hưởng tác động lẫn nhau tương đối phức tạp. Thực
chất hoạch định chính sách cũng là một quy trình với các bước đi cụ thể.
5



Sản phẩm của giai đoạn hoạch định chính sách không phải là những
kết quả của các hoạt động thực tế, mà ó thường được biểu hiện dưới dạng
các quyết định do các cấp có thẩm quyền ban hành để đưa vào áp dụng
trong thực tiễn.
2.2.

Vị trí, vai trò của họach định chính sách công.
Hoạch định chính sách có vị trí quyết định đối với toàn bộ quy trình
chính sách, vì:
- Thứ nhất, trên cơ sở cho ra đời một chính sách tồn tại thường xuyên và
liên hệ mật thiết với đời sống xã hội, hoạch định chính sách khởi đầu, mở
đường cho một quy trình chính sách, bằng việc định ra mục tiêu, cách thức và
biện pháp đạt tới mục tiêu đó.
- Thứ hai, là giai đoạn quan trọng đầu tiên trong quy trình chính sách,
sản phẩm của hoạch định chính sách vừa là điều kiện để tiến hành giai đoạn
tiếp theo, vừa là căn cứ để đánh giá toàn bộ quy trình chính sách.
- Thứ ba, việc đề ra một chính sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tế
sẽ đem lại kết quả tích cực trên thực tiễn. Chính sách là những công cụ vĩ mô
của Nhà nước để điều tiết và quản lý các quá trình kinh tế- xã hội. Chính sách
đúng đắn và phù hợp sẽ đảm bảo cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và qua đó góp phần tích
cực vào việc củng cố quyền lực Nhà nước.
Đối với một quốc gia cũng như một tổ chức, việc xác định chính sách là
vô cùng cần thiết bởi đó là xác định hướng đi gắn với lập kế hoạch dài hạn để
có thể phát triển bền vững. Trong một thế giới đa dạng, phức tạp, thay đổi
nhanh chóng hiện nay thì sự lựa chọn và định hướng chính sách có ý nghĩa
quyết định đến tương lai mỗi quốc gia; thể hiện tính chủ động của các chủ thể
trong việc lựa chọn con đường phát triển của mình.
3. CÁC CĂN CỨ CHỦ YẾU ĐỂ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG.
3.1 Căn cứ chính trị

Bất kỳ một chính sách nào của nhà nước đều mang tính chính trị, có
nghĩa là nó căn cứ vào đường lối chính trị và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cầm
6


quyền, phục vụ đường lối và tư tưởng đó. Chính sách là công cụ quản lý của
Nhà nước, hướng vào những mục tiêu của Nhà nước, mà những mục tiêu này
luôn thể hiện bản chất và phương hướng của Đảng cầm quyền.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, chính trị thể hiện mối quan hệ giữa các giai
cấp, các đảng phái, bao gồm các đảng chính trị, các nhóm có áp lực. Sự cạnh
tranh giữa các đảng phái và cuộc đấu tranh mạnh mẽ cho sự thăng tiến, quyền
chỉ huy, kiểm soát ảnh cho ảnh hưởng và vị trí của đảng mình, tạo nên môi
trường chính trị của những quốc gia này. Song, quyền lực chính trị thực tế tập
trung vào tay đảng (hay liên minh đảng) chính trị đang cầm quyền trong giai
đoạn đó. Ở nước theo chế độ đại nghị, thủ tướng và nội các là do đảng nắm đa
số ghế trong quốc hội lập nên, vì vậy đương nhiên nhà nước sẽ phục vụ cho
đường lối chính trị của đáng đó. Trong các nước theo chế độ tổng thống, tuy
tổng thống là người đứng đầu quốc gia, nắm quyền hành pháp tối cao và
thành lập nên nội các, song các chính sách của chính phủ đề ra đều phải được
quốc hội thông qua. Do đó, ngay cả trong trường hợp tổng thống không phải
người của đảng chiếm đa số thì những chính sách của chính phủ vẫn phản ánh
lợi ích của đảng này. Như vậy, các chính sách của chính phủ luôn tuân theo
đường lối chính trị của đảng (hoặc liên minh đảng) cầm quyền trong giai đoạn
đó. Có thể nói, chính trị quyết định nội dung của chính sách cũng như quyết
định việc lựa chọn giữa các phương án chính sách đưa ra. Vì vậy, khi hoạch
định một chính sách, cần xác định rõ: chính sách dự định ban hành chịu tác
động của những yếu tố chính trị nào, chịu ảnh hưởng của những lực lượng
chính trị nào và những tác động chính trị nào có thể nảy sinh khi thực hiện
chính sách.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà

nước ta thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước. Đảng lãnh đạo
Nhà nước thông qua việc vạch ra cương lĩnh, chiến lược và định hướng về
chính sách. Nhà nước thể chế hóa những đường lối, chủ trương của Đảng
bằng pháp luật và thực thi những đường lối chủ trương đó trong thực tiễn. Vì
7


vậy, những chính sách do Nhà nước đề ra phải căn cứ vào đường lối chủ
trương và những định hướng chính sách của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay,
các chính sách của Nhà nước phải được định hướng và đẩy mạnh công cuộc
đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao
và bền vững, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an
ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
3.2 Căn cứ pháp luật
Trong mỗi quốc gia đều tồn tại những chuẩn mực chung bắt buộc mọi
người phải tuân thủ. Những chuẩn mực chung đó được cơ quan quyền lực tối
cao của nhà nước thông qua và ban hành dưới hình thức văn bản pháp luật.
Hệ thống pháp luật tạo nên những khuôn khổ pháp lý quy định và điều chỉnh
tất cả các quan hệ xã hội. Các chính sách công cũng phải căn cứ vào hệ thống
pháp luật hiện hành.
Bản thân các thể chế pháp luật không gây ra hành động. Chúng tác động
đến các chính sách bằng cách định hình sự hiện diện của vấn đề và các giải
pháp, cũng như các phương pháp để thực hiện các giải pháp đó. Các thể chế
pháp luật cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những quy tắc hành
động, tiêu chuan xây dựng chính sách, những ràng buộc và khuôn khổ đối với
chính sách. Nói cách khác, các chính sách không được trái với những quy
định pháp luật hiện hành. Điều đó có nghĩa là khi hoạch định một chính sách
cần nắm được tất cả các quy định pháp luật đang điều tiết lĩnh vực liên quan

đến chính sách đó.
Đồng thời, chính sách lại là một nguồn tạo ra những thể chế pháp luật
mới. Thông thường, sau khi nhà nước ban hành một chính sách, để thực thi
chính sách đó trong cuộc sống, nhà nước thường phải thể chế hóa chính sách
đó thành các quy phạm pháp luật vừa khuyến khích, vừa cưỡng chế đối với
việc thi hành chính sách đó.
8


Ở nước ta, pháp luật Nhà nước là một hệ thống pháp luật thống nhất,
phản ánh ý chí, nguyện vọng và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, được phát triển từng bước phù hợp với định hướng XHCN mà Đảng
đã đề ra. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Hiến pháp mới nhất của nước ta là Hiến pháp được ban hành
vào năm 1992. Cho đến nay, nhà nước ta đã ban hành được một hệ thống
pháp luật bao quát và điều chỉnh các qua hệ xã hội trong nhiều lĩnh vực đời
sống. Những văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành
nền kinh tế thị trường ở nước ta và việc quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường
ngày càng đi vào nề nếp.
Hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành ở nước ta là sự thể chế hóa
Cương lĩnh, Chiến lược và định hướng chính sách… của Đảng ta. Vì vậy, các
chính sách không những phải căn cứ vào những quan điểm, đường lối của
Đảng, mà còn phải tuân thủ những quy phạm pháp luật được thể chế hóa từ
đường lối chính trị đó. Mặt khác, một chính sách mới được ban hành đồng
thời lại tạo ra một lĩnh vực điều tiết mới của hệ thống pháp luật. Có thể nói,
chính sách gắn bó chặt chẽ với hệ thống luật pháp, có mối quan hệ nhân quả
và chế ước lẫn nhau.
3.3 Căn cứ kinh tế
Mỗi chính sách đề ra phải dựa vào hoàn cảnh kinh tế cụ thể, chúng
không thể vượt quá điều kiện kinh tế và nguồn lực kinh tế hiện có. Ở tầm vĩ

mô, những điều kiện kinh tế đó là trình độ phát triển của nền kinh tế, mức độ
tăng trưởng kinh tế, sự phát triển và nhu cầu phát triển của lĩnh vực kinh tế
mà chính sách tác động đến…Khi hoạch đinh chính sách cần xác định những
yếu tố kinh tế nào tác động đến lĩnh vực chính sách dự định ban hành, và ảnh
hưởng kinh tế có thể phát sinh khi thực hiện chính sách đó. Việc tính đến các
yếu tố kinh tế này bảo đảm cho chính sách được đề ra có tính khả thi trong
điều kiện kinh tế hiện có.

9


Ở nước ta, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng
về kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay,nước ta vẫn là một trong những nước
nghèo, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh
doanh còn thấp, cơ sở lạc hậu,… Trong môi trường kinh tế đó, các giải pháp
của chính sách phải phù hợp với những điều kiện kinh tế hiện có.
3.4 Căn cứ xã hội
Việc đề ra một chính sách phải xuất phát từ những căn cứ xã hội. Đó là:
mức sống của dân cư, tình trạng công ăn việc làm, sự công bằng xã hội, trình
độ dân trí, chất lượng giáo dục, y tế,…..
Nếu các căn cứ xã hội ở mức tiến bộ thì việc đề ra các giải pháp của một
chính sách công có thể dựa vào ý thức tự giác của nhân dân, được sự ủng hộ
của nhiều người , ít bị những yếu tố xã hội tiêu cực cản trở. Các căn cứ xã hội
là điều kiện rất quan trọng, đảm bảo cho sự thành công của một chính sách.
Vì vậy, khi hoạch định chính sách, luôn phải xác định rõ các yếu tố xã hội nào
tác động đến lĩnh vực chính sách đó và ảnh hưởng xã hội có thể xuất hiện khi
thực thi chính sách.
Ở nước ta, điều kiện xã hội có nhiều mặt tiến bộ đời sống vật chất của
đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, trình độ dân trí và hưởng thụ văn
hóa được nâng cao,…Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tiêu cực và những vấn đề xã

hội bức bách đang đặt ra như nạn tham nhũng, buôn lậu chưa ngăn chặn được,
việc làm đang là vấn đề gay gắt, sự phân hóa giàu nghèo tăng nhanh, tệ nạn
xã hội phát triển,….
3.5 Căn cứ khoa học- công nghệ.
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát
triển nhảy vọt, làm biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và hình
thành nên kinh tế tri thức. Các nước đang phát triển có cơ hội để thu hẹp
khoảng cách, cải thiện vị thế của mình, đồng thời cũng đứng trước nguy cơ tụt
hậu xa hơ và bị phụ thuộc nếu không tranh thủ được cơ hội và khắc phục các
yếu kém để vươn lên. Khoa học- công nghẹ là chiếc chìa khóa mở đường đua
10


nước ta bước vào thời kỳ CHN-HĐH. Khoa học- công nghệ ở đây bao gồm cả
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Do đó, mọi chính sách đề ra đều phải
tiếp thu và tận dụng những thành tựu hiện có của khoa học và công nghệ.
Chính những yếu tố khoa học- công nghệ tác động rất lớn đến sự thành công
của một chính sách.
3.6 Bối cảnh quốc tế
Trong suốt những thập kỷ qua, bối cảnh quốc tế đã có nhiều thay đổi.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào nhưng vẫn có điều
kiện và khả năng phục hồi và phát triển. Thế giới đang thay đổi nhanh chóng
với những biểu hiện tuy rất đa dạng nhưng rất nhất quán về chiều hướng: toàn
cầu hóa và kinh tế tri thức. Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, ngày càng
có nhiều nước tham gia, đang bị một số nước phát triển và một số tập đoàn
kinh tế xuyên quốc gia chi phối, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực.
Toàn cầu hóa trở thành một động lực chính thúc đẩy tương tác giữa các quốc
gia trên mọi lĩnh vực. Toàn cầu hóa dẫn đến sự thay đổi về chính sách liên
quốc gia cũng như chính sách của từng quốc gia nhằm tăng tính hiệu quả kinh
tế thông qua việc hội nhập kinh tế, nới lỏng sự kiểm soát các thị trường quốc

gia. Trong bối cảnh đó, các chính sách của nhà nước ta phải tập tính đến
những yếu tố quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, song phải trên nguyên tắc
giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, các chính sách của Nhà nước phải được xác lập dựa trên những
căn cứ nhất định. Những căn cứ này làm cho chính sách đề ra trở thành một
bộ phận thống nhất của hệ thống chính sách. Vừa giải quyết mục tiêu riêng
của từng chính sách, vừa góp phần thực hiện mục tiêu chung của quốc gia.

11


Chương II:
CHÍNH SÁCH CỤ THỂ
1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
Nghèo đói tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, đặc biệt là ở các vùng
khó khăn như miền núi, hải đảo. Hơn 95% người nghèo sống ở khu vực nông
thôn. Tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm ở nông thôn cao gấp 10 lần so với ở
thành thị. Mức độ nghèo còn rất cao ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, nhưng ở
những vùng này tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại trong những năm
gần đây. Nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ nghèo rất cao và việc giảm nghèo còn
mang tính chất kinh niên ở một số nhóm dân tộc ít người gặp nhiều khó khăn,
đòi hỏi nhiều biện pháp lâu dài. Chỉ chiếm 14,5% tổng dân số nhưng đồng
bào dân tộc ít người chiếm đến một nửa dân số nghèo ở Việt Nam.
Bên cạnh những thách thức về giảm nghèo ở nhóm dân tộc thiểu số và
những vùng khó khăn, quá trình đô thị hoá nhanh chóng và sự tăng lên ồ ạt
của dòng người di cư từ nông thôn về các thành phố lớn cũng làm tăng áp lực
giảm nghèo ở khu vực thành thị. Nghèo đói ở khu vực thành thị không chỉ thể
hiện ở thu nhập thấp, mà còn thể hiện trong thiếu hụt về tiếp cận các dịch vụ y
tế, giáo dục, nước sạch và vệ sinh, nhà ở, các mạng lưới an sinh xã hội, cơ hội

tham gia vào thị trường lao động và các hoạt động của cộng đồng. Đặc biệt,
đặc tính không ổn định và hay di chuyển của những đối tượng di cư tạm thời
hoặc không có đăng ký hộ khẩu, cũng khiến cho họ khó tiếp cận với các trợ
giúp và dịch vụ công.
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo tại
Việt Nam 10 năm qua đã đạt được những kết quả nổi bật. Đã có hơn 500
nghìn lượt hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở, 542 triệu lượt người được hỗ trợ
bảo hiểm xã hội. Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện.
Thông qua Chương trình 135 giai đoạn 2, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn,
bản đặc biệt khó khăn giảm từ 47% năm 2006 xuống còn 28,8% năm 2010;
12


thu nhập bình quân đầu người là 4,2 triệuđồng/người/năm;…Tỷ lệ hộ nghèo
giảm nhanh, hoàn thành vượt mục tiêu Quốc hội đề ra từ 14,2% năm 2010
xuống còn 9,6% năm 2012.
Mục tiêu Việt Nam đặt ra đến cuối năm 2013 là tỷ lệ nghèo của cả nước
giảm 2%/năm, từ 9,6% xuống còn 7,6%. Riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện
nghèo giảm bình quân 5%/năm, từ 43,89% năm 2012 xuống còn 38,89% năm
2013. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn dưới 5% theo
chuẩn nghèo hiện hành; tỷ lệ nghèo ở các huyện nghèo còn dưới 30%;…
Tuy nhiên, Chương trình xoá đói, giảm nghèo vẫn còn một số hạn chế :
tỷ lệ giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững; tốc độ giảm nghèo có xu
hướng chậm lại, nguy cơ tái nghèo cao khi có những biến động về kinh tế như
khủng hoảng, thất nghiệp cũng như những rủi ro về dịch bệnh, ốm đau, thiên
tai khốc liệt và bất thường do biến đổi khí hậu; khoảng cách giàu-nghèo giữa
các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi, có vùng
còn trên 50% hộ nghèo, cá biệt có vùng còn 60-70% hộ nghèo;…Nguyên
nhân cơ bản của tình trạng trên là nhiều cơ chế, chính sách còn chồng chéo
dẫn đến việc phân bổ, hiệu quả sử dụng các nguồn lực chưa cao; Nhiều địa

phương còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chưa tự lực vươn lên
thoát nghèo; bên cạnh đó vẫn còn một số cơ chế, chính sách chưa phù hợp với
thực tiễn nhưng việc sửa đổi, bổ sung còn chậm; công tác tuyên truyền, vận
động nâng cao nhận thức về giảm nghèo chưa được tổ chức thường xuyên;…
Để xoá đói, giảm nghèo bền vững, không chỉ cần có các chính sách
giúp các hộ nghèo thoát nghèo mà còn phải có các chính sách phù hợp và thoả
đáng để những hộ không nghèo không bị rơi vào nghèo đói; cần tiếp tục xây
dựng và triển khai đồng bộ Chương trình, trong đó tập trung các biện pháp
xóa đói, giảm nghèo tại các vùng và các tỉnh có số hộ nghèo lớn nhất so với
cả nước, nhất là ở các vùng đặc biệt khó khăn; đa dạng hoá huy động nguồn
lực trong nước và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, và đổi mới phương thức thực
hiện; giảm nghèo gắn với dạy nghề và giải quyết việc làm, nâng cao trình độ
13


và kiến thức cho người nghèo để họ nâng cao năng lực, tự vươn lên thoát
nghèo; tạo cơ hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội, trước hết là người còn khả
năng lao động tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu; bình đẳng
về cơ hội giáo dục, đào tạo, dạy nghề, việc làm, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở,
văn hoá, thể dục thể thao.
Điểm nổi bật trong chính sách giảm nghèo của Nhà nước là không chỉ
chú ý các hộ nghèo mà còn hướng tới hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo nhằm
hạn chế tái nghèo, có như vậy mới bảo đảm giảm nghèo bền vững. Chính phủ
đã nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho một số đối tượng cận nghèo;
chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi đối với hộ mới thoát nghèo thực hiện theo
hướng cho hộ mới thoát nghèo tiếp tục hưởng chế độ vay vốn tín dụng ưu đãi
trong thời hạn nhất định; cho vay ưu đãi có lãi suất cho hộ nghèo để nâng cao
ý thức và trách nhiệm sử dụng vốn;…Tiếp tục đầu tư hiệu quả cho nông
nghiệp và nông thôn./.
2. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI

GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM.
2.1 Căn cứ chính trị
Khi hoạch định một chính sách bất kỳ nói chung hay chính sách xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam nói riêng trước hết chúng ta cần phải căn cứ vào nền
thể chế chính trị của nước ta là nước Việt nam dân chủ cộng hòa và do Đảng
cộng sản lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra cương lĩnh,
chiến lược và định hướng về chính sách. Nhà nước thể chế hóa những đường
lối, chủ trương của Đảng bằng pháp luật và thực thi những đường lối chủ
trương đó trong thực tiễn. Vì vậy, những chính sách do Nhà nước đề ra phải
căn cứ vào đường lối chủ trương và những định hướng chính sách của Đảng.
Trong quá trình hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo cần lưu ý đến
những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, để từ đó có những giải
pháp và định hướng giải quyết vấn đề đói nghèo phù hợp với mục tiêu phát
triển chung của đất nước.
14


2.1.1 Quan điểm của Đảng:
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đã đề ra chủ trương xóa đói
giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân
cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã hội và đã trở thành một
chủ trương chiến lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các
kỳ Đại hội của Đảng.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng
đặc biệt của công tác xóa đói giảm nghèo, xác định phải nhanh chóng đưa các
hộ nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu và sớm hòa nhập với sự phát
triển chung của đất nước; đề ra Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo
trong 5 năm 1996 – 2000 cùng với 10 Chương trình kinh tế - xã hội khác.
Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính thức
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo (Chương

trình 133) cho giai đoạn 1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp
tục bổ sung Chương trình 135 -Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng
thiết yếu các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục
tiêu chính của Chương trình này là hỗ trợ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng
như: hệ thống điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế....tại 1715 xã
nghèo nói trên. Kết quả là đến năm 2000 tỷ lệ nghèo của cả nước còn 10%
theo chuẩn cũ. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy, không thể chỉ theo đuổi
mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo mà cần giữ vững kết quả giảm nghèo đã
đạt được, tăng khả năng bền vững, hiệu quả của công tác giảm nghèo, đặc biệt
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, quan điểm giảm nghèo
bền vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng
là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo. Quan
tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng
cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với nơi khác,
tạo điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển. Đi đôi với
việc xây dựng kết cấu hạ tầng, phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết
15


để dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành
nghề, tăng nhanh thu nhập…Nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo,
tránh tình trạng tái nghèo”.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu
nâng cao các phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người
nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách....Nhà nước tăng đầu tư từ ngân
sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung
cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là
về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách...và
dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân và là yếu tố quan

trọng góp phần ổn định xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Thực
hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa
dạng hóa nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất
là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm
giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có
các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm
chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.
2.1.2. Quan điểm của Nhà nước:
Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu
cần đạt được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020: Giảm nghèo bền vững là
một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của
người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số;
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng
cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và
các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: Thu nhập của hộ nghèo tăng lên 3,5

16


lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện nghèo, xã nghèo
giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn.
Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề
y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày
càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở
các huyện nghèo; xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư
đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao
thông, điện, nước sinh hoạt.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong giai đọan 2011 – 2015 sẽ

tiếp tục thực hiện những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã
và đang thực hiện: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực
hiện Chương trình 135 giai đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của
chính phủ và các chương trình phát triển kinh tế xã hôi khác. Nguồn lực
đề thực hiện công tác giảm nghèo sẽ được huy động tối đa, không chỉ
bằng Ngân sách Nhà nước mà còn huy động được sự tham gia với tinh
thần trách nhiệm cao của các tập đoàn kinh tế, các Tổng Công ty nhà
nước, Ngân hàng thương mại…và đặc biệt là từ chính bản thân người
nghèo. Phối hợp nhiều phương thức hỗ trợ người nghèo như hỗ trợ người
nghèo trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về nhà ở, hỗ trợ về cung cấp
và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ giao đất, giao rừng; về
đào tạo nguồn nhân lực…Đồng thời khắc phục những hạn chế như: Các
chương trình giảm nghèo triển khai chưa toàn diện, nhiều chính sách,
chương trình giảm nghèo được ban hành nhưng còn mang tình ngắn hạn,
chồng chéo, nguồn lực cho giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại bị phân
tán, dàn trải, thiếu giải pháp cụ thể gắn kết việc thực hiện chính sách giảm
nghèo với chính sách an sinh xã hội, việc phối hợp chỉ đạo thực hiện giữa
các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả…(Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2011), Hội nghị triển khai nhiệm vụ công tác
năm 2011, NXB Lao động – Xã hội,)
17


Với những giải pháp đồng bộ như vậy, sẽ đảm bảo tính khả thi trong việc
thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của của Đảng và Nhà nước trong
giai đoạn 2011 – 2015./
3.2 Căn cứ pháp luật
Hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành ở nước ta là sự thể chế hóa
Cương lĩnh, Chiến lược và định hướng chính sách… của Đảng ta. Vì vậy, các
chính sách không những phải căn cứ vào những quan điểm, đường lối của
Đảng, mà còn phải tuân thủ những quy phạm pháp luật được thể chế hóa từ

đường lối chính trị đó. Mặt khác, một chính sách mới được ban hành đồng
thời lại tạo ra một lĩnh vực điều tiết mới của hệ thống pháp luật. Có thể nói,
chính sách gắn bó chặt chẽ với hệ thống luật pháp, có mối quan hệ nhân quả
và chế ước lẫn nhau.
Dưới đây là những văn bản để thể chế hóa Cương lĩnh, Chiến lược và
định hướng của Đảng về xóa đói giảm nghèo ở Việt nam. Căn cứ vào những
văn bản dưới đây để có thể hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo:
-

Quyết đinh của thủ tướng chính phủ số 143/2001/QĐ-TTG ngày 27 tháng 9
năm 2001 phê duyệt “ Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và

-

việc làm giai đoạn 2001- 2005.
Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 08 tháng 10 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo

-

bền vững giai đoạn 2012 – 2015.
Căn cứ Nghị quyết số 13/2011/QH13 ngày 09 tháng 11 năm 2011 của Quốc hội

-

khóa XIII về Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011 - 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về

-


Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020;
Căn cứ Quyết định số 135/2009/QĐ-TTg ngày 04 tháng 11 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các
Chương trình mục tiêu quốc gia;

18


-

Căn cứ Quyết định số 2406/QĐ-TTg ngày 18 tháng 12 năm 2011 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục các Chương trình mục tiêu quốc
gia giai đoạn 2012 - 2015;
3.3 Căn cứ kinh tế
Ở nước ta, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng
về kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay,nước ta vẫn là một trong những nước
nghèo, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh
doanh còn thấp, cơ sở lạc hậu,… Trong môi trường kinh tế đó, các giải pháp
của chính sách phải phù hợp với những điều kiện kinh tế hiện có.
Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo về
kinh tế là điều kiện tiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xã hội .Vì
vậy, phải tiến hành thực hiện xoá đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh
sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách
mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc theo hướng
sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng thị trường nông
thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao đông ở nông thôn vào sản xuát tiểu thủ
công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để xoá đói giảm
nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được xem
như là 1 giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoạt cho phát triển ở nông thôn, nhằm

xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay
Bởi điều kiện kinh tế có tác động rất lớn đến quá trình xây dựng một
chính sách nên trước khi hoạch định một chính sách xóa đói giảm nghèo bất
kỳ ở Việt Nam thì cần phải căn cứ vào điều kiện kinh tế và nguồn lực của đất
nước.
3.4 Căn cứ xã hội
Việc đề ra một chính sách phải xuất phát từ những căn cứ xã hội. Đó là:
mức sống của dân cư, tình trạng công ăn việc làm, sự công bằng xã hội, trình
độ dân trí, chất lượng giáo dục, y tế,…..
19


Nếu các căn cứ xã hội ở mức tiến bộ thì việc đề ra các giải pháp của một
chính sách công có thể dựa vào ý thức tự giác của nhân dân, được sự ủng hộ
của nhiều người , ít bị những yếu tố xã hội tiêu cực cản trở. Các căn cứ xã hội
là điều kiện rất quan trọng, đảm bảo cho sự thành công của một chính sách.
Ngược lại nếu là căn cứ xã hội ở mức thấp thì việc thực hiện chính sách sẽ rất
dễ gặp phải khó khăn cản trở. Chẳng hạn như trong việc hoạch định chính
sách xóa đói giảm nghèo, ngoài những căn cứ về kinh tế thì cũng phải tính
đến những điều kiện xã hội như trình độ dân trí của nhân dân có đủ để sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước hay không? Vì vậy, khi
hoạch định chính sách, luôn phải xác định rõ các yếu tố xã hội nào tác động
đến lĩnh vực chính sách đó và ảnh hưởng xã hội có thể xuất hiện khi thực thi
chính sách.
3.5 Căn cứ khoa học- công nghệ.
Trong cách tiếp cận vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo, phải có sự
nhận thức đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói, giảm nghèo.
Như chúng ta đã biết, đói nghèo là một hiện tượng mang tính toàn cầu; nó
không chỉ tồn tại ở những nước nghèo có thu nhập thấp, mà vẫn có ở ngay
trong những nước phát triển. Do vậy, xoá đói, giảm nghèo đã được đưa vào

chương trình nghị sự của Liên Hiệp quốc. Có thể nói, xoá đói, giảm nghèo là
chiến lược của các quốc gia, nhưng đối với Việt Nam, nó càng có ý nghĩa đặc
biệt vì đó là mục tiêu hàng đầu của con đường phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, giải quyết vấn đề nghèo đói không chỉ dựa
vào kinh nghiệm trong nước mà đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận giải
quyết một cách khoa học - đó là gắn kết tăng trưởng với giảm nghèo, giảm
nghèo đói phải bảo đảm tính toàn diện, công bằng, bền vững và hội nhập.
Bên cạnh đó, cần phân tích một cách khách quan và khoa học nguyên
nhân của nghèo đói để từ đó có những giải pháp hữu hiệu xoá đói, giảm
nghèo. Thực tế cho thấy, nghèo đói xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó có các nguyên nhân khách quan từ điều kiện và môi trường tự
20


nhiên, kinh tế, xã hội,…nhưng bên cạnh đó cần chú ý tới các nguyên nhân
chủ quan của bản thân người nghèo. Ngoài ra cần phải chú ý tới một nguyên
nhân vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan đối với đói nghèo;
đó chính là sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính quyền các cấp.
3.6 Bối cảnh quốc tế
Trong những năm gần đây, toàn cầu hóa trước hết là toàn cầu hóa kinh tế
đã hiện ra rõ nét và trở thành xu thế khách quan, đặt các quốc gia- dân tộc vào
những cơ hội phát triển mới, đồng thời cũng mở ra những thách thức mới. Nó
tác động trực tiếp đến quá trình xây dựng chính sách ở mọi quốc gia trong đó
có Việt Nam. Toàn cầu hóa đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ hướng đến việc
hội nhập và mở cửa, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, đưa nền
kinh tế nước ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Qúa trình toàn cầu hóa tác động đến quá trình hoạch định chính sách
,trong đó có cả quá trình hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo. Toàn
cầu hóa mở ra cơ hội để Việt Nam tiếp xúc với những nền văn hóa khác, có
cơ hội giao lưu học hỏi thêm những kinh nghiệm có ích cho việc hoạch

định các chính sách. Ngoài ra từ khi Việt Nam ra nhập liên hợp quốc đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ vốn đầu tư cho đến các kinh nghiệm phát
triển kinh tế- xã hội.
3.
3.1.

MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP KHI HOẠCH ĐỊNH CHÍNH
SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM.
Hạn chế
Qúa trình hoạch đính chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam tuy
đã tuân thủ dựa theo những căn cứ cần thiết nhưng vẫn còn tồn tại một số
hạn chế
- Khi hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo cần phải căn cứ vào
điều kiện kinh tế- xã hội ở địa bàn đó.

Nhưng phần lớn những khu vực cần

phải xóa đói giảm nghèo thì dân cư có điều kiện kinh tế thấp thuộc những khu
vực tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, khu vực có điều kiện
21


tự nhiên khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, dân cư sống phân tán, cơ sở hạ tầng
lạc hậu, kinh tế chậm phát triển; đời sống vật chất và tinh thần còn thấp kém,
ít được tiếp cận với các dịch vụ xã hội và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Do
không có điều kiện phát triển trình độ văn hóa nên sẽ gây khó khăn và ảnh
hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách.
- Tuy chúng ta đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo từ
nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN), nhưng chưa thực sự cân đối với khả
năng của NSNN, do đó ít nhiều đã tạo áp lực trong việc bố trí dự toán NSNN

hàng năm. Hoặc dù Nhà nước luôn dành nguồn lực lớn cho giảm nghèo
nhưng do điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nên NSNN vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu.
- Vì hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo phải dựa trên cả căn cứ
bối cảnh thế giới. nên khi bối cảnh thế giới thay đổi thì bắt buộc quá trình
hoạch định chính sách cũng phải thay đổi sao cho phù hợp với xu hướng phát
triển chung của toàn cầu.
- Thực hiện xóa đói giảm nghèo đa số là ở địa bàn gặp nhiều khó khăn
về phát triển kinh tế- xã hội, trình độ dân trí thấp khiến cho việc xác định hộ
nghèo chưa được thực hiện thống nhất ở các địa phương
3.2 Giải pháp
- Tăng cường đầu tư kinh phí xây dựng và duy trì hoạt động, nâng cấp
đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt
chú ý các xã, thôn, bản có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đào tạo đội ngũ cán
bộ, có trình độ tiếp nhận, khai thác có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa ở
cơ sở.
- Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tổ chức thực
hiện nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ xã thôn, bản. Có chính sách và chế độ đãi
ngộ để thu hút lực lượng cán bộ trẻ, sinh viên tốt nghiệp các trường đại học,
cao đẳng về công tác ở vùng đặc biệt khó khăn.

22


- Thực hiện quy hoạch lại dân cư các vùng khó khăn, vùng sâu, thôn
bản nghèo để việc đầu tư vừa tiết kiệm vừa phát huy tối đa hiệu quả đồng
vốn.
- Để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp cùng gánh vác trách nhiệm
với NSNN thì cần phải đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác XĐGN. Ngoài
việc huy động các nguồn vốn đóng góp tự nguyện của các cá nhân, tập thể, tổ

chức, doanh nghiệp...,

23


Chương III: KẾT LUẬN
Trong những năm qua các chính sách xoá đói giảm nghèo đã phát huy
được tác dụng của mình, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Để
có được thành công đo phải kể tới trước hết đó là việc tuân thủ các căn cứ
trong hoạch hoạch định chính sách. Luôn luôn tuân theo đường lối chủ trương
và những định hướng chính sách của Đảng. Chính sách được ban hành không
trái với pháp luật và chính sách hiện hành của Nhà nước. Thực hiện tốt chính
sách xóa đói giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc tốt sức
khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà
nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành
mạnh, giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo,
ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và
chủ trương của đảng và Nhà nước. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn
chế như gặp khó khăn về vốn đầu tư hay hiệu quả chính sách chưa thực sự
bền vững ..... . Để giải quyết được vấn đề này Đảng và nhà nước đã đề ra
nhiều chủ trương đường lối chính sách, cùng những biện pháp thực hiện.. Với
sự cố gắng của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân hy vọng công cuộc xóa
đói giảm nghèo sẽ đạt được những thành tựu rục rỡ, góp phần giảm bớt hộ
nghèo, cải thiện đời sống người dân.Góp sức vào công cuộc sự nghiệp phát
triển đất nước.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Chương trình 134 – 135 của Chính phủ Việt Nam về hỗ trợ người
nghèo.
- Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về
Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011 - 2020
- Nghị quyết 30a về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững
đối với 61 huyện nghèo.
- Quyết đinh của thủ tướng chính phủ số 143/2001/QĐ-TTG ngày 27
tháng 9 năm 2001 phê duyệt “ Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm
nghèo và việc làm giai đoạn 2001- 2005.
- Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 08 tháng 10 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2012 – 2015
Sách :
- Giáo trình những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách.
Nhà xuất bản đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
- Giáo trình khoa học chính sách công. Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Website:
www.dangcongsan.vn
www.thuvienphapluat.vn

25


×