Tải bản đầy đủ (.docx) (130 trang)

Đánh giá nhận thức của người dân về biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của chúng tới hoạt động khai thác hải sản trên địa bàn phường bạch đằng thành phố hạ long tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 130 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp: “Đánh giá nhận
thức của người dân về biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của
chúng tới hoạt động khai thác hải sản trên địa bàn
Phường Bạch Đằng - Thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng
Ninh” là công trình nghiên cứu của bản thân và chưa từng được
công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào.
Các số liệu và kết quả trình bày trong khóa luận hoàn toàn
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tôi xin chịu mọi trách nhiệm với cam đoan này của tôi!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016
Sinh viên

thực hiện

Nguyễn Thị Thu
Trang

1


LỜI CẢM ƠN
Trong quãng thời gian bốn năm học tập và rèn luyện tại
Học viện Nông nghiệp Việt Nam, bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc
nhất, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám đốc Học viện, khoa Môi
trường cùng toàn thể các thầy, cô giáo đã luôn quan tâm, giúp


đỡ, nhiệt tình chỉ dạy những kiến thức chuyên ngành, chia sẻ
các kinh nghiệm quí báu về công việc, đạo đức và nhân cách
con người làm hành trang để tôi tự tin bước vào đời.
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới cô TS. Nguyễn Thị Bích Yên đã trực tiếp
hướng dẫn và nhiệt tình, ân cần chỉ bảo, giúp đỡ tôi rất nhiều để
có thể hoàn thành đề tài với kết quả tốt nhất.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo và toàn thể
cán bộ UBND phường Bạch Đằng, trạm khí tượng Bãi Cháy đã
nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian
thực tập tại địa phương. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến gia đình, bạn bè đã luôn bênh cạnh giúp đỡ, động
viên khích lệ tôi trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại
Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đề tài, do điều kiện về mặt thời
gian và hạn chế về năng lực bản thân nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp
từ các thầy cô giáo và toàn thể các bạn để bài khóa luận này
được hoàn thiện và có ý nghĩa hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

2


Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thu
Trang

3



MỤC LỤC

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BĐKH

: Biến đổi khí hậu

ĐBSH

: Đồng bằng sông Hồng

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

GG

: Gió giật

IMHEN

: Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Môi

trường
IPCC


: Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu

KNK

: Khí nhà kính

NBD

: Nước biển dâng

NN&PTNT

: Nông nghiệp và phát triển nông thôn

UBND

: Ủy ban nhân dân

UNDP

: Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc

UNFCCC

: Công ước Khung của Liên hiệp quốc về biến đổi

khí hậu
WB
XTNĐ


: Ngân hàng thế giới
: Xoáy thuận nhiệt đới

5


DANH MỤC CÁC BẢNG

6


DANH MỤC CÁC HÌNH

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, cùng với tốc độ phát triển kinh tế
mạnh mẽ, con người đang phải đứng trước những thách thức lớn
về các vấn đề môi trường, đặc biệt là vấn đề biến đổi khí hậu
(BĐKH). Đây là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất trên
phạm vi toàn cầu trong giai đoạn hiện nay, được các quốc gia
và vùng lãnh thổ vô cùng quan tâm.
Trong báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ủy ban liên Chính phủ
về BĐKH (IPCC) được công bố tháng 2 năm 2007, nhiệt độ trung
bình toàn cầu trong giai đoạn từ 1906 - 2005 đã tăng khoảng
0,74°C. Mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng lên 0,31m
trong 100 năm gần đây. Trong những năm qua, nhiều nơi trên

thế giới đã phải chịu nhiều thiên tai nguy hiểm như bão lớn,
nắng nóng dữ dội, lũ lụt, hạn hán và khí hậu khắc nghiệt gây
thiệt hại lớn về tính mạng con người và vật chất. Điều này cho
thấy biến đổi khí hậu đã và đang tác động trực tiếp đến đời
sống kinh tế - xã hội và môi trường toàn cầu.
Với khoảng 2,7 tỉ người – chiếm 40% dân số, vùng ven biển
được coi là một trong số những khu vự phát triển năng động
nhất thế giới. Sự gia tăng các rủi ro từ BĐKH là một trong những
áp lực làm tăng khả năng bị tổn thương của những sinh kế dựa
vào nguồn tài nguyên thiên nhiên tại các cộng đồng ven biển.
Họ là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trước tác động của
biến đổi khí hậu bởi năng lực thích ứng hạn chế và thường sinh
sống ở những vùng địa lí dễ bị ảnh hưởng nhất bởi thiên tai,
trong khi lại thiếu các nguồn lực cần thiết đê đương đầu với các
rủi ro này.

8


Việt Nam với đường bờ biển dài 3260km và hàng chục triệu
người dân sinh sống, là một trong năm quốc gia ở Châu Á và
Thái Bình Dương chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí
hậu (Dasgupta và cộng sự, 2007). Mực nước biển dâng gây ra
ngập lụt tới mức có thể nhấn chìm hàng triệu ha đất canh tác.
Nếu nước biển dâng cao khoảng 1m thì sẽ có khoảng 10% dân
số chịu tác động trực tiếp và có thể mất khoảng 10% GDP. Nếu
không có ứng phó kịp thời nào thì Việt Nam sẽ mất đi ít nhất
12,2% diện tích đất, là nơi sinh sống của 23% dân số; 22 triệu
người dân Việt Nam sẽ mất nhà cửa; 45% đất canh tác nông
nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nước ta sẽ bị

ngập chìm trong nước biển. Nếu điều này xảy ra thì ước tính sẽ
có khoảng 40 triệu người hay gần một nửa dân số Việt Nam sẽ
bị chịu tác động trực tiếp (Ngân hàng Thế giới, 2007).
Quảng Ninh là một trong những tỉnh chịu ảnh hưởng, sẽ có
khoảng 10% diện tích đất ven biển của tỉnh bị ngập lụt (Quảng
Ninh có 9 huyện, thị xã, thành phố ven biển, trong đó có 8 xã
dưới mực nước biển); khoảng 5% chiều dài quốc lộ, trên 6%
chiều dài tỉnh lộ, gần 4% chiều dài đường sắt, trên 9% dân số bị
ảnh hưởng. Dự báo giai đoạn 2020-2100, mực nước biển tỉnh
Quảng Ninh sẽ dâng từ 7-64cm so với giai đoạn 1980-1999, khi
đó tổng diện tích bị ngập của tỉnh Quảng Ninh là 125,27km 2.
Phường Bạch Đằng là một trong những nơi khai thác hải sản
nên ảnh hưởng của sự thay đổi thời tiết, khí hậu tới cuộc sống
và hoạt động kinh tế là rất lớn. Nhằm tìm hiểu nững tổn thương
mà cư dân trên địa bàn đã phải chịu do biến đổi khí hậu gây ra
từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thích ứng và giảm thiểu tác
động của BĐKH tới đời sống và hoạt động khai thác hải sản, tôi
thực hiện đề tài: “Đánh giá nhận thức của người dân về
9


biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của chúng tới hoạt động
khai thác hải sản trên địa bàn phường Bạch Đằng –
thành phố Hạ Long – tỉnh Quảng Ninh.”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá nhận thức về biến đổi khí hậu trong khai thác hải
sản của người dân tại địa bàn nghiên cứu.
- Đánh giá khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu trong
khai thác hải sản của người dân.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao nhận thức và khả năng

thích ứng với biến đổi khí hậu của người dân trong khai thác hải
sản.
3. Yêu cầu nghiên cứu
- Số liệu trung thực, khách quan để đánh giá nhận thức, khả
năng thích ứng của người dân trong hoạt động khai thác hải
sản.
- Các giải pháp đề xuất phù hợp với điều kiện của địa
phương, có tính thực tiễn và khả năng áp dụng thực tế cao.

10


11


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát chung về biến đổi khí hậu
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến biến đổi khí hậu


Thời tiết và khí hậu

Thời tiết là tập hợp các trạng thái của các yếu tố khí tượng
xảy ra trong khí quyển ở một thời điểm, được xác định bằng tổ
hợp các yếu tố: nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, tốc độ gió, lượng mưa
v.v...
Khí hậu là trạng thái vật lý của khí quyển xảy ra ở một
vùng địa lý nào đó, được đặc trưng bởi các trị số thống kê các
yếu tố khí tượng nhiều năm về bức xạ, nắng, nhiệt độ, độ ẩm,
lượng mưa, lượng bốc thoát hơi nước, mây, tốc độ và hướng gió

v.v... Các giá trị số thống kê thông dụng là số trung bình, số
min, số max, tần số, tần suất và độ biến động,...
Như vậy, khí hậu phản ánh giá trị trung bình nhiều năm
của thời tiết và nó thường có tính chất ổn định theo những chu
kỳ tự nhiên, ít thay đổi. Trên trái đất, chu kỳ khí hậu tự nhiên là
biến đổi mùa, khí hậu mỗi vùng ngoài những đặc điểm chung
theo từng đới thì chúng còn chịu sự chi phối riêng của gió mùa
khu vực. Tuy nhiên, tất cả những đặc điểm chung và riêng đều
duy trì tính ổn định thời gian. Hàng năm, thời tiết thường biến
động xung quanh giá trị trung bình đặc trưng của vùng khí hậu
đó (Đoàn Văn Điếm và cộng sự, 2012).


Thời tiết cực đoan, khí hậu cực đoan

Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ủy ban liên Chính
phủ về biến đổi khí hậu của IPCC (2007) định nghĩa “hiện tượng
thời tiết cực đoan” và “hiện tượng khí hậu cực đoan” như sau:

12


- Hiện tượng thời tiết cực đoan: là hiện tượng hiếm ở một
nơi cụ thể khi xem xét phân bố thống kê của nó. Định nghĩa
“hiếm” ở đây có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau nhưng hiện
tượng thời tiết cực đoan thông thường được hiểu là tần suất
xuất hiện của nó nhỏ hơn 10%. Theo định nghĩa này, những đặc
trưng của thời tiết cực đoan có thể thay đổi tùy từng khu vực
mà đặc trưng cho khu vực đó, nó phụ thuộc vào các yếu tố địa
lý tự nhiên, bức xạ, địa hình v.v…

- Hiện tượng khí hậu cực đoan: là trung bình của số các
hiện tượng thời tiết cực đoan trên một khoảng thời gian nhất
định, trung bình tự nó đã là cực đoan. Hiện tượng khí hậu cực
đoan có thể xác định từ các yếu tố khí hậu. Nói cách khác, hiện
tượng khí hậu cực đoan phần lớn không được quan trắc trực tiếp
mà người ta căn cứ vào số liệu quan trắc các yếu tố khí hậu để
xác định hoặc quy định một hiện tượng nào đó có xuất hiện hay
không.


Biến đổi khí hậu (BĐKH)

Hiện nay có rất nhiều khái niệm, định nghĩa về Biến đổi khí
hậu đang được thế giới và Việt Nam sử dụng, ví dụ như:
- Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH (2007) định
nghĩa: “Biến đổi khí hậu là sự biến đổi của trạng thái khí hậu do
các hoạt động trực tiếp hay gián tiếp của con người gây ra sự
thay đổi thành phần của khối khí quyển toàn cầu và nó có thể
so sánh được”.
- Theo Uỷ ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC,
2007): “Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của hệ thống
khí hậu, có thể được nhận biết qua sự biến đổi về trung bình và
sự biến động của các thuộc tính của nó, được duy trì trong một
thời gian đủ dài, điển hình là hàng thập kỷ hoặc dài hơn.”

13


- Bộ NN&PTNN (2008) nêu ra: “Biến đổi khí hậu đề cập đến
sự thay đổi về trạng thái của khí hậu mà có thể xác định được

(ví dụ sử dụng các phương pháp thống kê) diễn ra trong một
thời kỳ dài thường là một thập kỷ hoặc lâu hơn. BĐKH đề cập
đến bất cứ biến đổi theo thời gian, có hay không theo sự biến
đổi của tự nhiên do hệ quả các hoạt động của con người.”
Nhìn chung, các định nghĩa, khái niệm có đôi chút khác
nhau song nội dung chính vẫn đồng quan điểm với nhau, đó là
sự thay đổi của trạng thái khí hậu trong khoảng thời gian dài, có
liên quan đến con người. Như vậy, ta có thể hiểu một cách đơn
giản: “BĐKH là sự biến đổi theo một xu thế nào đó dẫn tới các
đặc trưng thời tiết dần dần trở nên khặc nhiệt hơn hoặc ôn hòa
hơn, theo thời gian nó không trở lại xung quanh trị số khí hậu
trung bình nữa.”
1.1.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu
Theo nghiên cứu của Uỷ ban liên Chính phủ về biến đổi khí
hậu (IPCC, 2007) BĐKH thường có một số biểu hiện sau đây:
-

Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung.

-

Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi
trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất.

-

Sự dâng cao mực nước biển do băng tan dẫn tới sự ngập úng
của các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.

-


Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên
các vùng khác của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của
các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.

-

Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí
quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình
sinh địa hóa khác.

14


-

Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng
và các thành phần của thủy quyển, sinh quyển và các địa quyển
khác.
Tuy nhiên, sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu và mực
nước biển dâng thường được coi là hai biểu hiện chính của biến
đổi khí hậu.
1.1.3. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu
Theo các nghiên cứu khoa học, nhìn chung có 2 nguyên
nhân chính gây ra BĐKH đó là nguyên nhân khách quan (do tự
nhiên) và nguyên nhân chủ quan (do con người).
1.1.3.1. Nguyên nhân khách quan (do tự nhiên)
Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên bao gồm: thay đổi
cường độ sáng của mặt trời, xuất hiện các điểm đen mặt trời
(Sunspots), các hoạt động núi lửa, thay đổi đại dương và thay

đổi quỹ đạo quay của trái đất.
(1) Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời gây ra sự
thay đổi năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi
nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ thể là từ khi tạo thành mặt trời đến
nay gần 4,5 tỷ năm, cường độ ánh sáng mặt trời đã tăng lên
hơn 30%. Như vậy có thể thấy với khoảng thời gian khá dài như
vậy thì sự thay đổi cường độ ánh sáng mặt trời là không ảnh
hưởng đáng kể đến BĐKH.
(2) Sự xuất hiện các Sunspots làm cho cường độ tia
bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất thay đổi, nghĩa là năng
lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề
mặt trái đất.

15


(3) Núi lửa phun trào: Khi một ngọn núi lửa phun trào
sẽ phát thải vào khí quyển một lượng cực kỳ lớn khối lượng
sulfur dioxide (SO2), hơi nước, bụi và tro vào bầu khí quyển.
Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến khí hậu trong
nhiều năm. Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí phản chiếu lại
bức xạ mặt trời trở lại không gian, vì vậy chúng có tác dụng
làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt trái đất.
(4) Đại dương: Các đại dương là một thành phần chính
của hệ thống khí hậu. Dòng hải lưu di chuyển một lượng lớn
nhiệt trên khắp hành tinh. Thay đổi trong lưu thông đại dương
có thể ảnh hưởng đến khí hậu thông qua sự chuyển động của
CO2 vào trong khí quyển.
(5) Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất: Trái đất quay
quanh Mặt trời với một quỹ đạo. Trục quay có góc nghiêng

23,5°. Thay đổi độ nghiêng của quỹ đạo quay trái đất có thể
dẫn đến những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay đổi cực kỳ nhỏ có thể
tính đến thời gian hàng tỷ năm, vì vậy có thể nói không ảnh
hưởng lớn đến BĐKH.
Có thể thấy rằng các nguyên nhân gây ra BĐKH do các yếu
tố tự nhiên đóng góp một phần rất nhỏ vào sự BĐKH và có tính
chu kỳ kể từ quá khứ đến hiện tại. Tuy nhiên, theo các kết quả
nghiên cứu và công bố từ IPCC thì nguyên nhân gây ra BĐKH
chủ yếu là do các hoạt động của con người.
1.1.3.2. Nguyên nhân do con người
Ủy ban liên Chính phủ về BĐKH (IPCC, 2007) đã nghiên cứu
về nguyên nhân của BĐKH và được công bố thông qua các báo
cáo như sau:
16


-

Báo cáo đánh giá lần 2 của IPCC (1995) cho rằng hoạt động con
người chỉ đóng góp vào 50% nguyên nhân gây ra BĐKH.

-

Theo báo cáo đánh giá lần 3 của IPCC (2001), sau khi các nhà
nghiên cứu thực hiện các nghiên cứu khoa học thì kết quả chỉ ra
rằng hoạt động con người đóng góp vào 67% nguyên nhân gây
ra BĐKH.

-


Theo báo cáo đánh giá lần 4 của IPCC (2007), sau một loạt các
nghiên cứu được thực hiện, kết quả chỉ ra rằng hoạt động con
người đóng góp vào 90% nguyên nhân gây ra BĐKH.

-

Và trong báo cáo đánh giá lần thứ 5, phần 1 của IPCC (2013) kết
luận rằng hoạt động con người đóng góp vào 95% nguyên nhân
gây ra BĐKH.
Có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy tồn tại mối
quan hệ giữa quá trình tăng nhiệt độ trái đất với quá trình tăng
nồng độ khí CO2 và các khí nhà kính khác trong khí quyển, đặc
biệt trong kỷ nguyên công nghiệp (UNDP, 2008). Trong suốt gần
1 triệu năm trước cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO 2
trong khí quyển nằm trong khoảng từ 170 - 280ppm. Hiện tại,
con số này đã tăng cao hơn nhiều và ở mức 387ppm và sẽ còn
tiếp tục tăng với tốc độ nhanh hơn nữa (Ngân hàng Thế giới,
2010). Chính vì vậy, sự gia tăng nồng độ khí CO2 trong khí
quyển sẽ làm cho nhiệt độ trái đất tăng và nguyên nhân của
vấn đề biến đổi khí hậu là do trái đất không thể hấp thụ được
hết lượng khí CO2 và các khí gây hiệu ứng nhà kính khác đang
dư thừa trong bầu khí quyển (UNDP, 2008).
Đánh giá khoa học của IPCC cho thấy, việc tiêu thụ năng
lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất
17


năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng v.v...
đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá
rừng nhiệt đới khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9%,

các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại
3% là các hoạt động khác (chôn lấp rác thải...).
Theo thông báo thứ 2 của Việt Nam với Công ước Khung
Liên Hiệp Quốc về BĐKH thì kết quả kiểm kê khí nhà kính (KNK)
năm 2000 của Việt Nam là khoảng 143 triệu tấn CO2/năm. Trong
đó Nông nghiệp chiếm 45% tổng lượng phát thải KNK của Việt
Nam, ngành năng lượng chiếm 35%, lâm nghiệp chiếm 11%,
công nghiệp chiếm 7% và các hoạt động khác (chôn lấp chất
thải v.v...) chiếm 2%. Khác với xu hướng toàn cầu, Việt Nam là
một đất nước có tỷ trọng sản xuất nông nghiệp cao nên lượng
phát thải KNK chiếm đến 45% tổng lượng phát thải của cả nước.
1.2. Thực trạng về biến đổi khí hậu trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Thực trạng về biến đổi khí hậu trên thế giới
Nếu như trước đây, thế giới vẫn còn hoài nghi và tranh
luận về vấn đề liệu biến đổi khí hậu trên thực tế có xảy ra hay
không và có phải do con người gây ra hay không thì ngày nay,
cuộc tranh luận này không còn nữa và sự hoài nghi dần thu hẹp
lại. Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC (2007) đã phản ánh sự
đồng thuận rộng rãi về mặt khoa học khi cho rẳng BĐKH là có
thật và do con người gây ra. Mặc dù hiện vẫn còn nhiều điều
chưa chắc chắn về tốc độ nóng lên, thời gian chính xác và các
hình thức tác động, nhưng những nguy cơ gắn liền với thực
trạng các lớp băng trên trái đất đang tan ra ngày một nhanh,
nhiệt độ các đại dương tăng lên, các hệ sinh thái rừng nhiệt đới

18


bị hủy hoại và những hậu quả khác có thể xảy ra là hoàn toàn
có thật (UNDP, 2008).

(1)

Sự nóng lên toàn cầu

Báo cáo đánh giá lần thứ 5 của IPCC công bố tháng 9 năm
2013 đã có những kết luận chính như sau:
- Sự nóng lên của hệ thống khí hậu trái đất hiện này là một
điều chắc chắn và đã được minh chứng rõ ràng thông qua số
liệu quan trắc năm 1950, ghi nhận sự tăng lên của nhiệt độ
không khí và đại dương ấm lên, diện tích băng tuyết đang thu
hẹp và mực nước biển tăng lên.
- Nhiệt độ trung bình trái đất tăng từ cuối thế kỷ 19. Trong
30 năm gần đây, nhiệt độ bề mặt trái đất ấm hơn so với các
thập kỷ trước, và những thập kỷ đầu thế kỷ 21 là ấm nhất.
- Xu thế tăng nhiệt độ trong chuỗi số liệu 110 năm (1901 2012) là 0,89°C và khoảng 0,72°C giai đoạn 1951 - 2012. trong
đó riêng ở Bắc cực nhiệt độ đã tăng 1,5°C, gấp đôi tỷ lệ tăng
trung bình toàn cầu.
- Nhiệt độ tăng tổng cộng trung bình giữa giai đoạn 1850 1900 với giai đoạn 2003 - 2012 là 0,78°C [0,72 - 0,85] °C và
nhiệt độ tăng tổng cộng trung bình giữa giai đoạn 1850 - 1900 với
giai đoạn 1986 - 2005 là 0,61°C [0,55 - 0,67] °C . Khi hoàn thành
tính toán số liệu nhiệt độ các vùng trong giai đoạn dài nhất (1901 2012) cho thấy nhiệt độ bề mặt trái đất đang ấm dần lên (Hình
1.1).

19


Hình 1.1. Thay đổi nhiệt độ bề mặt giai đoạn 1901 - 2012
(Nguồn: IPCC,
2013)
(2) Biến đổi của lượng mưa

Báo cáo tổng hợp thông tin của Viện khí tượng thủy văn và
môi trường (IMHEN, 2010) cho biết trong thời kỳ 1901 - 2005, xu
thế biến đổi của lượng mưa rất khác nhau giữa các khu vực và
giữa các tiểu khu vực trên từng khu vực và giữa các thời đoạn
khác nhau trên từng tiểu khu vực:
- Ở Bắc Mỹ, lượng mưa tăng lên ở nhiều nơi, nhất là ở Bắc
Canada nhưng lại giảm đi ở Tây Nam nước Mỹ, Đông Bắc Mexico
và bán đảo Bafa với tốc độ giảm chừng 2% mỗi thập kỷ, gây ra
hạn hán trong nhiều năm gần đây.
- Ở Nam Mỹ, lượng mưa lại tăng lên trên lưu vực Amazon
và vùng bờ biển Đông Nam nhưng lại giảm đi ở Chile và vùng bờ
biển phía Tây.
- Ở Châu Phi, lượng mưa giảm ở Nam Phi, đặc biệt là ở
Sahen trong thời đoạn 1960 - 1980.
- Ở khu vực nhiệt đới, lượng mưa giảm đi ở Nam Á và Tây
Phi với trị số xu thế là 7,5% cho cả thời kỳ 1901 - 2005. Khu vực

20


có tính địa phương rõ rệt nhất trong xu thế biến đổi lượng mưa
là Australia do tác động lớn của ENSO.
- Ở đới vĩ độ trung bình và vĩ độ cao, lượng mưa tăng rõ rệt
ở miền Trung Bắc Mỹ, Đông Bắc Mỹ, Bắc Âu, Bắc Á và Trung Á.
- Trên phạm vi toàn cầu lượng mưa tăng lên ở các đới phía
Bắc vĩ độ 30°N thời kỳ 1901 - 2005 và giảm đi ở các vĩ độ nhiệt
đới, kể từ thập kỷ 1990.
- Tần số mưa lớn tăng lên trên nhiều khu vực, kể cả những
nơi lượng mưa có xu thế giảm.
(3)


Băng tan và nước biển dâng
Khi nhiệt độ toàn cầu tăng lên, lượng mưa tại các khu vực
khác nhau đang thay đổi; các vùng biển ấm lên, băng tại các
cực đang tan ra và mực nước biển đang dâng lên (UNDP, 2008).
Tại hội nghị quốc tế về BĐKH họp ở Bruxen (Bỉ), các báo
cáo khoa học cho biết, ở Bắc cực, khối băng dày 2 dặm đang
mỏng dần và đã mỏng đi 66cm. Ở Nam cực tình trạng tương tự
cũng diễn ra nhưng với tốc độ chậm hơn và những núi băng ở
Tây Nam cực đổ sụp. Các nhà khoa học phát hiện trong hai mùa
hè năm 2007 và 2008, lượng băng bao phủ ở hai cực đã xuống
tới mức thấp nhất kể từ lần vệ tinh ghi được những hình ảnh
đầu tiên vào 30 năm trước (IPCC, 2007).
Số liệu vệ tinh cho thấy, trong giai đoạn 1979 - 2012, diện
tích băng biển trung bình hàng năm ở Bắc cực đã thu hẹp
khoảng 3,8% /thập kỷ, riêng mùa hè giảm 9,4 - 13,6%/thập kỷ.
Diện tích cực đại của lớp băng phủ ở Bắc bán cầu giảm 13,5 14,7%/thập kỷ trong giai đoạn 1979 - 2012. Còn ở Nam cực,
diện tích băng biển đã thu hẹp với tỷ lệ trung bình là 1,5%/thập
kỷ trong giai đoạn 1979 - 2012 (IPCC, 2013).

21


Các nhà khoa học về BĐKH toàn cầu và nước biển dâng
cho thấy, đại dương đã nóng lên đáng kể từ cuối thập kỷ 1950.
Các nghiên cứu từ số liệu quan trắc trên toàn cầu cho thấy, mực
nước biển trung bình toàn cầu trong thời kỳ 1961 - 2003 đã tăng
với tốc độ trung bình khoảng 1,8 ± 0,5mm/năm so với mức độ
gia tăng trung bình của thế kỷ 20 là 1,7 ± 0,5mm/năm, trong
đó, đóng góp do giãn nở nhiệt khoảng 0,42 ± 0,12mm và tan

băng khoảng 0,70 ± 0,50mm/năm (IPCC, 2007).
Theo báo cáo lần thứ 5 của Ủy ban Liên chính phủ về
BĐKH (IPCC, 2013), tốc độ nước biển dâng từ giữa thế kỷ 19 đã
lớn hơn so với tốc độ nước biển dâng trung bình trong hai ngàn
năm trước đó. Trong hơn 100 năm từ 1901 đến 2010, mực nước
biển trung bình toàn cầu tăng 0,19m [0,17 - 0,21] (Hình 2.2).

Hình 1.2. Thay đổi mực nước biển trung bình toàn cầu
(Nguồn: IPCC, 2013)
Bên cạnh nhiệt độ tăng và mực nước biển dâng, con người
cũng đã cảm nhận ngày càng rõ rệt về sự gia tăng các hiện
tượng thời tiết cực đoan. Hạn hán và lũ lụt xảy ra thường xuyên
hơn; các cơn bão trở nên mạnh hơn; nhiều đợt nắng nóng hơn;

22


số ngày lạnh, đêm lạnh và sương giá giảm đi, trong khi các đợt
nắng nóng ngày càng xảy ra thường xuyên hơn; cường độ của
những cơn bão và lốc nhiệt đới đã trở nên nghiêm trọng hơn.
1.2.2. Thực trạng về biến đổi khí hậu ở Việt Nam
(1)

Nhiệt độ tăng

Theo Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho
Việt Nam (2013) cho thấy rằng: Nhiệt độ trung bình năm, mùa
(đông, xuân, hè, thu) ở tất cả các vùng của Việt Nam đều có xu
thế tăng so với thời kỳ cơ sở (1986 - 2005), mức tăng là rất khác
nhau trên các vùng.

Vào giữa thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm ở phía Bắc
có mức tăng phổ biến từ 2,0 đến 2,3 oC và ở phía Nam từ 1,8 đến
1,9oC. Đến cuối thế kỷ, mức tăng từ 3,3 đến 4,0 oC ở phía Bắc và
từ 3,0 đến 3,5oC ở phía Nam. Nhìn chung, nhiệt độ phía Bắc
tăng cao hơn phía Nam.

Hình 1.3. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (°C) trong 50 năm qua
(Nguồn: IMHEN, 2010)
Nhiệt độ cực trị có xu thế tăng so với trung bình thời kỳ
1986-2005 ở tất cả các vùng của Việt Nam. Theo kịch bản, đến
cuối thế kỷ 21, nhiệt độ tối cao trung bình năm có xu thế tăng
23


từ 1,7 đến 2,7oC, tăng cao nhất là khu vực Đông Bắc, Đồng
Bằng Bắc Bộ; thấp nhất là khu vực Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Trong khi đó, nhiệt độ tối thấp trung bình năm vào cuối thế kỷ
có xu thế tăng từ 1,8 đến 2,2oC. Xu thế chung của nhiệt độ cực
đại và cực tiểu là tăng, tốc độ tăng của nhiệt độ cực tiểu nhanh
hơn so với nhiệt độ cực đại, phù hợp với xu thế chung của biến
đổi khí hậu toàn cầu (Bảng 1.1)
Bảng 1.1. Mức tăng nhiệt độ và mức thay đổi lượng mưa trong 50 năm qua
ở các vùng khí hậu của Việt Nam

(Nguồn: IMHEN, 2010)
(2)

Về lượng mưa

Theo Kịch bản Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt

Nam (2013) cho thấy: Lượng mưa trung bình năm có xu thế
tăng so với thời kỳ cơ sở ở tất cả các vùng. Lượng mưa mùa khô
ở một số vùng có xu thế giảm. Mưa cực trị có xu thế tăng.
Theo kịch bản, đến cuối thế kỷ 21, lượng mưa trung bình
năm có xu thế tăng ở hầu hết diện tích cả nước, phổ biến từ 5
đến 15%. Một số tỉnh ven biển Đồng Bằng bắc Bộ, Bắc Trung Bộ,
Trung Trung Bộ có thể tăng trên 20%. Đối với lượng mưa cực trị,
lượng mưa một ngày lớn nhất có xu thế tăng trên toàn lãnh thổ
Việt Nam với mức tăng phổ biến từ 10 đến 70%. Mức tăng nhiều

24


nhất ở Đông Bắc, Trung Bộ (từ Thừa Thiên - Huế đến Quảng
Nam) và Đông Nam Bộ.
(Hình 1.4)

Hình 1.4. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) trong 50 năm qua
(Nguồn: Viện Khoa học khí tượng thủy văn)
Lượng mưa ngày cực đại tăng lên ở hầu hết các vùng khí
hậu, nhất là trong những năm gần đây. Số ngày mưa lớn cũng có
xu thế tăng lên tương ứng, nhiều biến động mạnh xảy ra ở khu
vực miền Trung. Tồn tại mối tương quan khá rõ giữa sự nóng lên
toàn cầu và nhiệt độ bề mặt biển khu vực Đông xích đạo Thái
Bình Dương với xu thế biến đổi của số ngày mưa lớn trên các
vùng khí hậu phía Nam.
(3)

Nước biển dâng




Theo kết luận trong nghiên cứu của Trần Thục, Huỳnh Thị Lan
Hương, Đào Minh Trang (2012): Số liệu mực nước đo đạc từ vệ
tinh từ năm 1993 đến 2010 cho thấy xu thế tăng mực nước biển
trên toàn biển Đông là 4,7mm/năm, phía Đông của biển Đông
25


×