Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy qua thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ TOÀN

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC PHÕNG CHÁY, CHỮA CHÁY QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ TOÀN

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC PHÕNG CHÁY, CHỮA CHÁY QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hiền



Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thế Toàn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, hình vẽ
MỞ ĐẦU

1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM

8

HÀNH CHÍNH VÀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC PHÕNG CHÁY VÀ CHỮA
CHÁY
1.1.

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa

8

cháy
1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm và cấu thành của vi phạm hành chính

8

trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
1.1.2.

So sánh vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực

20

phòng cháy và chữa cháy
1.2.


Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và

22

chữa cháy
1.2.1.

Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng

22

cháy và chữa cháy
1.2.2.

Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý vi phạm hành

24

chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
1.2.3.

Ý nghĩa xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng
cháy và chữa cháy

30


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC

34


TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC PHÕNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.

Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong

34

lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
2.1.1.

Quy định chung về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

34

phòng cháy và chữa cháy
2.1.2.

Đánh giá quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành

58

chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
2.2.

Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng

63


cháy và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.1.

Những yếu tố có liên quan đến công tác xử lý vi phạm hành

63

chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn
thành phố Hà Nội
2.2.2.

Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy

68

và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.3.

Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng

73

cháy và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

88

QUẢ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC PHÕNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA

BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1.

Dự báo tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của thành phố Hà

88

Nội có liên quan
3.1.1.

Tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố

88


Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
3.1.2.

Dự báo tình hình cháy, nổ và vi phạm về phòng cháy, chữa

91

cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội
3.2.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành

92

chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy

3.2.1.

Bổ sung, hoàn thiện cơ sở pháp lý về xử lý vi phạm hành

92

chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
3.2.2.

Nâng cao nhận thức pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

95

trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
3.2.3.

Nâng cao năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý

102

cơ sở, địa bàn về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực phòng cháy và chữa cháy
3.2.4.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động xử phạt

106

vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa
cháy đối với lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy

3.2.5.

Nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng

108

Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố với các cơ
quan quản lý nhà nước trong công tác xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
KẾT LUẬN

111

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

113

PHỤ LỤC

118


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
STT Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

1


Hình 2.1

Hành vi sử dụng điện thoại di động ở cây
xăng (nơi có quy định cấm)

63

2

Hình 2.2

Biểu đồ nguyên nhân cháy, nổ tại các cơ sở
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2010
đến năm 2014

70


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PCCC

: Phòng cháy và chữa cháy

PCCC&CNCH

: Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ

QLNN


: Quản lý nhà nước

VPHC

: Vi phạm hành chính

TTTM

: Trung tâm thương mại

ST

: Siêu thị

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tình hình hiện nay, khi đất nước đang thực hiện có hiệu quả đường
lối đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, nền kinh tế
nước ta đã tăng trưởng mạnh, đầu tư nước ngoài hàng năm liên tục tăng. Cùng
với đó là sự phát triển mạnh mẽ về các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao, các trung tâm thương mại, khu chung cư cao tầng, các trạm
xăng, dầu,… Bên cạnh đó, dân cư ngày càng tăng, đặc biệt là ở các thành phố
lớn, các tỉnh công nghiệp, đã kéo theo nhiều yếu tố dẫn đến nguy cơ cháy, nổ
được cảnh báo là rất lớn.
Có thể nói, trong bối cảnh đất nước không ngừng xây dựng và phát triển

thì công tác phòng cháy và chữa cháy càng chiếm giữ một vai trò quan trọng.
Công tác phòng cháy và chữa cháy đã được Đảng, Nhà nước và các cấp chính
quyền quan tâm, chú trọng. Điều này thể hiện ở chỗ, nhiều văn bản quan
trọng được ban hành như: Ngày 25/6/2015, Ban Bí thư T.Ư Đảng đã ban hành
Chỉ thị số 47 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng
cháy, chữa cháy, trong đó, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến cơ sở phải xác định
công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm, thường xuyên hàng ngày; Luật Phòng cháy và chữa cháy năm
2001 (được sửa đổi, bổ sung năm 2013), Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày
31/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Phòng cháy và chữa cháy; Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013
của Chính phủ quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật
tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy;
phòng chống bạo lực gia đình; Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012;…
1


Vậy nhưng trên thực tế, nhiều cơ quan, đơn vị và không ít người vẫn còn
xa lạ và thờ ơ với công tác PCCC. Trong năm 2014, có 233.162 lượt cơ sở
được kiểm tra phòng cháy và chữa cháy thì có tới 19.224 doanh nghiệp không
tuân thủ quy định an toàn về cháy, nổ [19]. Việc đảm bảo các trang thiết bị,
điều kiện nhân lực, vật lực về an toàn PCCC chỉ làm chiếu lệ, qua loa, mang
tính đối phó vẫn còn diễn ra.
Theo Cục Cảnh sát PCCC&CNCH, trong năm 2014, cả nước xảy ra
2.375 vụ cháy (2.025 vụ cháy tại các cơ sở, nhà dân, phương tiện giao thông
và 350 vụ cháy rừng) làm chết 90 người, bị thương 143 người, về tài sản ước
tính trị giá 1.307,078 tỷ đồng và 1.352 ha rừng; xảy ra 42 vụ nổ làm chết 29
người, bị thương 30 người, thiệt hại tài sản trị giá 3.432 triệu đồng [19].

Trong đó, có những vụ cháy, nổ kinh hoàng gây thiệt hại lớn về người và tài
sản. Có thể kể đến như vụ cháy xảy ra tại quán Karaoke Nonstop, thuộc khu
tái định cư Thác Mạ (Khối 9, Phường Đông Kinh, Tp. Lạng Sơn) ngày
06/11/2014 làm chết 04 người trong đó có cặp vợ chồng và đứa con gái nhỏ
chưa đầy bốn tháng tuổi; vụ cháy tại kho hàng của Công ty gỗ Woodsland và
Công ty Nippon Express Việt Nam thuộc khu công nghiệp Quang Minh (Mê
Linh, Hà Nội) khiến gần 12.000 m2 diện tích khu công nghiệp đã bị thiêu rụi
hoàn toàn; vụ cháy nhà dân tại số 342/29/5 Lý Thường Kiệt, Phường 14,
Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh ngày 24/01/2014 làm 04 người chết;…
Hà Nội là thủ đô, là trung tâm kinh tế, là đầu mối giao lưu của cả nước,
khu vực và thế giới. Trong những năm qua, tình hình kinh tế thành phố Hà
Nội ngày một tăng trưởng với nhiều dự án đầu tư nước ngoài, nhiều khu công
nghiệp được thành lập, nhiều trung tâm thương mại, khu chung cư cao tầng
được xây dựng. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của thành phố cũng đặt ra
những thách thức không nhỏ đối với lực lượng Cảnh sát Phòng cháy và chữa
cháy. Đặc biệt sau khi địa giới hành chính của thủ đô được mở rộng, dân số
2


đông, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, cùng với sự ra đời của hàng loạt
khu công nghiệp, công nghệ cao, khu chế xuất trong khi cơ sở hạ tầng còn bộc
lộ nhiều bất cập, yếu kém và ý thức PCCC của nhiều cơ quan, doanh nghiệp,
của một bộ phận người dân chưa cao. Do đó, nếu không thực hiện tốt công tác
phòng cháy và chữa cháy thì sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế của
thành phố nói riêng, của cả nước nói chung.
Theo Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Hà Nội, trong năm
2014, trên địa bàn thành phố xảy ra 166 vụ cháy, nổ (164 vụ cháy, 02 vụ nổ);
làm 18 người chết, 15 người bị thương, thiệt hại tài sản ước tính trên 200 tỷ
đồng. Lập biên bản, ra quyết định xử lý vi phạm hành chính 3.640 trường hơ ̣p
vi phạm (tăng hơn 100 trường hơ ̣p so với năm 2013); phạt tiền 5.469.050.000

đồng (tăng gần 2 tỷ đồng) [11].
Để thực hiện tốt công tác đảm bảo an toàn phòng cháy, chữa cháy trên
địa bàn thành phố Hà Nội, một trong những giải pháp quan trọng là tăng
cường công tác kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, việc xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn thành
phố Hà Nội đang còn gặp nhiều khó khăn, một phần do trình độ cán bộ làm
công tác kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy còn hạn chế và chưa đồng
đều; tình trạng cán bộ thực thi nhiệm vụ còn có biểu hiện coi nhẹ, nể nang,
thiếu kiên quyết và chưa triệt để trong việc xử lý; một phần do các văn bản
quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy,
chữa cháy còn chưa hoàn chỉnh như: có những quy định chưa rõ ràng, cụ thể
dẫn tới việc áp dụng chưa thống nhất; quy định về thẩm quyền, các biện pháp
xử lý vi phạm hành chính, mức phạt trong một số hành vi vi phạm còn chưa
hợp lý;…
Từ những lý do trên, đề tài “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
phòng cháy, chữa cháy - qua thực tiễn thành phố Hà Nội” mong muốn góp
3


phần bổ sung, hoàn thiện lý luận; làm rõ thực trạng, hạn chế, bất cập để từ đó
đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề liên quan đến lý luận, cơ sở
pháp lý và thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC ở thành
phố Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC trên địa bàn thành phố Hà
Nội.
2.2. Mục tiêu cụ thể

- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy;
- Đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng
cháy, chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội:
+ Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy
và nguyên nhân của thực trạng đó;
+ Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy, chữa
cháy và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đánh giá tổng quát các yếu tố tác động đến việc xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Bổ sung, hoàn thiện lý luận về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
phòng cháy và chữa cháy;

4


- Đánh giá, làm rõ thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội; những kết quả đạt
được, tồn tại và nguyên nhân. Từ đó, đưa ra những giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa
cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội của lực lượng
Cảnh sát PC&CC.
- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động xử lý vi phạm hành chính của Cảnh sát
PC&CC ở thành phố Hà Nội, thời gian từ năm 2010 đến năm 2014.

5. Tổng quan tài liệu
- Với vấn đề xử lý vi phạm hành chính, có một số đề tài nghiên cứu
chuyên sâu như:
+ Lê Thị Thu Lan (2012), Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
+ Thiều Thị Thúy Ngân (2013), Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường thủy nội địa - qua thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
+ Quách Tiên Phong (2011), “Nâng cao hiệu quả áp dụng của các hình
thức xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (11), tr. 12-17.
- Với lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy có một số đề tài nghiên cứu
chuyên sâu như:
+ Mai Phương Lan (2013), Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng
cháy, chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
5


+ Nguyễn Đức Thắng (2013), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu lực
công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
của lực lượng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học PCCC, Hà Nội.
- Đề tài nghiên cứu hiện tại đang ở trạng thái mới bắt đầu, tiếp cận về
công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Trong những tài liệu có đề cập đến nội dung xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy nhưng ở dạng nêu vấn đề hay công
tác xử lý vi phạm hành chính của lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy
và cứu nạn, cứu hộ nói chung mà chưa nghiên cứu sâu về lý luận, thực trạng

xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn thành phố Hà Nội, đặc biệt từ khi
chuyển đổi mô hình lên Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy và từ khi có Nghị
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nước và pháp luật; các quan điểm, chủ trương của Đảng và nhà nước, của
thành phố về nâng cao hiệu lực QLNN về công tác PCCC.
- Các phương pháp khác: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; phân tích,
tổng hợp; phương pháp lịch sử - logic; phương pháp thống kê, so sánh;
phương pháp chuyên gia.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vi phạm hành chính và xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy

6


Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực trạng xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy tại thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC

PHÕNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY
1.1. VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC PHÕNG
CHÁY VÀ CHỮA CHÁY
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và cấu thành của vi phạm hành chính
trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
1.1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và
chữa cháy
Vi phạm pháp luật là hiện tượng xã hội, là những hành vi phản ứng tiêu
cực của một số cá nhân hay tổ chức đi ngược lại với ý chí nhà nước được quy
định trong pháp luật. Những hành vi có tính chất tiêu cực đó luôn gây hại cho
nhà nước, xã hội và nhân dân, do vậy chúng luôn bị nhà nước, xã hội và nhân
dân lên án, đấu tranh đòi hỏi phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Vi phạm
pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ [36, tr.
211].
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong
đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội
phạm nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích
chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội
nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như không được ngăn chặn
và xử lý kịp thời. Chính vì lẽ đó công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm
hành chính luôn là vấn đề được xã hội quan tâm. Từ trước đến nay Nhà nước
8


ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật quy định về vi phạm hành chính và
các biện pháp xử lý đối với loại vi phạm này, trong đó phải kể đến: Pháp lệnh
xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989; Pháp lệnh xử lí vi phạm hành
chính ngày 06/7/1995; Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính ngày 02/7/2002

(được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2008) và văn bản đang có hiệu lực
thi hành là Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Cùng với đó, Chính
phủ cũng đã ban hành một loạt các Nghị định quy định cụ thể về việc xử lí vi
phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản lí hành chính nhà
nước.
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi
phạm này, đặc biệt là việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội
phạm, tạo cơ sở cần thiết để quy định, xử lý cũng như đấu tranh phòng, chống
có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính, cần thiết phải đưa ra định nghĩa
chính thức về vi phạm hành chính.
Định nghĩa vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu ra trong Pháp lệnh
xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989. Điều 1 Pháp lệnh này quy định:
“Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm
hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Định nghĩa trên cho chúng ta thấy được các dấu hiệu pháp lý cơ bản của
vi phạm hành chính là: chủ thể, hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, có lỗi
và bị xử phạt hành chính.
Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 không trực tiếp đưa ra
định nghĩa về vi phạm hành chính nhưng Khoản 2 Điều 1 của Pháp lệnh này
đã định nghĩa vi phạm hành chính một cách gián tiếp: “Xử phạt vi phạm hành
chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi

9


phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Tại Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2008), vi phạm hành chính cũng được quy

định một cách gián tiếp: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với
cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi
cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính”.
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, quan niệm về vi phạm hành chính
trong các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất về những dấu hiệu bản
chất của loại vi phạm pháp luật này. Khái quát những dấu hiệu bản chất đó,
Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã trực tiếp đưa ra
định nghĩa về vi phạm hành chính, theo đó: “Vi phạm hành chính là hành vi
có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản
lí nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt vi phạm hành chính”.
Tương tự như những hành vi VPHC khác trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Một hành vi được coi là vi phạm quy định về PCCC, chỉ khi
hành vi đó trái với các quy định của các quy phạm pháp luật về PCCC và các
quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC; khi sự vi phạm có các dấu hiệu pháp lý do
pháp luật về PCCC quy định và sẽ bị nhà nước truy cứu trách nhiệm pháp lý
đối với cá nhân hoặc tổ chức đã thực hiện hành vi vi phạm đó. Các dấu hiệu
pháp lý cơ bản đó là:
- Hành vi của các chủ thể được thực hiện bằng hành động hoặc không
hành động xâm hại đến trật tự QLNN trong lĩnh vực PCCC;

10


- Hành vi vi phạm phải là hành vi trái với quy định pháp luật về PCCC
của nhà nước, tức là hành vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về
xử lý VPHC;
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là hành vi vi phạm pháp luật về

PCCC chỉ khi nào xác định được chủ thể thực hiện hành vi đó có lỗi;
- Hậu quả thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về PCCC gây ra (đây
không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi hành vi vi phạm);
- Giữa hành vi vi phạm về PCCC và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ
nhân quả.
Từ định nghĩa vi phạm hành chính và những phân tích nêu trên, có thể
đưa ra khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC như sau:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy là hành vi
có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản
lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy mà không phải là tội phạm và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
1.1.1.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy
và chữa cháy
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy cũng mang
đầy đủ các đặc điểm của vi phạm hành chính nói chung. Đồng thời, nó có
những đặc trưng riêng để phân biệt với các vi phạm hành chính khác. Vì vậy,
có thể chỉ ra vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy có
những đặc điểm sau:
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy là hành vi
trái pháp luật về PCCC.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC trước hết phải là hành vi của
con người hoặc là hoạt động của các cơ quan, tổ chức có tính nguy hiểm cho
xã hội. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc không hành động
11


của các chủ thể pháp luật PCCC. Pháp luật PCCC không điều chỉnh những
suy nghĩ, tư tưởng nếu như không biểu hiện thành các hành vi cụ thể.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC không những là hành vi nguy
hiểm cho xã hội của các chủ thể pháp luật PCCC mà hành vi đó còn phải trái

pháp luật PCCC. Hành vi trái pháp luật PCCC là hành vi được thực hiện
không đúng với những quy định của pháp luật PCCC như không làm những
việc mà pháp luật PCCC yêu cầu, làm những việc mà pháp luật PCCC cấm
hoặc tiến hành những hoạt động vượt quá giới hạn, phạm vi cho phép của
pháp luật PCCC,…
Như vậy, muốn xem xét hành vi nào đó xâm hại đến các quan hệ xã hội
do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện có phải là vi phạm hành chính trong PCCC
hay không thì điều cần thiết là phải căn cứ vào các quy định, yêu cầu được
nêu ra trong các quy phạm pháp luật PCCC để xem xét. Nói cách khác, hành
vi xâm hại trên nếu được mô tả trong các văn bản pháp luật quy định về hành
vi và xử lý VPHC trong lĩnh vực PCCC thì bị coi là trái pháp luật PCCC.
Điều này được khẳng định tại Điểm d Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 về nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính như sau: “Chỉ
xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật
quy định”.
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy là hành vi
có lỗi của chủ thể.
Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của
chủ thể, nghĩa là chủ thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Lỗi
là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật
PCCC của mình. Như vậy, những hành vi trái pháp luật PCCC mang tính
khách quan, không có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó thì không bị coi là
vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC.
12


- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy xâm
phạm trật tự quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là hành vi phạm xâm hại hoặc
có nguy cơ xâm hại đến các quan hệ xã hội trong QLNN về PCCC. Các quan

hệ xã hội này rất đa dạng, phức tạp và diễn ra trong hầu hết mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong phạm vi toàn quốc, từng địa phương và trong các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở, hộ gia đình. Những quan hệ đó được Nhà
nước tác động, điều chỉnh bằng Luật Phòng cháy và chữa cháy, bằng hệ thống
các nguyên tắc PCCC, bằng các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể về PCCC,
để các chủ thể tham gia các hoạt động PCCC, lựa chọn, điều khiển hành vi
của mình cho phù hợp với các yêu cầu đặt ra trong các quy phạm pháp luật về
PCCC.
- Tính chịu xử phạt hành chính.
Tính chịu xử phạt hành chính là một trong các dấu hiệu của vi phạm
hành chính trong lĩnh vực PCCC. Một hành vi dù có tính xâm hại đến các quy
định QLNN về PCCC, trái pháp luật PCCC nhưng không được pháp luật quy
định phải bị xử phạt hành chính thì không thể gọi là vi phạm hành chính trong
lĩnh vực PCCC.
Các đặc điểm nêu trên về cơ bản đã phản ánh đầy đủ các nội dung của
khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC, đây chính là cơ sở quan
trọng cho việc xác định hành vi vi phạm trong lĩnh vực PCCC trong hoạt
động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC. Vì vậy, các chủ thể xử
phạt cần nắm vững các đặc điểm này để có quyết định chính xác trong việc
xác định có hay không có vi phạm hành chính, từ đó có hình thức và mức xử
phạt phù hợp với hành vi vi phạm hành chính do các chủ thể vi phạm gây ra.

13


1.1.1.3. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực
phòng cháy và chữa cháy
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy cũng là
một dạng của vi phạm hành chính nên cũng được cấu thành bởi bốn yếu tố là:
mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.

a. Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là những
biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm hành chính bao gồm: hành vi trái pháp
luật PCCC, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật PCCC
với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội và các dấu hiệu khác như công cụ,
phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm.
- Hành vi trái pháp luật PCCC:
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính trong
lĩnh vực PCCC là hành vi vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ
chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước về
PCCC và đã bị pháp luật PCCC ngăn cấm, theo đó pháp luật quy định rằng
những hành vi này sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện pháp xử phạt hành
chính.
Hành vi vi phạm trong lĩnh vực PCCC là hành vi có tính chất trái pháp
luật PCCC, vi phạm các quy định của nhà nước trong lĩnh vực PCCC dưới
hình thức không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những quy định của
pháp luật PCCC, xâm phạm đến những khách thể được pháp luật PCCC bảo
vệ.
Hành vi không thực hiện những quy định về PCCC như: Không bố trí,
niêm yết tiêu lệnh, biển báo, biển cấm, biển chỉ dẫn về phòng cháy và chữa
cháy; Không cử người có trách nhiệm tham gia đoàn kiểm tra an toàn phòng
cháy và chữa cháy; Không thực hiện việc báo cáo về công tác phòng cháy và
14


chữa cháy; Không có biện pháp, phương tiện ngăn ngừa tích tụ tĩnh điện theo
quy định; Sản xuất, kinh doanh, san, chiết, nạp chất, hàng nguy hiểm về cháy,
nổ mà không có giấy phép;…
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả:
Hậu quả của vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC không nhất thiết

là thiệt hại cụ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hành vi của cá nhân, tổ
chức bị coi là vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC chỉ khi hành vi đó đã
gây ra những thiệt hại cụ thể trên thực tế. Trong các trường hợp này, việc xác
định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại cụ thể là cần
thiết để đảm bảo nguyên tắc cá nhân, tổ chức chỉ phải chịu trách nhiệm về
những thiệt hại do chính hành vi của mình gây ra.
- Dấu hiệu khác:
Đối với một số loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC cụ thể, dấu
hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ có một
dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp với
những yếu tố khác. Thông thường, những yếu tố này có thể là:
+ Thời gian thực hiện hành vi vi phạm. Ví dụ: Hành vi “không duy trì
đầy đủ các điều kiện về an toàn phòng cháy và chữa cháy khi sử dụng phương
tiện giao thông cơ giới vận chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy, nổ” chỉ
được coi là vi phạm quy định trong vận chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy,
nổ theo quy định tại Điều 32 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 12/11/2013 khi thực hiện “trong thời gian vận chuyển”.
+ Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm: Ví dụ: Hành vi “sử dụng diêm,
bật lửa, điện thoại di động” chỉ được coi là vi phạm quy định về phòng cháy
và chữa cháy trong sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt, thiết bị, dụng cụ sinh lửa,
sinh nhiệt theo quy định tại Điều 33 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 12/11/2013 khi thực hiện “ở những nơi có quy định cấm”.
15


+ Công cụ, phương tiện vi phạm: Ví dụ: Phương tiện vi phạm hành chính
gồm đồ vật, công cụ, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm
hành chính như phương tiện vận chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy, nổ;
phương tiện phòng cháy và chữa cháy; phương tiện, thiết bị thông tin báo
cháy; phương tiện chữa cháy thông dụng;…

b. Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là những
biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm. Bao gồm:
- Lỗi của chủ thể vi phạm:
Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi vi phạm của mình và
hậu quả do hành vi đó gây ra.
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực PCCC là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính
trong lĩnh vực PCCC phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc
vô ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi phải có đầy đủ khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng không
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc có
nhận thức được điều đó nhưng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Khi có đủ căn
cứ cho rằng chủ thể thực hiện hành vi không có khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã không có vi phạm
hành chính trong lĩnh vực PCCC xảy ra.
Vấn đề lỗi của tổ chức, có ý kiến cho rằng lỗi chỉ là trạng thái tâm lý của
cá nhân trong khi thực hiện hành vi nên không đặt ra vấn đề lỗi của tổ chức vi
phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC. Khi xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực PCCC, chỉ cần xác định tổ chức đó có vi phạm hành chính
trong lĩnh vực PCCC và hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử phạt
bằng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC là đủ. Quan
16


điểm khác lại cho rằng cần xác định lỗi của tổ chức thì mới có đầy đủ cơ sở
để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC. Trong trường hợp này,
lỗi của tổ chức được xác định thông qua lỗi của các thành viên trong tổ chức
đó khi thực hiện công việc được giao. Pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực PCCC hiện hành quy định tổ chức phải chịu trách nhiệm

về mọi hành vi do chính mình gây ra và có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC. Đồng thời, phải có trách
nhiệm xác định lỗi của người thuộc tổ chức mình trực tiếp gây ra vi phạm
hành chính trong lĩnh vực PCCC trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được
giao để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và bồi thường thiệt hại theo quy định của
pháp luật. Về phương diện pháp luật, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 quy định chung rằng tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi
phạm hành chính do mình gây ra. Cùng với nội dung này, Điều 1 Nghị định
số 81/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính xác định: “cán bộ,
công chức, viên chức thực hiện hành vi vi phạm khi đang thi hành công vụ,
nhiệm vụ và hành vi vi phạm đó thuộc công vụ, nhiệm vụ được giao, thì không
bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, mà bị xử
lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức”.
- Động cơ vi phạm:
Động cơ vi phạm được hiểu là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành
vi vi phạm hành chính. Thông thường khi thực hiện hành vi vi phạm hành
chính chủ thể được thúc đẩy bởi động cơ nhất định nào đó như vụ lợi, trả
thù,...
- Mục đích vi phạm: Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ
của mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm hành

17


×