Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Thi truong nong san viet nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.36 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Từ
sau năm 1975, khi đất nước được giải phóng cho đến nay Việt Nam vẫn là một
nước nông nghiệp, tuy nhiên không còn là nước nông nghiệp thuần túy nữa mà
Việt Nam đã trở thành nước Nông - Công nghiệp. Giờ đây các sản phẩm trong
nông nghiệp đã ngày một đa dạng hơn, phong phú hơn cả về chủng loại, mẫu
mã và ngày một hoàn thiện hơn về chất lượng. Từ một nền nông nghiệp nghèo
lạc hậu, không đủ cung cấp lương thực, thực phẩm cho nền kinh tế quốc dân, thì
giờ đây nông nghiệp Việt Nam đã không những cung cấp đủ lương thực, thực
phẩm cho thị trường trong nước mà còn vươn ra các thị trường nước ngoài. Nhà
nước ta đã xác định nông sản là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng tạo ra
nguồn thu ban đầu cực kỳ cần thiết cho phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta đã
vươn lên thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới, hàng nông sản đã có
mặt ở 150 nước và nhiều thị trường trên thế giới, trong đó có thị trường rất lớn
khó tính như: EU, Mỹ và Nhật Bản. Thực tế đã chứng minh thời gian qua Việt
Nam đã thành công đáng kể trong việc nâng cao giá trị cũng như chất lượng
hàng nông sản xuất khẩu vào thị trường trên thế giới. Khi tham gia sân chơi
quốc tế, Việt Nam luôn có những cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh, giá trị xuất
khẩu nông sản với những nước khác. Tuy nhiên để hàng nông sản thực sự có
sức cạnh tranh trên những thị trường này là một vấn đề không đơn giản.
Bàn về vấn đề này, nhóm em đã chọn đề tài tiểu luận: "Thực trạng thị
trường nông sản Việt Nam" để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng hiện nay của thị
trường nông sản Việt Nam như: sản xuất, chế biến, xuất khẩu và từ đó đưa ra
được giải pháp phát triển cho ngành nông sản của Việt Nam.
Kết cấu bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận được chia làm 3
chương gồm:
- Chương 1: Lý thuyết cơ bản về thị trường nông sản
- Chương 2: Thị trường nông sản Việt Nam
- Chương 3: Định hướng, giải pháp phát triển thị trường nông sản Việt Nam

1




CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN
1.1. Khái niệm
- Thị trường:
Xét về mặt lịch sử, thị trường xuất hiện và phát triển cùng với sự phát
sinh, phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ban đầu là sự trao đổi bằng
hiện vật, sau khi có sự ra đời của tiền tệ - đóng vai trò trung gian - giữ chức
năng định giá cho mọi hàng hóa trao đổi trên thị trường. Ở nước ta, từ khi
chuyển sang chế độ kinh tế mới, thuật ngữ thị trường được sử dụng rộng rãi, trên
thực tiễn, sách báo. Trong ngành nông nghiệp hình thành những cụm từ đa dạng:
Thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, thị trường phân bón, thị trường lúa gạo…
Người ta sử dụng thuật ngữ thị trường chỉ không gian trao đổi hàng hóa: Thị
trường nông thôn, thị trường thành thị, thị trường nội địa…
Phân loại thị trường theo các giai đoạn tạo nên sản phẩm, người ta có thể
phân chia thị trường thành 2 loại: Thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất và
thị trường sản phẩm.
- Nông sản: Là những sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Nông nghiệp thực hiện những công việc gì thì có những loại
nông sản đó kể cả trồng trọt, chăn nuôi gia cầm, gia súc, thủy hải sản…như lúa,
ngô, khoai, rau, đậu, gà, vịt, lợn, bò, cá, tôm…
- Thị trường nông sản: Là tập hợp những người mua có cùng nhu cầu, có
khả năng thanh toán về một sản phẩm hàng hóa nông sản nào đó.
- Sản phẩm và lợi ích của sản phẩm:
Sản phẩm hàng hóa nói chung là tất cả những gì có thể thỏa mãn nhu cầu
hay mong muốn của khách hàng và được đem ra trao đổi trên thị trường với mục
đích thu hút sự chú ý mua sắm và sử dụng hoặc tiêu dùng. Nói cách khác đó là
những thu hút sự chú ý mua sắm có thể chấp nhận để thỏa mãn các mong muốn
và nhu cầu của mình. Sản phẩm nông nghiệp là những gì thỏa mãn nhu cầu ăn
uống, mặc và những dịch vụ cần thiết cho sản xuất nông nghiệp.

Một sản phẩm là tập hợp các thuộc tính hữu hình và vô hình bao gồm: Màu
sắc, nhãn hiệu, giá cả, uy tín và dịch vụ của người sản xuất, của người bán lẻ…
Lợi ích sản phẩm: Là tính hữu ích của sản phẩm khi tiêu dùng mua để
đáp ứng nhu cầu, là kỳ vọng của người tiêu dùng đối với sản phầm.
1.2. Bản chất và các chức năng của thị trường nông sản
1.2.1. Bản chất của thị trường nông sản

2


Xét về phía kết quả các cuộc trao đổi hàng hóa, kể cả trao đổi hàng hóa
đơn giản trực tiếp vật lấy vật hay trao đổi có dùng tiền làm trung gian, thì kết
cục của mọi cuộc mua bán trên thị trường đều là sự chuyển giao quyền sở hữu
một vật gì đó từ người chủ này sang người chủ khác với một giá cả nhất định do
họ thỏa thuận định ra. Nói các khác, nếu khi có sự chuyển giao quyền sở hữu
một vật trao đổi trên thị trường hàng hóa gọi là quá trình mặc cả hay đàm phán
trong thương mại. Mọi cuộc đàm phán thương mại giữa hai bên bán và mua
trong nền kinh tế thị trường phát triển cao đều mang lại kết quả là hình thành
được một tập hợp các thỏa thuận cụ thể về việc mua bán một loại hàng hóa hay
dịch vụ cụ thể liên quan đến ngành nông nghiệp.
Về bản chất, thị trường nông sản nói chung được hiểu là tập hợp những
thỏa thuận, dựa vào đó mà các chủ thể kinh tế trong và ngoài và ngành nông
nghiệp có thể đổi được các hàng hóa nông sản hay các hàng hóa dịch vụ cho
nhau.
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của sản xuất và trao đổi hàng hóa
trong nông nghiệp, thị trường nông nghiệp phát triển ngày càng phức tạp, tính
chất phức tạp và đa dạng của thị trường nông nghiệp là do tính đa dạng trong
nhu cầu tiêu dùng các loại nông sản thực phẩm của người dân ở thành thị hay
nông thôn. Tuy nhiên, nếu ta coi một loạt những biến đổi về quyền sở hữu và
các quá trình kinh tế - kỹ thuật làm cho sản phẩm từ những người sản xuất nông

nghiệp (doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hộ nông dân…) đến tay người tiêu
dùng cuối cùng là những dây chuyền marketing thì có rất nhiều dây chuyền khác
nhau tùy thuộc vào sản xuất và tiêu dùng khác nhau nhiều về thời gian, không
gian, hình thức biến đổi của sản phẩm, các chủ thể quan hệ mua bán… nhưng
chúng đều có thể được xem xét trên hai mặt.
Cơ cấu tổ chức của mỗi dây chuyền tùy thuộc vào loại kinh doanh của
những người nằm quyền sở hữu sản phẩm ở điểm nào đó trên dây chuyền.
Chức năng hoạt động tạo ra giá trị được thực hiện ở mỗi khâu tùy thuộc
vào những chi phí thu gom, chế biến vận chuyển, bảo quản… mà những người
kinh doanh hoạt động trên dây chuyền đã thực hiện.
Việc đi theo những dây chuyền maketing khác nhau để hiểu cơ cấu tổ
chức của thị trường nông nghiệp không làm mất đi dự khác nhau bản chất giữa
maketing nông nghiệp với thị trường nông sản.
1.2.2. Chức năng của thị trường nông sản
Bản chất của thị trường nông sản còn thể hiện ở những chức năng của nó.
Với tính chất là một phạm trù kinh tế, thị trường nông sản có những chức năng
cơ bản sau đây:
3


Chức năng thừa nhận
Mọi yếu tố đầu vào của sản xuất và đầu ra của nông sản hàng hóa đều
thực hiện việc mua bán, tức là chuyển quyền sở hữu với những giá nhất định,
thông qua việc thực hiện một loạt các thỏa thuận về giá cả, chất lượng, số lượng,
phương thức giao nhận hàng… trên thị trường. Chức năng thừa nhận của thị
trường thể hiện ở chỗ người mua chấp nhận mua nông sản hàng hóa của người
bán và do vậy hàng hóa đã được bán. Thực hiện chức năng này nghĩa là thừa
nhận các hoạt động sản xuất nông sản hàng hóa và mua bán chúng yêu cầu các
quy luật của kinh tế thị trường.
Chức năng thực hiện

Hoạt động mua và bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm nhất của thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường phát triển, mọi yếu tố đầu vào cho sản xuất
và đầu ra sản phẩm chủ yếu đều được tiền tệ hóa thì hoạt động mua bán là cơ sở
quan trọng quyết định các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Chức
năng thực hiện của thị trường thể hiện ở chỗ, thị trường thực hiện hành vi trao
đổi, thực hiện cân bằng cung cấp từng loại hàng hòa, hình thành giá cả và thực
hiện giá trị của nông sản phẩm.
Chức năng điều tiết kích thích
Nhu cầu thị trường là mục đích đáp ứng của mọi quá trình hoạt động sản xuất
– kinh doanh. Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy các chủ thể kinh
tế. Đây chính là cơ sở khách quan đê thực hiện chức năng điều tiết kích thích của
thị trường. Thực hiện chức năng này, thị trường có vai trò quan trọng trong việc
phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực khan hiếm của đất nước và sản xuất nông
nghiệp nói chung cũng như từng phân ngành của nông nghiệp nói riêng.
Chức năng thông tin
Có nhiều kênh thông tin kinh tế, trong đó thông tin thị trường là rất quan
trọng. Chức năng thông tin thị trường bao gồm: Tổng cung, tổng cầu nông sản
hàng hóa, cơ cấu cung cầu các loại nông sản hàng hóa, chất lượng, giá cả, thậm
chí cả thị hiếu, thách thức, phong tục tiêu dùng của nhân dân…
Những thông tin thị trường chính xác là cơ sở quan trọng cho việc ra các
quyết định. Các chức năng nêu trên của thị trường nông sản có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, làm cho thị trường thể hiện đầy đủ vai trò bản chất của mình.
Chức năng thừa nhận là quan trọng nhất, có tính chất quyết định. Chừng nào
chức năng này thực hiện thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng. Mặt
khác khi chức năng thừa nhận đã thực hiện mà các chức năng khác không thể
hiện ra thì chắc chắn đã có những yếu tố phi kinh phí nào đó can thiệp vào thị
trường làm cho nó bị biến dạng đi.
4



1.3. Đặc điểm thị trường nông sản
Những đặc điểm của thị trường nông sản gắn liền với những đặc điểm của
sản xuất nông nghiệp, với sản phẩm nông nghiệp. Những đặc điểm đó là:
– Sản phẩm nông nghiệp và thị trường nông sản mang tính chất vùng và
khu vực. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của sản xuất nông nghiệp gắn chặt
với điều kiện tự nhiên mang tính chất vùng. Lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối
của các vùng là tất yếu rất quan trọng trong việc lựa chọn hướng sản xuất kinh
doanh của cơ sở kinh doanh và tổ chức hợp lý quá trình tiêu thụ sản phẩm.
– Tính chất mùa vụ của sản xuất công nghiệp có tác động mạnh mẽ đến
cung - cầu của thị trường nông sản và giá cả nông sản. Sự khan hiếm dẫn đến
giá cả cao vào đầu vụ, cuối vụ và sự dư thừa làm cho giá cả giảm vào chính vụ
là một biểu hiện của đặc điểm này.
– Sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng, phong phú và trở thành nhu cầu tối
thiểu hàng ngày của mỗi người, với thị trường rất rộng lớn nên việc tổ chức tiêu
thụ sản phẩm phải hết sức linh hoạt. Sản phẩm cồng kềnh, tươi sống khó bảo
quản chuyên chở xa, vì vậy cần tổ chức các chợ nông thôn, các cửa hàng lưu
động và nhiều lĩnh vực linh hoạt và thuận tiện cho người tiêu dùng, hoặc sơ chế
trước khi đi đưa tiêu thụ, đồng thời phải sử dụng các phương tiện chuyên dụng
riêng khi vận chuyển, bảo quản.

5


CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Tình hình sản xuất nông sản Việt Nam
Việt Nam với đặc trưng là một nước nông nghiệp điều kiện khí hậu, thổ
nhưỡng đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất hàng nông sản phát triển.
Một số mặt hàng nông sản đã là thế mạnh của Việt Nam trong suốt thời gian qua
như gạo, cao su, tiêu, hạt điều, chè, cà phê,…
Sau hơn 15 năm thực hiện theo đường lối đổi mới, ngành nông nghiệp

nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Sản xuất nông nghiệp phát triển
toàn diện, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Trong sự
phát triển chung ấy nổi bật nhất là sự phát triển trong sản xuất lương thực.
Những năm qua sản xuất lương thực có tốc độ tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng
trưởng bình quân là 5%/năm do vậy không những đáp ứng được đầy đủ nhu cầu
tiêu dùng trong nước, đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc gia mà còn
biến nước ta từ một nước nhập khẩu gạo thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ
ba trên thế giới (từ năm 2014 đến nay).
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, việc đa dạng hoá cây
trồng, mở rộng diện tích trồng trọt, thực hiện theo phương châm đất nào trồng
cây ấy trong những năm qua đã mang lại hiệu quả kinh tế cao trong nông
nghiệp. Năm 2014, tổng sản lượng lương thực có hạt toàn quốc đạt 50,2 triệu
tấn, tăng 956 nghìn tấn (+1,9%) so cùng kỳ, bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia, trong đó sản lượng lúa đạt xấp xỉ 45 triệu tấn, tăng 955,2 nghìn tấn, ngô đạt
5,2 triệu tấn, tăng 0,5 nghìn tấn. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
năm 2015 (theo giá so sánh 2010) đạt 858,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% so với
năm 2014, bao gồm: Nông nghiệp đạt 637,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3%; lâm
nghiệp đạt 26,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,9%; thủy sản đạt 194,4 nghìn tỷ đồng,
tăng 3,1%.
Trình độ thâm canh, ứng dụng khoa học vào trong sản xuất nông nghiệp
đã được cải thiện do vậy năng suất cây trồng đã tăng đáng kể. Rõ ràng nhất là
đối với cây lúa. Sản lượng lúa cả năm 2013 đạt 44,1 triệu tấn, tăng 338,3 nghìn
tấn so với năm trước (Năm 2012 tăng 1,3 triệu tấn so với năm 2011). sản lượng
lúa cả năm 2014 đạt xấp xỉ 45 triệu tấn, tăng 900 nghìn tấn (+2,2%) so với năm
2013). Sản lượng lúa cả năm 2015 đạt 45,2 triệu tấn, tăng 240,9 nghìn tấn so với
năm 2014.
Bước vào triển khai kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 trong điều kiện kinh tế
thế giới suy thoái, kinh tế trong nước tăng trưởng chậm lại, giá vật tư tăng, sức
mua giảm, tiêu thụ sản phẩm của ngành gặp khó khăn… Đảng ta đã tập trung
triển khai Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nhờ vậy bước đầu có thể đánh

giá ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2011 – 2015 đã đạt
6


được kết quả khá toàn diện. Nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng cao, ổn định Theo
số liệu của Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng GDP khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt bình quân 3,1%/năm; giá trị sản xuất tăng
bình quân 3,6%/năm. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năm 2010 đến
2014, tỷ lệ giá trị gia tăng/giá trị sản xuất nông sản tăng từ 57% lên 65%; năng
suất lao động xã hội ngành tăng 1,75 lần, giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất
trồng trọt tăng 1,45 lần, trên 1 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng 1,71 lần.
Ngành trồng trọt thực hiện chủ trương tái cơ cấu, áp dụng các tiến bộ về giống
và biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, bền vững, duy trì được tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất trên 3,15%/năm vượt chỉ tiêu đề ra là 2,83%, an ninh
lương thực được đảm bảo, các cây công nghiệp, cây ăn quả có lợi thế cạnh tranh
tiếp tục phát triển. Ngành chăn nuôi triển khai Đề án Tái cơ cấu ngành, hướng
chủ yếu vào nâng cao năng suất, chất lượng đàn vật nuôi. Nhờ đó, 5 năm 2011 –
2015, tuy không tăng về số lượng đầu con, nhưng giá trị sản xuất nông sản vẫn
tăng bình quân gần 3,4%/năm, trọng lượng lợn thịt xuất chuồng bình quân từ
67,7 kg/con năm 2011 lên 70 kg/con năm 2014. Đặc biệt là phương thức chăn
nuôi trang trại, công nghiệp tiếp tục phát triển mạnh. Đối với chăn nuôi lợn,
phương thức chăn nuôi trang trại, công nghiệp chiếm 35% đầu con và 43% về
sản lượng; tương tự chăn nuôi gia cầm là 30% về đầu con và 40% về sản lượng.
Tính đến 6 tháng đầu năm 2016, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 297,2
ngàn tỷ đồng, bằng 99,27% so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi có mức tăng
trưởng GTSX cao nhất (+4,7%) đạt 88,7 ngàn tỷ đồng là do lĩnh vực chăn nuôi
lợn và gia cầm phát triển tốt, ước tính tổng số lợn cả nước tháng 6 đạt 28,3 triệu
con, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2015; số gia cầm đạt 341,5 triệu con, tăng
4,3%. Tiếp đến là dịch vụ tăng 2,8%, đạt 5,2 ngàn tỷ đồng. Ngành trồng trọt, do
ảnh hưởng của thời tiết nên giá trị sản xuất trong lĩnh vực này chỉ đạt 203,3 ngàn

tỷ đồng, giảm 3% so cùng kỳ năm ngoái.
Bên cạnh đó, 6 tháng đầu năm nay, giá lúa tại các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long diễn biến giảm mạnh. Giá cà phê vối nhân xô các tỉnh Tây Nguyên
tăng do thời tiết khô hạn tại nhiều vùng trồng cà phê chủ chốt trên thế giới.
Đồng thời, giá tiêu trong nước cũng tăng mạnh đặc biệt trong tháng 5/2016 và
6/2016 do El Nino làm giảm sản lượng ở nhiều nước trồng tiêu, trong đó có Việt
Nam. Thời tiết nắng nóng và hạn hán kéo dài trong nhiều tháng qua làm sản
lượng nhiều loại trái cây giảm, khiến giá nhiều loại trái cây như xoài, vải, sầu
riêng tăng. Thị trường chè trong nước tương đối ổn định và có xu hướng giảm
dần do nhu cầu giảm và nguồn cung dồi dào bởi yếu tố thời tiết hậu thuẫn vào
thời điểm thu hoạch.
Chế biến đang là một lĩnh vực còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt
7


động chế biến hàng nông sản phục vụ cho xuất khẩu chủ yếu được thực hiện bởi
những người sản xuất với phương tiện chế biến thô sơ lạc hậu, nên có năng suất
thấp. Hoạt động này chưa được thực hiện một cách hợp lý, đồng bộ, chưa được
quan tâm một cách đúng mức nên sản phẩm tạo ra thường có phẩm cấp thấp do
tạp chất nhiều, ngoại hình không hấp dẫn, chất lượng không cao. Những yếu
kém trong khâu chế biến được xem là nổi cộm nhất hiện nay và là một trong
những nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
2.2. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản
2.2.1 Thị trường trong nước
Hàng nông sản là sản phẩm thiết yếu của mọi người dân như gạo, chè, cà
phê,… tuy vậy do mức sống của người dân ta còn thấp nên các sản phẩm nông
sản được sản xuất ra chủ yếu là phục vụ cho xuất khẩu mà tiêu thụ cho thị
trường trong nước chủ yếu là các sản phẩm thô, thứ cấp với giá rẻ hơn gấp nhiều
lần như mặt hàng cà phê trong nội địa chỉ đạt khoảng 6000 tấn/năm chiếm 1,5 –

2% tổng sản lượng cà phê sản xuất ra. Tuy vậy hiện nay, mức sống của người
dân Việt Nam đã cao hơn trước, do đó nhu cầu về tiêu thụ nông sản ở thị trường
nội địa cũng tăng lên.
Sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đa dạng, phong phú nhưng cũng
phức tạp nhưng trong những năm qua nhờ tổ chức tốt kênh tiêu thụ sản phẩm
nên đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Nhờ có chính sách tự do hóa thương
mại nên mọi người, mọi thành phần kinh tế đều đã được tự do hóa tham gia vào
các kênh tiêu thụ sản phẩm. Các kênh tiêu thụ này có đặc điểm chủ yếu là do tư
nhân quản lý chị phối. Các kênh gián tiếp bước đầu phát triển như: kênh lương
thực thực phẩm cung cấp đi các nước, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo
trong xuất khẩu. Mạng lưới tiêu thụ giữa các vùng tuy chưa đồng đều nhưng
cũng đã góp phần phân phối một khối lượng lớn nông sản phẩm. Việc hình
thành các khu trung tâm, siêu thị như Big C, Lotte Mart,..., các chợ đầu mối
cũng giúp cho việc trao đổi buôn bán hàng nông sản diễn ra tấp nập hơn và ổn
định hơn.
2.2.2 Thị trường nước ngoài (xuất khẩu)
Năm 2015, ngành nông nghiệp Việt Nam trải qua nhiều khó khăn khi chịu
tác động của thời tiết lẫn yếu tố thị trường khiến kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt
hàng nông sản chính suy giảm mạnh. Hơn nữa, các nước là đối thủ cạnh tranh
của Việt Nam như Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia lại liên tục phá giá đồng nội tệ
khiến hàng nông sản của Việt Nam kém sức cạnh tranh. Đến nay, diễn biến thị
trường cũng không có nhiều điểm sáng khi ngành nông nghiệp đã chịu ảnh
8


hưởng nặng nề của hạn hán, xâm nhập mặn, làm sụt giảm sản lượng các mặt
hàng như gạo, cao su, cà phê.
Cho dù giá xuất khẩu nông sản được dự báo tăng lên, việc tụt giảm sản
lượng một số mặt hàng nông sản chính sẽ tác động xấu đến bức tranh chung về
xuất khẩu.

Năm 2016, xuất khẩu nông sản của Việt nam được đánh giá có nhiều cơ
hội khởi sắc hơn do nhu cầu thị trường tăng, đặc biệt là có sự tác động từ các
Hiệp định thương mại tự do giữa Việt nam và các đối tác chính thức có hiệu lực.
Những tháng đầu năm 2016, các sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ yếu như:
gạo, gỗ, cà phê , hạt tiêu, điều vẫn duy trì được đà tăng trưởng tốt. Riêng mặt
hàng rau quả xuất khẩu có tốc độ phát triển vượt bậc. Trước đây, những loại trái
cây như: Thanh Long, xoài, vải thiều, nhãn... mới chỉ xuất khẩu được số lượng
rất ít và hạn chế thì nay đã vào được những thị trường khó tính như: Hoa kỳ, EU
và Nhật Bản. Tuy nhiên, sản lượng gạo năm 2016 vẫn sụt giảm đáng kể.
2.2.2.1. Mặt hàng cà phê
Ngành cà phê Việt Nam là một ngành sản xuất có truyền thống lâu đời,
sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam luôn tăng trường trong nhiều năm qua và
đang đứng thứ 2 thế giới. Đây đang là mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn mang tính
chiến lược trong cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, tình hình xuất khẩu cà phê của Việt
Nam trong niên vụ 2014-2015 (tức từ tháng 10/2014 đến cuối tháng 09/2015)
sụt giảm đáng kể so với niên vụ trước do hạn hán kéo dài tại khu vực Tây
Nguyên và sâu bệnh nhiều. Cụ thể, xuất khẩu cà phê của cả nước niên vụ 20142015 đạt 1,269 nghìn tấn, tương đương 2,648 triệu USD, giảm 23,5% về sản
lượng và giảm 21,9% về giá trị.

9


* Niên vụ bắt đầu từ tháng 10 năm trước đến tháng 9 năm sau.
Mặc dù tính đến hết năm 2015 Việt Nam là nước đứng thứ 2 trên thế giới
(sau Brazil) tính theo tổng lượng cà phê xuất khẩu, nhưng giá trị sản phẩm chưa
cao do Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cà phê nhân (cà phê chưa qua chế biến). Cụ
thể, xét về cơ cấu các loại cà phê xuất khẩu, cà phê nhân trung bình chiếm hơn
95% trong tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của cả nước trong 5 niên vụ gần
đây, còn lại là cà phê hòa tan và cà phê rang xay.


Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, sản lượng cà phê rang xay và cà phê
hoà tan xuất khẩu ngày càng gia tăng, do Việt Nam đã chú trọng nhiều hơn đến
việc xuất khẩu cà phê chế biến. Theo phòng Nghiên cứu Phát triển thị trường,
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE), trong niên vụ 2014- 2015, Việt Nam đã
xuất khẩu khoảng 1,28 triệu bao cà phê hoà tan, tăng 382 nghìn bao (42,4%) so
với niên vụ trước. Đồng thời, sản lượng xuất khẩu cà phê rang của Việt Nam
cũng có sự thay đổi lớn trong niên vụ 2014- 2015. Lượng cà phê rang xay xuất
khẩu tăng từ 120 nghìn bao lên đến 475 nghìn bao, cao hơn 337 nghìn bao
(280,8%) so với niên vụ 2013- 2014.

10


*Khối lượng 1 bao tương đương 60 kg.
Theo Vietrade, trong năm 2015, cà phê Việt Nam đã xuất khẩu đến 80 thị
trường trên thế giới. Trong đó, Đức và Hoa Kỳ là hai thị trường dẫn đầu về giá
trị nhập khẩu cà phê Việt Nam, lần lượt đạt 358,82 triệu USD (tương đương
chiếm 13,42% thị phần) và 313,33 triệu USD (11,72% thị phần) trong năm
2015. Ngoài ra, một số thị trường lớn khác nhập khẩu cà phê Việt Nam là Tây
Ban Nha (8,62% thị phần ~ 230,59 triệu USD), Italia (7,43% thị phần ~ 198,56
triệu USD) và Nhật Bản (6,34% thị phần ~ 169,55 triệu USD).

Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, tính đến hết tháng 8/2016, khối lượng
xuất khẩu cà phê đạt 1,27 triệu tấn về khối lượng và 2,25 tỷ USD về giá trị, tăng
gần 40% về khối lượng và 20,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá cà phê
11


xuất khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2016 đạt 1.754 USD/tấn, giảm 14,5% so

với cùng kỳ năm 2015. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là 2 thị trường tiêu thụ cà phê
lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng qua với thị phần lần lượt là 15% và 13%.
Giá trị xuất khẩu cà phê trong 7 tháng đầu năm 2016 ở hầu hết các thị trường
chính của Việt Nam đều tăng so với cùng kỳ năm 2015, ngoại trừ thị trường
Tây Ban Nha và Bỉ. Cơ cấu xuất khẩu cà phê nhân 92% và cà phê chế biến (hòa
tan và rang xay) là 8%.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu cà phê từ đầu năm 2016 đến nay tăng mạnh
so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên, theo Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam,
sản phẩm tạo ra hiện vẫn chủ yếu xuất dưới dạng thô, giá trị gia tăng thấp. Vấn
đề nổi cộm trong ngành cà phê hiện nay là quản lý chất lượng vệ sinh an toàn
thực phẩm chưa tốt. Số cơ sở có thương hiệu, đăng ký kinh doanh còn khá ít. Để
tạo điều kiện phát triển cho các cơ sở cà phê rang xay uy tín, Hiệp hội Cà phê –
Ca cao Việt Nam kiến nghị các đơn vị chức năng cần quản lý tốt hơn công tác
VSATTP tại các cơ sở rang xay, chế biến cà phê trên cả nước trong thời gian tới.
2.2.2.2. Mặt hàng gạo
Nghề trồng lúa ở Việt Nam có lịch sử lâu đời nhất so với nghề trồng lúa ở
các nước châu Á, đồng thời gạo là một trong những mặt hàng lương thực thiết
yếu nhất của thế giới. Từ sau khi thực hiện đổi mới (năm 1986) đến nay, ngành
lúa gạo của Việt Nam đã phát triển liên tục theo định hướng gia tăng sản lượng.
Sự gia tăng gần như liên tục này trong suốt hơn hai thập kỷ qua đã giúp Việt
Nam không những đảm bảo an ninh lương thực trong nước mà còn liên tục là
một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho thấy 8
tháng đầu năm 2015, tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm đáng kể về cả
khối lượng và giá trị. Nguyên nhân là do nhu cầu nhập khẩu cả thị trường truyền
thống và thị trường mới đều giảm nguồn cung của các nước xuất khẩu dồi dào,
dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, đặc biệt là Thái Lan và Ấn Độ.
Theo đó, xuất khẩu gạo 8 tháng đầu năm đạt khoảng 3,37 triệu tấn, với kim
ngạch 1,51 tỉ USD, giảm 16,6% về khối lượng và giảm 13,1% về giá trị so với
cùng kỳ năm ngoái.

Nhưng đến đầu tháng 10/2015 đã có những dấu hiệu khả quan nhờ 2 hợp
đồng tập trung xuất khẩu gạo đi Philipines và Indonesia với số lượng 1,5 triệu
tấn, nâng lượng gạo cả năm lên 6,59 triệu tấn.
Sau những tháng đầu năm tăng mạnh (do thực hiện các hợp đồng từ năm
ngoái vơi Indonesia, Philippines), xuất khẩu gạo đã đi xuống trong quý II/2016.
Theo đó, tháng 4/2016 xuất khẩu chỉ đạt khoảng gần 450.000 tấn, giảm trên
30%; sang tháng 5 xuất trên 400.000 tấn, giảm trên 23%; và đến tháng 6, chỉ đạt
12


380.000 tấn, giảm gần 40% so cùng kỳ. Như vậy, xuất khẩu gạo 6 tháng chỉ đạt
2,657 triệu tấn, giảm gần 2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo VFA, những thị trường tập trung của gạo Việt Nam chưa thấy dấu
hiệu sẽ sớm nhập khẩu thêm gạo trong tương lai gần, đặc biệt tại các thị trường
truyền thống của Việt Nam ở Đông Nam Á.
Theo đó, cuối tháng 6/2016, Cơ quan Lương thực quốc gia Philipines
công bố có đủ gạo trong những tháng giáp hạt (tháng 7 - 9), đồng nghĩa với việc
nước này chưa vội nhập khẩu gạo sau khi đã nhận đủ lượng gạo của những đợt
mở thầu cuối 2015. Còn Indonesia cũng thấy có dấu hiệu về tiếp tục mua vào…
Trong khi đó, thị trường lớn nhất của gạo Việt Nam là Trung Quốc (chiếm
gần 35% lượng gạo xuất khẩu của Việt nam trong 6 tháng đầu năm), sức mua
hiện đang giảm.
Bên cạnh sự ảm đạm của thị trường do nhu cầu yếu, thiếu các hợp đồng
tập trung, xuất khẩu gạo còn đang phải đối mặt với những khó khăn về tỷ giá.
Khoảng sáng trong bức tranh xuất khẩu 6 tháng đầu năm nay, chính là thị
trường châu Phi, khi trong 6 tháng đầu năm nayxuất khẩu tăng gần 11% so cùng
kỳ năm 2015.
Tuy nhiên, một số thương nhân ngành gạo cho rằng sắp tới, xuất khẩu sang
thị trường châu Phi sẽ gặp khó khăn, do đồng Euro mất giá so với đồng USD.
Cùng đó, đồng Nhân dân tệ yếu cũng đang cản trở các doanh nghiệp Việt

Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang Trung Quốc, dù nước này vẫn đang có nhu
cầu nhập khẩu nhiều gạo.
Mặc dù sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn cao, nhưng người
nông dân thu nhập vẫn còn thấp.
• Thứ nhất là do các đặc điểm như thiếu chuẩn hóa, cước phí vận chuyển
cao, khó bảo quản và chịu sự bảo hộ nội địa cao
Gạo xuất khẩu là mặt hàng có tính cạnh tranh cao, bất chấp việc hoạt động
xuất khẩu hay nhập khẩu tập trung vào một số ít quốc gia. Giá gạo xuất khẩu
trên thế giới liên tục được điều chỉnh bởi tất cả các yếu tố liên quan đến chuỗi
giá trị cùng với quá trình tham chiếu đến nguồn cung và nguồn cầu ở các quốc
gia khác nhau, đến các mức giá cả của các loại gạo khác nhau, cũng như của các
loại ngũ cốc khác và cả các chính sách bảo hộ gạo nội địa liên tục thay đổi của
các quốc gia.
• Thứ hai, áp lực cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu gạo ngày càng tăng
chủ yếu do xu hướng gia tăng xuất khẩu gạo.

13


Trong số các nước xuất khẩu gạo truyền thống, Ấn Độ là nước có sự bứt
phá mạnh mẽ nhất trong xuất khẩu gạo, và trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn
trên thế giới. Những năm gần đây, Ấn Độ đã mở rộng được thành công thị phần
xuất khẩu gạo sang Nam Phi và có thể cạnh tranh ngang sức với Thái Lan ở thị
trường này. Ở châu Á, Campuchia và Myanmar đang có mức tăng trưởng mạnh
về xuất khẩu gạo, cạnh tranh trực tiếp với các nước xuất khẩu gạo truyền thống.
Xu hướng tự lực về cung cấp lúa gạo tại các nước nhập khẩu gạo cũng là một
yếu tố. Xu hướng này cũng được nhận thấy rõ ở châu Phi. Nguồn cung dồi dào
là nguyên nhân khiến một số nước ở châu Phi cắt giảm lượng gạo nhập khẩu.
• Thứ ba, giá trị xuất khẩu gạo Việt Nam còn thấp.
So với các đối thủ cạnh tranh mạnh thì tốc độ tăng sản lượng gạo xuất

khẩu của Việt Nam cao hơn, nhưng tốc độ tăng kim ngạch lại thấp hơn. Sản
lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam lớn thứ hai thế giới nhưng chỉ xếp thứ 3, thứ
4 nếu xét về giá trị gạo xuất khẩu. Sự gia tăng hay giảm sản lượng và đặc biệt là
kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam chịu tác động lớn từ sự biến động về sản
lượng sản xuất và xuất khẩu gạo của các nước trong khu vực như Ấn Độ, Trung
Quốc, Thái Lan, Pakistan và sự biến động của giá cả trên thị trường thế giới.
Tuy khoảng cách về giá gạo xuất khẩu giữa Việt Nam và thế giới thu hẹp
dần do chất lượng gạo tăng lên, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn
thấp hơn giá gạo xuất khẩu của thế giới. Vấn đề không phải do Việt Nam chủ
động hạ giá để cạnh tranh mà phải chấp nhận mức giá thấp hơn so với mặt bằng
giá thế giới do chất lượng gạo chưa cao. Có những thời điểm, gạo xuất khẩu
cùng phẩm cấp thấp, cùng thị trường nhưng giá gạo của Việt Nam vẫn thấp hơn
giá gạo xuất khẩu của Thái Lan từ 35-80 USD/tấn. Đây chính là sự thiệt hại đối
với Việt Nam, có ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh tranh của gạo xuất khẩu.
Xét khả năng cạnh tranh về giá, khoảng cách chênh lệch giữa giá gạo xuất khẩu
(loại 5% tấm) của Thái Lan và Việt Nam có xu hướng giảm trong những năm
2000 – 2003 (chênh lệch giá chỉ khoảng 10-15 USD/tấn) nhưng sau đó lại tăng
lên 45 USD/tấn vào năm 2006. Nếu so sánh mức bình quân tất cả các loại gạo
xuất khẩu thì giá gạo xuất khẩu tuy có được cải thiện hơn nhưng vẫn còn khoảng
cách và giá gạo của Việt Nam luôn thấp hơn giá gạo của Thái Lan từ 15-30
USD/tấn. Nguyên nhân chính gây ra sự chênh lệch về giá này là do chất lượng
gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn của Thái Lan.
• Thứ tư, do cấu trúc thị trường chưa bền vững
Thị trường xuất khẩu gạo hiện tại tập trung vào một số thị trường chính,
gạo Việt Nam xuất khẩu sang khu vực châu Á chiếm tỷ lệ khoảng 75,75%, châu
Phi chiếm khoảng 12,68%, châu Mỹ chiếm khoảng 7,58%, châu Âu chiếm
khoảng 1,5%, Trung Đông chiếm khoảng 1,27%, châu Úc chiếm khoảng 1,21%.
14



Các thị trường nhập khẩu của Việt Nam với số lượng lớn là Trung Quốc,
Philippines, châu Phi, Malaysia, Indonesia, Cuba và Hông Kông.
Trong những năm qua, Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam và Pakistan là những
quốc gia xuất khẩu gạo chính trên thế giới, chiếm tới 71,81% tổng lượng gạo
xuất khẩu toàn cầu. Trung Quốc, Negeria, Iran và Indonesia là những nước nhập
khẩu gạo chính, nhưng chỉ chiếm 23,32% tổng lượng gạo nhập khẩu toàn cầu.
Điều này cho thấy các nước xuất khẩu gạo có xu hướng tập trung hơn, trong khi
các nước nhập khẩu khá phân tán. Mỗi quốc gia xuất khẩu gạo thường đều có
những thị trường xuất khẩu chủ yếu của riêng mình và cạnh tranh trong những
thị trường xuất khẩu khác. Việc quá chú trọng đến tăng sản lượng dẫn đến chất
lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không cao, thị trường xuất khẩu tập trung ở
phân đoạn thấp, kém đa dạng và đặc biệt đang tập trung rất nhanh vào thị trường
Trung Quốc. Khi những thị trường xuất khẩu này gặp khó khăn, lập tức tạo sức
ép giảm giá lên toàn bộ thị trường nội địa, gây thiệt hại cho các thành phần trong
chuỗi sản xuất lúa gạo trong nước, đặc biệt là người nông dân.
• Thứ năm, các chính sách chưa phát huy hiệu quả
Hiện nay, trên thị trường xuất khẩu gạo vẫn còn thiếu vắng các liên kết
ngang giữa các công ty (ví dụ như trong việc đàm phán giá lúa gạo xuất khẩu)
và liên kết dọc với các công ty cung ứng đầu vào cho sản xuất. Xu hướng xây
dựng vùng nguyên liệu hiện được thực hiện rất “gượng ép” do các doanh nghiệp
chủ yếu dựa vào nguồn cung sẵn có trên thị trường, sản phẩm xuất khẩu không
có sự khác biệt lớn, rủi ro về lợi nhuận cao do thị trường đầu ra không ổn định.
Trong những năm vừa qua, một loạt các chính sách được ban hành tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp tới hành vi của các chủ thể trên thị trường lúa gạo. Tuy nhiên,
các chính sách được thiết kế cũng bộc lộ nhiều bất cập và không đạt được kết
quả như kỳ vọng.
Chẳng hạn như chính sách quy định điều kiện doanh nghiệp xuất khẩu
gạo. Theo đó, thương nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, nếu đáp ứng
đủ các điều kiện và được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất
khẩu gạo. Tuy nhiên, doanh nghiệp muốn kinh doanh xuất khẩu gạo phải đảm

bảo ít nhất hai điều kiện cần, đó là: có ít nhất 1 kho chuyên dùng dự trữ và 1 cơ
sở xay xát thóc. Mục tiêu của chính sách này là giảm bớt các đầu mối xuất khẩu
nhằm tránh hiện tượng tranh mua, tranh bán. Tuy nhiên, chính sách này không
đạt được mục tiêu liên kết nhà xuất khẩu với nông dân. Chính sách này vô hình
trung tạo ra thêm một tầng lớp nữa giữa nông dân và các doanh nghiệp xuất
khẩu. Đó là các doanh nghiệp thu gom cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
2.3. Phân tích SWOT
2.3.1. Điểm mạnh
15


* Thứ nhất, nhóm các yếu tố bên trong như điều kiện tự nhiên, con người:
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi với khí hậu nhiệt
đới gió mùa cho phép nước ta phát triển một nền nông nghiệp đa dạng về cơ cấu
cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với từng vùng miền trên cả nước.
Môi trường sinh thái ở nông thôn hiện nay đã được đầu tư quan tâm bảo
vệ, môi trường nông thông từng bước được bảo vệ, phục hồi và phát triển tạo
điều kiện cho nông nghiệp phát triển một cách bền vững.
Lao động nông nghiệp nước ta dồi dào có khả năng học hỏi nhanh và sáng
tạo ra những máy móc phục vụ sản xuất cùng với truyền thống và tập quán cần
cù chịu khó của người nông dân trong sản xuất nông nghiệp sẽ nâng cao hiệu
quả của hoạt động nông nghiệp.
* Thứ hai, nhóm các yếu tố hỗ trợ bên ngoài như các chính sách của nhà
nước hay khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất phát triển nông nghiệp:
Hệ thống chính trị ở nông thôn do Đảng lãnh đạo đã được tăng cường,
dân chủ cơ sở đã từng bước được phát huy, vị thế giai cấp nông dân đã được
nâng cao, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đã được giữ vững tạo điều kiện
để nông dân yên tâm sản xuất. Nông nghiệp luôn nhận được sự quan tâm của
các cấp chính quyền, thể hiện qua các chính sách và các chương trình hỗ trợ phát
triển sản xuất nông nghiệp.

Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã được tăng cường, nhất là
thủy lợi, giao thông, góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng ở nông thôn.
Trình độ khoa học kỹ thuật nông nghiệp, mức độ cơ giới hóa nông nghiệp
từng bước được cải thiện như là việc áp dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật vào
trong sản xuất, cơ khí hóa nông nghiệp có bước tiến bộ.
Việc ứng dụng khoa học – công nghệ, thực hiện tốt công tác thủy lợi làm
tiền đề để các giống lúa mới thích nghi phát triển, tạo ra sự đột phá to lớn về sản
lượng nông sản cũng là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến những kết
quả khả quan cho nông nghiệp nước ta trong thời gian qua. Nhiều năm qua,
chúng ta đã tạo ra những bộ giống cây trồng phong phú, về cơ bản đáp ứng được
nhu cầu của sản xuất ở các vùng sinh thái, góp phần phát triển sản xuất nông
nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường trong
nước và trên thế giới. Nhiều giống cây trồng đã bắt đầu được nghiên cứu một
cách có hệ thống, tính xã hội hóa của ngành giống cây trồng đã được phát huy
tốt.
2.3.2. Điểm yếu
2.3.2.1. Tính chất của điều kiện tự nhiên
16


Thiên tai thường xuyên xảy ra hàng năm gây thiệt hại nặng nề: bão, lũ lụt,
hạn hán, sự thay đổi khí quyển với hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ địa cầu ấm dần
lên làm tan băng ở hai cực sẽ tạo nguy cơ ngập lụt ở những vùng thấp (như đồng
bằng Sông Cửu Long)
Nhiều loại dịch bệnh như dịch rầy nâu, đạo ôn trên lúa đang gây nhiều khó
khăn cho việc sản xuất lúa ở nước ta vì hậu quả mà nó mang lại là rất nặng nề.
Tính chất nhiệt đới gió mùa của nước ta làm tăng thêm tính chất bấp bênh
vốn có của nông nghiệp. Trong thời gian qua trên khắp các vùng sản xuất nông
nghiệp phía Bắc của nước ta đã trải quan những đợt rét gây ảnh hưởng không
nhỏ cho ngành nông nghiệp như tháng 1/2016, ngành chăn nuôi nước ta đã gặp

nhiều khó khăn do các đợt rét đậm, rét hại làm cho số gia súc như trâu, bò, dê,
lợn, ngựa chết lên đến hơn 3200 con, không chỉ thế còn ảnh hưởng đến tiến độ
gieo trồng và gây ra các bệnh như táp lá, vàng lá, rễ kém phát triển…
Tình trạng sử dụng hóa chất tràn lan trong nông nghiệp hiện nay cũng rất
đáng báo động, dẫ đến nguy cơ đất nông nghiệp bị thoái hóa, bạc màu.
Diện tích đất canh tác nông nghiệp mỗi năm giảm, trong khi đó năng suất
lao động thấp, cơ cấu kinh tế nông thôn tuy có thay đổi nhưng chưa đáng kể.
2.3.2.2. Thiếu tính liên kết
Một vấn đề tồn tại hàng chục năm nay với ngành nông nghiệp nước ta đó
chính là sản xuất manh mún, thiếu tập trung, thiếu liên kết, yếu kỹ thuật. Vấn đề
đó làm cho nông sản làm ra không ổn định về số lượng; không đồng đều về chất
lượng. Như vậy việc tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp không ít khó khăn.
Tập quán sản xuất và tính nông dân còn quá cao. Cứ thích gì làm nấy,
thích làm lúc nào thì làm mà thiếu đi một tính liên kết. Liên kết trong sản xuất
bền vững sẽ hình thành liên kết tiêu thụ ổn định. Tính nông dân chúng ta hay
làm theo những gì mình thấy, mình nghe mà chưa thật sự tìm hiểu sâu hơn về
những đối tượng đó tạo thành những phong trào nhà nhà sản xuất loại này, đồng
đồng trồng cây loại này dẫn đến cung vượt cầu và cuối cùng là nông dân tự làm
hại nhau.
Điển hình cho việc này là phong trào trồng ớt. Trong những năm qua, đôi
lúc giá ớt lên cao 20.000-40.000đ/kg nhưng có lúc chỉ có 2.000đ/kg và thậm chí
là không có người thu mua. Vấn đề này xuất phát từ 2 nguyên nhân; 1 là chúng
ta chưa có một kênh xuất khẩu chính thống với sản lượng ổn định mà chỉ xuất
khẩu theo kiểu chập, lúc (lúc xuất được, lúc không); Nguyên nhân thứ 2 là tính
sản xuất ồ ạt theo phong trào của nông dân. Khi thấy người này trồng ớt được
lợi nhuận cao (do giá ớt lúc xuất khẩu được tăng) thì năm sau, vụ sau nông dân
ùn ùn trồng ớt. Không chỉ một thôn, một xã, một huyện mà phong trào này có
17



khi còn vượt ranh giới tỉnh. Do đó sản lượng lúc thu hoạch quá nhiều. Nếu có
xuất khẩu được thì cũng khó mà tiêu thụ hết nên thương lái bắt đầu chèn ép,
mua cái đẹp, cái chất lượng và làm giá thấp. Cuối cùng người bị thiệt vẫn là
nông dân nhẹ dạ cả tin và có phần “ngây thơ”. Không riêng gì cây ớt mà dưa
hấu hay những loại nông sản khác cũng gặp tình trạng tương tự.
Ngành chăn nuôi cũng không ngoại lệ. Tuy không phụ thuộc nhiều vào thị
trường xuất khẩu nhưng người chăn nuôi vẫn cứ làm theo phong trào; cùng với
việc hàng nhập lậu nên đã không ít người lao đao. Thấy nuôi gà có lợi nhuận cao
thì người dân lại đổ xô đi nuôi gà, đến lúc xuất chuồng thì ồ ạc ra thị trường làm
cung vượt cầu. Có thể có thêm yếu tố hàng nhập lậu nữa làm cho giá cả rớt thê
thảm và dân ta lại ngậm ngùi về tìm nuôi con khác. Cứ như vậy hễ khi gà vịt rẻ
thì có thể bò hoặc heo giá cao và ngược lại.
Trình độ canh tác của đại bộ phận người dân tham gia sản xuất nông
nghiệp còn thấp và chưa đáp ứng được với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn. Ngoài ra, điểm chung trong sản xuất nông nghiệp ở
các huyện miền núi nước ta hiện có trình độ, tập quán canh tác của người dân
còn thấp, hầu hết chưa đúng theo khung thời vụ nên ảnh hưởng rất nhiều đến
năng suất, chất lượng của các mặt hàng nông sản.
Năng lực quản lý năng suất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản
chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là
khâu marketing, dự tính, dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu
sản xuất - chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ
sản phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập một cách
vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả
sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường.
Đầu tư tư nhân vào nông nghiệp, nông sản còn hạn chế và chưa tương
xứng với tiềm năng, cũng như nhu cầu phát triển của ngành. Liên kết “bốn nhà”
trong chuỗi giá trị còn chưa chặt chẽ; các dịch vụ đầu vào cho sản xuất, thu mua,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chưa phát triển đồng bộ, thuận lợi và
hiệu quả; còn nhiều hạn chế trong ứng dụng quy trình sản xuất tiên tiến, cơ giới

hóa, tự động hóa, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin nhằm tạo ra các sản
phẩm có chất lượng, năng suất và giá trị gia tăng cao, thân thiện môi trường.
2.3.2.3. Nông sản Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu thô
Hạn chế của các mặt hàng nông sản xuất khẩu là chủ yếu xuất khẩu thô,
chất lượng hàng hóa không đồng nhất khiến đối tác không tin tưởng và thường
xuyên ép giá. Mặc dù xuất khẩu cà phê cho 80 quốc gia nhưng giá cà phê luôn lệ
thuộc vào các nhà đầu cơ, các công ty xuất khẩu rất khó dự báo trước vì giá tăng

18


hay giảm đều do các nhà đầu cơ khống chế, các doanh nghiệp Việt Nam không
được làm chủ được.
Tương tự với ngành cao su, khoảng 3 năm trở lại đây, giá liên tục giảm
sâu, không ít doanh nghiệp lao đao vì khó tìm đầu ra. Thế nhưng, nghịch lý là
các doanh nghiệp trong nước đang phải nhập khẩu một lượng lớn cao su từ nước
ngoài về để sản xuất. Sở dĩ có nghịch lý cao su trong nước khó xuất khẩu, còn
các doanh nghiệp trong nước vẫn phải nhập khẩu cao su với lượng lớn là do Việt
Nam hầu như chỉ xuất khẩu cao su thiên nhiên dưới dạng thô, trong khi các
doanh nghiệp trong nước lại cần cao su tổng hợp để sản xuất.
2.3.2.4. Chất lượng sản phẩm không đồng đều
Ngoài xuất khẩu thô, nông sản Việt còn bị thua kém các nước khác vì chất
lượng sản phẩm không đồng đều. Phần lớn các loại giống cây con hiện đang
được nông dân sử dụng có năng suất và chất lượng thấp, trên địa bàn cả nước
chưa hình thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản
xuất. Hầu hết người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho mình hoặc mua
giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng. Ta có thể
thấy năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và
thấp hơn nhiều so với năng suất lúa của Nhật Bản, Italia, Mỹ.
Để ký được một hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp phải rất khó khăn khi

chứng minh cho đối tác thấy được năng lực sản xuất, nguồn gốc xuất xứ và sản
phẩm có chất lượng tốt. Tuy nhiên, chỉ những doanh nghiệp lớn mới có đủ lực
để làm từ A- Z (từ xây vùng nguyên liệu cho tới sản xuất chế biến), còn những
đơn vị vừa và nhỏ thì chỉ có khả năng làm chế biến. Do đó, các doanh nghiệp
nhỏ phải phụ thuộc vào nguồn cung nguyên liệu từ nông dân dẫn đến chất lượng
sản phẩm không đồng đều cho mỗi lần xuất khẩu.
Ví dụ như một doanh nghiệp sản xuất một sản phẩm chế biến từ trái
chanh, họ phải chọn mua từ rất nhiều hộ dân nhưng không phải lúc nào cũng
mua được chanh có chất lượng đồng đều như nhau. Thậm chí có lúc không có
chanh để mua vì nông dân đổ xô đi trồng những cây khác có lợi ích hơn… Đây
cũng là nguyên nhân khiến đối tác nhập khẩu không tin tưởng vào chất lượng
hàng hóa do doanh nghiệp cung cấp.
2.3.2.5. Công nghệ chế biến lạc hậu
So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu,
chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường
khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho
việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản còn yếu kém nên
giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh.
19


Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung
thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng
loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực,
truyền thống như gạo, cà phê, cao su, hải sản... làm khả năng cạnh tranh ngày
càng giảm dần.
Hiện nay, các cam kết về hội nhập, tự do hóa thương mại hàng nông sản
với các tổ chức thế giới và các quốc gia được triển khai với quy mô ngày càng
lớn và mức độ ngày càng cao càng làm môi trường cạnh tranh trở nên khắc
nghiệt hơn cho các sản phẩm nông sản của Việt Nam.

2.3.3. Cơ hội
Cơ hội đầu tiên chính là tỷ lệ quan trọng của nông sản trong cơ cấu xuất
khẩu của Việt Nam. Cùng với các ngành hàng xuất khẩu quan trọng khác như
may mặc, giày da thì nông sản là những ngành hàng sử dụng nhiều nguồn lực
lao động tại chỗ hơn là nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Nông sản xuất khẩu còn có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam
vì liên quan đến hơn 70% dân số, là một thị trường lớn cho các ngành hàng sản
xuất khác. Khi xuất khẩu nông sản được giữ ổn định và tăng trưởng, cả nền kinh
tế có nhiều cơ hội hơn để phát triển.
Việt Nam vẫn là quốc gia nông nghiệp không có nguồn tài chính dồi dào,
thế mạnh của Việt Nam trong cạnh tranh quốc tế là nguồn lực lao động sẵn có và
rẻ tiền. Việt Nam có thể nhập khẩu nông sản thô với giá rẻ hơn từ các nước láng
giềng để chế biến và xuất khẩu đến các thị trường quốc tế sẵn có.
Phát triển và xuất khẩu nông sản sẽ ngày càng đậm hơn và đến cả từ quá
trình hội nhập, cũng như thúc đẩy hoạt động tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trong trồng trọt, chăn
nuôi, lâm nghiệp, thủy sản; đẩy mạnh liên kết bốn nhà và gia tăng đầu tư, ứng
dụng công nghệ cao vào nông nghiệp, hiện đại hóa, nâng cấp văn minh thương
mại, khắc phục tình trạng bán hàng kiểu đổ đống, không bao bì, nhãn mác,
thương hiệu không áp phích, poster giới thiệu… là những động lực mới, mở ra
cơ hội mới, kỳ vọng mới phát triển bền vững và hiệu quả hơn cho ngành nông
nghiệp Việt Nam.
Việc đẩy mạnh đầu tư và mở rộng quy mô ứng dụng công nghệ CAS
(Cells Alive System) - công nghệ đông lạnh nhanh kết hợp từ trường - giúp bảo
quản rau quả giữ nguyên chất lượng sau một năm thu hái, trạng thái, hương vị,
mầu sắc tới 80-90% so với ban đầu, để có thể vận chuyển, tiêu thụ nông phẩm
rộng rãi theo giá cao hơn hẳn trong nước ở các thị trường quốc tế xa xôi nhất và
nóng bức nhất; giảm tổn thất do hư hỏng và tình trạng bị ép giá bán thấp, chấm
dứt cảnh “được mùa rớt giá”, “trồng rồi chặt” như một điệp khúc buồn kéo dài
bấy lâu nay.

20


Phát triển và xuất khẩu nông sản cũng đến từ đẩy mạnh công tác thị
trường nước ngoài, xúc tiến thương mại đối với các mặt hàng nông sản. Sự phối
hợp giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công thương, trong đó
có hệ thống Thương vụ tại nước ngoài; Xây dựng mạng lưới thông tin thông
suốt, thúc đẩy quan hệ, khâu nối xuất - nhập khẩu nông sản, kết nối giữa các thị
trường với Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cập nhật và vượt qua các rào cản
kỹ thuật, kịp thời xử lý các tranh chấp phát sinh trong thương mại nông sản,
thực hiện các cam kết hội nhập trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam với
các đối tác song phương và đa phương.
Ngoài nỗ lực của doanh nghiệp và sự chủ động của các ngân hàng trong
cung cấp nguồn tín dụng đầu tư cần thiết, Nhà nước cũng đã tập trung nguồn lực
từ Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và phối hợp với các nguồn lực khác, khuyến
khích hoạt động của hệ thống khuyến nông; đầu tư nâng cao năng lực một số
viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ ở các vùng,
nhằm hỗ trợ ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là giống, công
nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ thông tin, gắn sản xuất
với chế biến và tiêu thụ, hướng vào các sản phẩm bảo đảm an toàn vệ sinh thực
phẩm, có chất lượng, có giá trị cao về kinh tế, đối tượng chính là rau, hoa, quả,
chăn nuôi, thủy sản,... phù hợp chủ trương tái cơ cấu sản xuất ngành nông
nghiệp, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết Hiệp định đối tác
kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP, nhiều FTA song phương với nhiều nước
trên thế giới như Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc; trở thành thành viên của nhiều tổ
chức kinh tế thế giới như Tổ chức Thương mại thế giới WTO, Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA)… đã mở ra nhiều cơ hội cho các mặt hàng nông sản
của nước ta xuất khẩu vào các thị trường này với mức thuế bằng 0% chỉ trong
một vài năm tới.

Trong công bố cam kết chi tiết TPP của Nhật Bản, thuế quan nhập khẩu
với hoa quả và nước trái cây về 0% ngay lập tức. Đáng chú ý là một số mặt hàng
mà hiện tại Nhật Bản nhập chủ yếu từ Việt Nam sẽ có lộ trình cắt giảm dần thuế
quan. Thứ nhất, khoai tây: Thuế hiện tại đang là 40% trong hạn ngạch và 2796
yên/kg ngoài hạn ngạch. Thuế sẽ giữ nguyên cho phần trong hạn ngạch và thuế
ngoài hạn ngạch được giảm 15% sau 6 năm. Trung bình 3 năm gần đây lượng
nhập khẩu từ Việt Nam là 200 tấn/năm. Thứ hai, trà: thuế hiện tại là 17%; không
quota. Thuế sẽ được đưa về 0 trong 6 năm. Hiện tại Việt Nam xuất khẩu trung
bình sang Nhật 300 tấn/ năm. Thứ ba, nước dứa: thuế ngoài hạn ngạch là 33
yên/kg, thuế ngoài hạn ngạch sẽ giảm 15% trong 6 năm. Xuất khẩu trung bình
của Việt Nam sang Nhật là 40 tấn/ năm. Như vậy, có thể thấy rằng Nhật Bản sẽ
là một thị trường tiềm năng cho sản phẩm rau quả của Việt Nam trong khối TPP.
Các sản phẩm xuất khẩu từ cây công nghiệp cũng có thể được hưởng lợi
21


gián tiếp từ cam kết cắt giảm thuế suất của TPP nhưng không cao. Đối với cà
phê, hiện nay mức thuế quan nhập khẩu cà phê tại Mexico còn rất cao, đối với
cà phê hạt Robusta chưa rang, thuế suất là 20%. Theo cam kết TPP, Mexico đặt
lộ trình giảm thuế rất dài, từ 5 đến 13 năm.
Đối với sản phẩm điều, hiện nay Việt Nam đang nhập khẩu hạt điều thô từ
Châu Phí với giá trị 485 triệu USD trên tổng số 589 triệu USD. Trong khối TPP
hiện nay, Australia cũng đang xuất khẩu điều thô sang Việt Nam và chịu mức
thuế suất nhập khẩu 10%. Với cam kết của TPP, nhiều khả năng mức thuế này sẽ
giảm xuống. Khi đó, Việt Nam có thể tăng cường lượng nhập khẩu điều từ
Australia để giảm chi phí sản xuất.
Đối với cao su, hiện nay Việt Nam xuất khẩu nhiều cao su thô sang
Malaysia chế biến và nước này lại xuất đi Hoa Kỳ. Để hưởng thuế suất ưu đãi từ
Hoa Kỳ trong cam kết TPP, Malaysia sẽ phải đảm bảo tỷ lệ nội địa hóa (cao su
thô có nguồn gốc từ TPP). Việt Nam là nước duy nhất trong TPP xuất khẩu cao

su thô cho Malaysia. Vì cao su là mặt hàng chiến lược của Malaysia và Hoa Kỳ
là thị trường quan trọng, nên nhiều khả năng Malaysia sẽ đẩy mạnh thu mua cao
su thô của Việt Nam trong thời gian tới.
Việc tham gia TPP sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam gia tăng sản xuất và mở rộng
thị trường nông sản ra nước ngoài.
TPP sẽ mở ra một thị trường tiêu thụ nông sản rộng lớn, giúp Việt Nam
giảm áp lực phụ thuộc vào thị trường truyền thống. TPP sẽ giúp quá trình điều
chỉnh tái cơ cấu xuất khẩu nông sản diễn ra nhanh hơn khi tiếp cận được các thị
trường của các quốc gia thành viên. Trong đó, Mỹ và Nhật Bản là hai thị trường
dự báo sẽ gia tăng khối lượng xuất khẩu các mặt hàng nông sản.
Ngay khi TPP có hiệu lực, thuế suất sẽ giảm đến 90%, thậm chí nhiều
dòng thuế về 0% nên giá hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm xuống, doanh
nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia cạnh tranh bình đẳng hơn. Các mặt hàng
nông sản của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn trên thị trường thế giới, tuy
nhiên, hiện nay các mặt hàng của Việt Nam nhập khẩu vào các nước đang phải
chịu mức thuế cao. Chẳng hạn, mức thuế suất đối với cá ngừ của Việt Nam vào
Nhật Bản dao động từ 6,4 - 7,2%, trong khi đó, mức thuế suất của cá ngừ Thái
Lan, Philippines vào Nhật Bản là 0%. Đây là một khó khăn đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam, nhưng cũng sẽ đem lại cơ hội cạnh tranh
bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam, tác động tích cực đến thu nhập
của ngư dân khai thác cá. Ngoài ra, theo Hiệp hội cá ngừ Việt Nam, TPP sẽ tạo
nhiều thuận lợi cho ngành chăn nuôi, chế biến do thuế suất nhập khẩu các
nguyên liệu đầu vào giảm cũng khiến cho giá cả đầu vào của các doanh nghiệp

22


chăn nuôi, chế biến giảm theo nên giá thành sản phẩm sẽ giảm và có cơ hội nâng
cao sức cạnh tranh cho sản phẩm.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gạo vào 06 nước

TPP (Hoa Kỳ, Brunei, Malaysia, Australia, Singapore, Mexico) chiếm khoảng
hơn 12% tổng xuất khẩu gạo của Việt Nam. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2015,
Mexico áp dụng trở lại mức thuế suất 20% đối với mặt hàng gạo và 9% đối với
mặt hàng lúa. Động thái này cũng tạo thêm áp lực cho mặt hàng gạo xuất khẩu
của Việt Nam. Các thị trường còn lại trong TPP, lượng xuất khẩu gạo của Việt
Nam không đáng kể, một phần do bảo hộ sản xuất trong nước. Đối với thị
trường Nhật Bản, mức thuế suất được áp dụng ở mức rất cao, lên đến 1.066%.
Thuế suất cao cộng với hàng rào kỹ thuật khiến cho mặt hàng gạo rất khó tiếp
cận được thị trường Nhật Bản. Do đó, với việc tham gia TPP, các mặt hàng nông
sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế 0%, là cơ hội tốt cho Việt
Nam thâm nhập vào thị trường các nước, từ đó giúp nâng cao kim ngạch xuất
khẩu của cả nước.
Sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn chủ yếu là quy mô nhỏ, công
nghệ lạc hậu nên gia nhập TPP cũng mở ra cơ hội cho Việt Nam trong thu hút
đầu tư, hợp tác với nước ngoài nhằm hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp, nâng
cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Trong
11 nước TPP còn lại, Hoa Kỳ và Nhật Bản là 2 đối tác quan trọng của Việt Nam
trong thu hút vốn FDI. Theo đó, Nhật Bản có thể đầu tư vào Việt Nam để tận
dụng những ưu thế, lợi thế về nông nghiệp của Việt Nam, ngược lại Việt Nam sẽ
tiếp thu công nghệ và đầu tư từ Nhật Bản để cung cấp các sản phẩm nông nghiệp
như rau quả, hoa tươi, cá ngừ, tôm… sang Nhật Bản và các nước TPP khác.
Trên thực tế trong năm 2015, nhiều đoàn doanh nghiệp Nhật Bản đã sang thăm
dò, khảo sát để hợp tác phát triển nông nghiệp với Việt Nam nên nhiều khả năng
Nhật Bản sẽ đẩy mạnh hơn nữa đầu tư vào nông nghiệp khi TPP có hiệu lực.
2.3.4. Thách thức
Trước tác động của biến đổi khí hậu, cạnh tranh thị trường gay gắt, an
toàn thực phẩm, cùng với những bất ổn trong khu vực tài chính tiền tệ… và đặc
biệt là việc gia nhập vào sân chơi TPP đã khiến nông sản và người nông dân
Việt Nam phải đối mặt với ngày càng nhiều thách thức.
Một trong số những thách thức lớn đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam

khi tham gia TPP là hàng rào kỹ thuật tại nhiều thị trường nhập khẩu. Khi TPP
được ký kết, các nước tham gia có thể giảm thuế xuất nhưng họ sẽ nâng cao các
hàng rào phi thuế quan phổ biến, nghiêm ngặt hơn, yêu cầu về chất lượng sản
phẩm cũng khắt khe hơn. Đây cũng là một trong những điểm yếu đối với sản
23


xuất nông nghiệp của Việt Nam. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn vừa qua,
hàng hóa nông sản của Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị
trường thế giới do vướng phải hàng rào kỹ thuật thương mại và biện pháp vệ
sinh dịch tễ. Hàng nhập khẩu tăng trong khi xuất khẩu không tìm được đường
vào thị trường các nước thì không những không phát triển và phát huy được lợi
thế, lĩnh vực nông nghiệp còn có nguy cơ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế
Việt Nam.
Một thách thức lớn nữa là hàng loạt tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực
phẩm. Tại những thị trường lớn như Mỹ, Nhật… các tiêu chuẩn này khá khắt
khe. Cùng một tiêu chuẩn chung, nông sản Việt Nam XK muốn qua cửa thì phải
đáp ứng được. Nếu không, dù họ có mở rộng cửa thì hàng của ta cũng không thể
lọt. Như vậy, lợi thế có được cũng như không. Đặc biệt, trong quy định của TPP
có một điểm rất nghiêm túc là câu chuyện bảo vệ bản quyền. Đó là bản quyền
liên quan đến giống, công nghệ… Rất nhiều nước tham gia đàm phán TPP đều
triển khai khá tốt vấn đề này, trong khi đó phía Việt Nam còn nhiều lúng túng.
Như vậy, nếu Việt Nam không khắc phục được điểm yếu này thì sẽ rất khó khăn
cho cả nông dân lẫn các doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ hai, người nông dân khi tới 50% dân số nước ta phụ thuộc vào nông
nghiệp. Thực tế, dù đã có nhiều phát triển nhưng đa phần người nông dân trong
quá trình hội nhập vẫn chưa được trang bị nhiều kiến thức. Điều này dẫn tới
năng lực cạnh tranh của một số mặt hàng trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn
yếu, điển hình là các nhóm hàng nông sản. Gia nhập TPP, nông sản Việt Nam sẽ
có cơ hội được xuất sang nhiều nước nhưng bên cạnh đó, nông sản của các nước

khác cũng sẽ được nhập khẩu ồ ạt hơn. Đứng trước sự phát triển của thị trường
nông sản của các quốc gia láng giềng như sản phẩm đa dạng, chất lượng tốt, giá
bán phải chăng, công nghệ hiện đại, đòi hỏi nhận dược của người dân Việt Nam
phải ngày càng được nâng cao.
Ba là, mặc dù Việt Nam có lợi thế đối với sản xuất nông nghiệp, song đối
với ngành chăn nuôi, Việt Nam lại không có nhiều thuận lợi. Trong 12 nước
tham gia TPP, các nước Hoa Kỳ, Australia, New Zealand là những nước có lợi
thế nhất về các sản phẩm chăn nuôi do có không gian rộng lớn, tỷ trọng chăn
nuôi trong nông nghiệp chiếm tới 70 - 80%, trong khi trồng trọt chỉ chiếm tỷ
trọng nhỏ. Tiếp đến là các nước Nhật Bản, Singapore, Malaysia còn Việt Nam
nằm trong nhóm ít có thuận lợi nhất về chăn nuôi. Do đó, khi TPP mở cửa thì
những sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt. Bên
cạnh đó, các sản phẩm chăn nuôi của thế giới sản xuất ra đều theo quy trình sản
xuất công nghiệp nên có lợi thế cạnh tranh vượt trội so với Việt Nam.

24


CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN VIỆT NAM
Quy hoạch định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định mục tiêu đó là:
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh; áp dụng
khoa học công nghệ để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu
dài, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và xuất khẩu; nâng cao hiệu quả sử
dụng đất đai, nguồn nước, lao động và nguồn vốn; nâng cao thu nhập và đời
sống của nông dân, ngư dân, diêm dân và người làm rừng.
Cụ thể:

* Thời kỳ 2011 - 2020
- Cơ cấu ngành nông lâm thủy sản đến năm 2020: Nông nghiệp 64,7%,
lâm nghiệp 2%, thủy sản 33,3%.
- Tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy sản bình quân từ 3,5- 4%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông lâm thủy sản 4,3- 4,7%/năm.
- Độ che phủ của rừng đạt 44- 45% vào năm 2020.
- Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 40 tỷ USD, trong đó nông
nghiệp 22 tỷ USD, lâm nghiệp 7 tỷ USD, thủy sản 11 tỷ USD.
- Giá trị sản lượng trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp bình quân 70 triệu đồng.
* Đến năm 2030
- Cơ cấu ngành nông lâm thủy sản đến năm 2030: Nông nghiệp 55%, lâm
nghiệp 1,5%, thủy sản 43,5%.
- Tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy sản bình quân từ 3 - 3,2%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông lâm thủy sản 4 - 4,3%/năm.
- Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 60 tỷ USD, trong đó nông
nghiệp 30 tỷ USD, lâm nghiệp 10 tỷ USD, thủy sản 20 tỷ USD.
- Giá trị sản lượng trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp đạt bình quân 100 120 triệu đồng.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×