Tải bản đầy đủ (.doc) (198 trang)

Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay - Copy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.6 KB, 198 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận
án là trung thực có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Quang Thanh


3

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ CHẤT
LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA
CÁC ĐẢNG ỦY HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1.
Đảng uỷ học viện, trường sĩ quan và công tác kiểm tra, giám
sát của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam
1.2.
Những vấn đề cơ bản về chất lượng công tác kiểm tra, giám
sát của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam


Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM
SÁT CỦA CÁC ĐẢNG ỦY HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ
QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
2.1.
Thực trạng chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của các đảng
uỷ học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2.
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát của các đảng uỷ học viện,
trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 3 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA CÁC
ĐẢNG ỦY HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng công
tác kiểm tra, giám sát của các đảng uỷ học viện, trường sĩ
quan quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.2.
Những giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của các đảng uỷ học viện, trường sĩ quan quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ CĨ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

5
11


31
31
57

73
73
101

115
115
126
165
167


4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

168
182

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT
1
2
3
4


Chữ viết đầy đủ
Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia
Kiểm tra, giám sát
Ủy ban kiểm tra

Chữ viết tắt
Nxb
CTQG
KT, GS
UBKT

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án


5
Các học viện, trường sĩ quan là trung tâm đào tạo cán bộ, giảng viên
quân đội; đào tạo kỹ sư, bác sĩ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật dân sự phục
vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ
khoa học quân sự, các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
xã hội và nhân văn quân sự, đồng thời là những cơ sở nghiên cứu khoa học
quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự, góp phần quan trọng xây
dựng quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững
mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thành
tốt nhiệm vụ, đảng ủy, ban giám hiệu (giám đốc) phải chú trọng xây dựng
các đảng bộ học viện, trường sĩ quan trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo nhà
trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Muốn vậy, phải tiến hành đồng
thời các giải pháp, trong đó nâng cao chất lượng công tác KT, GS của các
đảng ủy học viện, trường sĩ quan là giải pháp cấp thiết hiện nay.

Trong q trình học tập, cơng tác và nghiên cứu khoa học, nghiên cứu
sinh đã dành nhiều trí tuệ, cơng sức nghiên cứu về công tác KT, GS của
Đảng, chất lượng công tác KT, GS ở các đảng bộ học viện, trường sĩ quan
quân đội. Do đó, đề tài “Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của các
đảng ủy học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” thể
hiện sự đầu tư cơng sức,trí tuệ nghiên cứu của tác giả.
Luận án tập trung nghiên cứu, luận giải những vấn đề cơ bản về công
tác KT, GS và chất lượng công tác KT, GS của các đảng ủy học viên, trường
sĩ quan; những yếu tố quy định chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng công
tác KT, GS của các đảng ủy học viên, trường sĩ quan; đánh giá đúng thực
trạng, chỉ rõ nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm, rút ra một số
kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác KT,
GS của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án


6
Kiểm tra, giám sát là nội dung thuộc chức năng lãnh đạo và là nhiệm
vụ thường xuyên của Đảng; là sinh hoạt nội bộ Đảng, góp phần xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tổng kết q trình lãnh
đạo cách mạng và cơng tác xây dựng Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
V của Đảng (tháng 3 năm 1982), khẳng định: “Kiểm tra là một trong những
chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng”, “Lãnh đạo mà khơng có kiểm tra thì
coi như khơng có lãnh đạo”. Tổng kết 20 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới,
Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm về công tác là:“Nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát” [37, tr.134]. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định: “…tăng cường và nâng cao chất lượng
công tác tư tưởng, lý luận, công tác kiểm tra, giám sát.” [40, tr.80]. Làm tốt
cơng tác KT, GS góp phần tích cực xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh,
làm cho Đảng đủ sức lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới công nghiệp

hố, hiện đại hố đất nước.
Cơng tác KT, GS của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam là một mắt khâu quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, một nội
dung cơ bản của công tác xây dựng Đảng nhằm bảo đảm cho Cương lĩnh, Điều
lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp được
chấp hành triệt để; góp phần củng cố, giữ vững nguyên tắc tổ chức của Đảng,
tăng cường đoàn kết thống nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức đảng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội
ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội
trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo các học viện, trường sĩ quan hoàn thành thắng
lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Những năm qua, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đại hội
Đảng toàn quốc, của Ban Chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân
ủy Trung ương, các đảng ủy học viện, trường sĩ quan đã quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện công tác KT, GS và đạt được những kết quả quan
trọng, chất lượng công tác KT, GS ngày càng nâng lên, góp phần hồn thành tốt


7
nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng đảng bộ trong sạch
vững mạnh, nhà trường vững mạnh toàn diện.
Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ giáo dục - đào
tạo, nghiên cứu khoa học và công tác xây dựng Đảng, chất lượng công tác
KT, GS của các đảng uỷ học viện, trường sĩ quan quân đội còn nhiều hạn chế,
khuyết điểm cả về nhận thức, trách nhiệm và tổ chức thực hiện. Biểu hiện cụ
thể: chất lượng nghiên cứu, quán triệt nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng,
của cấp ủy, UBKT cấp trên về công tác KT, GS và phẩm chất, năng lực, trách
nhiệm, phương pháp tác phong công tác của một số ủy viên ban chấp hành đảng
bộ, ủy viên UBKT các đảng ủy học viện, trường sĩ quan còn hạn chế; chất lượng
thực hiện nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp, chế độ, nền nếp và

quy trình cơng tác KT, GS chưa cao; chất lượng kiểm tra đảng viên có dấu
hiệu vi phạm và giám sát cấp ủy viên, cán bộ chủ trì cịn có mặt hạn chế; nội
dung kiểm tra còn chung chung, dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; xem
nhẹ nguyên tắc tự kiểm tra; chưa gắn công tác KT, GS với việc “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các giải pháp xây dựng Đảng
theo tinh thần nghị quyết Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI); tính đấu tranh
tự phê bình và phê bình khơng cao, nể nang, né tránh; vẫn còn đảng viên, tổ
chức đảng vi phạm kỷ luật quân đội...ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học và công tác
xây dựng đảng bộ của các nhà trường.
Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó
lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ; xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật
đổ, ly khai, khủng bố và các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống có chiều
hướng gia tăng; tình hình Biển Đơng có thể có những diễn biến mới phức tạp,
cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển của nhân dân ta sẽ cịn lâu dài, khó
khăn. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhiệm vụ quân đội và sự


8
phát triển của nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, công tác xây
dựng Đảng của các học viện, trường sĩ quan đặt ra những yêu cầu mới ngày
càng cao, địi hỏi tồn đảng bộ nhà trường, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong
đảng bộ nhà trường phải tiếp tục xây dựng chỉnh đốn Đảng, kiên quyết khắc
phụ những hạn chế, khuyết điểm, chủ động phòng, chống những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mặt khác, các thế lực thù địch bằng
chiến lược “diễn biến hồ bình” chống phá nước ta ngày càng quyết liệt, thúc
đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng, Nhà nước; mặt trái
nền kinh tế thị trường và những tiêu cực ngoài xã hội đang hàng ngày, hàng
giờ tác động đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên, dễ nảy sinh những

biểu hiện suy thối về chính trị, tư tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, vi phạm kỷ
luật, thối hóa về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và quần chúng,
nhất là đội ngũ đảng viên là học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu, chính
trị hậu cần - kỹ thuật trong các học viện, trường sĩ quan. Do đó, nâng cao chất
lượng cơng tác KT, GS có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng các
đảng bộ học viện, trường sĩ quan trong sạch, vững mạnh. Vì vậy, đề tài “Chất
lượng cơng tác kiểm tra, giám sát của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay ” là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận, thực tiễn và đề xuất những
giải pháp nâng cao chất lượng công tác KT, GS của các đảng ủy học viện, trường
sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Tổng quan các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước có liên
quan đến cơng tác KT, GS và chất lượng công tác KT, GS.


9
- Làm rõ một số vấn đề cơ bản lý luận, thực tiễn về chất lượng công tác
KT, GS của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác KT, GS; khái quát một số
kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác KT, GS của các đảng ủy học viện,
trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm qua.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công
tác KT, GS của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:

Chất lượng công tác KT, GS của các đảng uỷ học viện, trường sĩ quan Quân
đội nhân dân Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Chất lượng công tác KT, GS của các đảng uỷ học viện, trường sĩ quan
quân đội; phạm vi khảo sát ở 06 học viện, trường sĩ quan gồm: Học viện Chính
trị, Học viện Biên phịng, Học viện Hải qn, Học viện Phịng khơng - Khơng
qn, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1. Các số liệu và tư
liệu điều tra, khảo sát phục vụ cho luận án chủ yếu từ 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận án: Là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về công tác KT, GS và thi hành kỷ
luật Đảng; các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế về công tác KT, GS của
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; của UBKT Trung
ương, của Quân ủy Trung ương, UBKT Quân ủy Trung ương.
* Cơ sở thực tiễn: Là thực tiễn chất lượng công tác KT, GS của các đảng
ủy học viện, trường sĩ quan. Các báo cáo tổng kết về công tác xây dựng đảng bộ,
công tác KT, GS và các số liệu điều tra, khảo sát của tác giả; đồng thời kế thừa
có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số cơng trình khoa học có liên quan.


10
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành và liên ngành; trong đó, chú trọng sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp, lơgic, lịch sử, so sánh, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, khảo sát thực
tiễn và ý kiến chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của luận án
Đưa ra quan niệm và luận giải làm rõ nội hàm quan niệm chất lượng
công tác KT, GS của các đảng uỷ học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân

dân Việt Nam.
Làm rõ đặc điểm công tác KT, GS của các đảng ủy học viện, trường sĩ
quan qn đội và tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác KT, GS của các đảng
uỷ học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Từ thực tiễn hoạt động nêu ra những kinh nghiệm nâng cao chất lượng
cao công tác KT, GS của các đảng uỷ học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nâng cao chất lượng công tác KT, GS
của các đảng uỷ học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, thực tiễn về chất lượng công tác KT, GS của các đảng uỷ học viện, trường
sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; cung cấp cơ sở khoa học cho đảng ủy,
ban giám đốc (ban giám hiệu) cấp ủy, UBKT các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo
nâng cao chất lượng cơng tác KT, GS góp phần xây dựng các đảng bộ học
viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong sạch vững mạnh.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong q
trình giảng dạy, học tập mơn CTĐ, CTCT ở nhà trường quân đội.
8. Kết cấu của luận án: Mở đầu, 3 chương (6 tiết). Kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


11
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA CÁC ĐẢNG ỦY HỌC
VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi có liên quan đến đề tài
Bài viết “Tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng hình thành tầng
lớp lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt” của Tôn Hiếu Quân [69] đã

làm rõ việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cần xây dựng và thực thi chế độ đi
kiểm tra thị sát, triển khai công tác đi kiểm tra, thị sát, tăng cường giám sát, kiểm
tra đối với ban lãnh đạo các cấp, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo đảm nhiệm chức
trưởng của Đảng và chính quyền; thực hiện kiểm tốn về trách nhiệm kinh tế
trong nhiệm kỳ của cán bộ lãnh đạo; cải cách thêm một bước chế độ xét duyệt
phê chuẩn hành chính, quy phạm hóa hành vi dùng quyền của cán bộ lãnh đạo;
kiên trì và hồn thiện chế độ báo cáo cơng tác và tình hình chấp chính liêm khiết
của cán bộ lãnh đạo, thực hiện chế độ trách nhiệm về xây dựng tác phong của
Đảng và chấp chính liêm khiết, xây dựng rộng rãi chế độ chuyện trò, nhắc nhở
và hỏi ý kiến qua thư từ đối với cán bộ.
Trong bài “Tăng cường xây dựng kỷ luật, giữ gìn sự đồn kết, thống
nhất của đảng” của Tạng Thắng Nghiệp [70] đã phân tích kỷ luật Đảng là bảo
đảm quan trọng để bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, hoàn thành
nhiệm vụ của Đảng. Để giữ nghiêm kỷ luật Đảng, một trong những biện pháp
là tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình chấp hành kỷ luật. Theo đó, cơ quan
kiểm tra kỷ luật các cấp phải phát huy đầy đủ vai trò, chức năng, phối hợp với
Đảng ủy và chính quyền làm tốt việc kiểm tra, giám sát tình hình chấp hành kỷ
luật, kịp thời phát hiện và kiên quyết uốn nắn mọi vấn đề có tính manh nha,
tính khuynh hướng liên quan đến vi phạm kỷ luật Đảng. Phải tập hợp các
nguồn lực giám sát, dùng hình thức chế độ để tập hợp một cách hữu cơ các loại
hình giám sát với nhau như giám sát trong Đảng, giám sát của Đại hội đại biểu
nhân dân, giám sát hành chính, giám sát dân chủ, giám sát tư pháp, giám sát
của quần chúng và giám sát của dư luận, mở rộng kênh giám sát, xây dựng sân
chơi giám sát, hình thành nên hợp lực giám sát.


12
Tác giả Trương Thụ Quân với bài viết “Không ngừng nâng cao trình
độ quản lý đảng xây dựng đảng theo u cầu khoa học hóa cơng tác xây dựng
đảng” [70] đã chỉ ra một trong những biện pháp quan trọng nhằm nâng cao chất

lượng công tác quản lý đảng viên là cần phải giám sát nghiêm khắc, nghiêm túc
chấp hành và hoàn thiện các chế độ, xây dựng kiện toàn cơ chế cơng tác phịng
ngừa, kịp thời phát hiện và nghiêm túc uốn nắn. Nghiêm túc thực hiện các quyền
lợi dân chủ như quyền được biết thông tin, quyền giám sát mà Điều lệ Đảng trao
cho đảng viên, khiến cho đảng viên thực sự phát huy vai trò chủ thể trong sinh
hoạt đảng và hoàn thiện các chế độ giám sát dân chủ; tăng cường giám sát của
cấp trên và giám sát nội bộ tổ chức đảng; tăng cường giám sát của quần chúng
và giám sát của dư luận. Đối với những vấn đề mới manh nha xuất hiện của cán
bộ, cần sớm nhắc nhở, sớm giáo dục, ngăn ngừa tật xấu nhỏ biến thành lớn.
Bài viết “Tăng cường xây dựng tác phong cán bộ thiết thực thực hiện
vì dân, thực tế, thanh liêm” của Bạch Lập Bình [70] xác định: Một trong
những biện pháp để xây dựng tác phong quần chúng, thanh liêm là làm tốt công
tác giám sát cán bộ. Theo đó, giám sát cán bộ cần có nội dung ràng buộc tác
phong. Coi tình hình tác phong là trọng điểm giám sát cán bộ, đưa vào các
công tác tâm sự nói chuyện, gửi thư nhắc nhở, hội nghị sinh hoạt dân chủ, báo
cáo công việc cá nhân có liên quan, đi thị sát cơ sở..., tăng cường giám sát đối
với tác phong cán bộ từ những chế độ cụ thể; đồng thời phát huy vai trò giám
sát của xã hội, giám sát của quần chúng, coi trọng và quy phạm giám sát qua
mạng, hình thành hợp lực lớn mạnh của giám sát.
Trong bài “Một số yêu cầu mới trong công tác kiểm tra của Đảng và
Nhà nước Lào hiện nay” của Chăn - sy - Sen - sôm- phu” [18] đã đề xuất các
yêu cầu: Một là, các tổ chức đảng và đảng viên phải nhận thức đúng đắn và đầy
đủ vị trí, vai trị, nhiệm vụ, ý nghĩa và tầm quan trọng công tác kiểm tra của
Đảng và Nhà nước. Các tổ chức đảng phải tích cực lãnh đạo, chỉ đạo công tác
kiểm tra tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra trên cơ sở quán triệt và vận dụng


13
các quy định của Đảng cho sát với điều kiện thực tiễn của cơ sở. Hai là, chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra về lý luận chính trị, quan

điểm, đường lối, chính sách của Đảng, kiến thức về pháp luật, kinh tế; rèn
luyện, phẩm chất chính trị tốt, bản lĩnh vững vàn, cơng tâm, trong sạch và am
hiểu nghiệp vụ công tác kiểm tra. Ba là, ủy ban kiểm tra các cấp phải thực hiện
tốt vai trò tham mưu giúp cấp ủy và tập trung kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ
đảng viên, cán bộ. Bốn là, đổi mới phương pháp kiểm tra của ủy ban kiểm tra
các cấp trên cơ sở đúng nguyên tắc, đúng quy định của Trung ương, thích hợp
với điều kiện, đối tượng kiểm tra, phù hợp với hoàn cảnh.
Trong cơng trình “Đổi mới cơng tác kiểm tra ở tổ chức cơ sở đảng
trong Quân đội nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay” của Xỏm - Vay Xeng - Pa - Sợt [156] đã luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong đổi
mới, đánh giá thực trạng và chỉ ra những nguyên nhân, rút ra một số kinh
nghiệm đổi mới công tác kiểm tra; đề xuất 5 giải pháp đổi mới công tác kiểm
tra ở tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quân đội gồm: Nâng cao nhận thức,
trách nhiệm, phẩm chất, năng lực của cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ,
đảng viên đối với việc đổi mới công tác kiểm tra ở tổ chức cơ sở đảng; đổi
mới, hoàn thiện các quy định, tạo cơ sở pháp lý để tiến hành công tác kiểm tra
ở tổ chức cơ sở đảng; đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của đảng ủy,
ủy ban kiểm tra ở tổ chức cơ sở đảng; đổi mới nội dung, hình thức, phương
pháp tiến hành cơng tác kiểm tra ở tổ chức cơ sở đảng; phát huy vai trò, trách
nhiệm của cấp trên và các tổ chức, các lực lượng trong công tác kiểm tra ở tổ
chức cơ sở đảng trong Quân đội nhân dân Lào.
Trong bài “Đảng nhân dân cách mạng Lào đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
kiểm tra” của Đao - Bua - La – Pha Ba – Vông – phết” [49] đã chỉ ra tiêu
chuẩn của cán bộ kiểm tra là: có đại đức tốt, trung thực. Nắm vững luật
pháp; kiên quyết bảo vệ, gương mẫu thực hiện nghiêm luật pháp. Có trình độ
kiến thức và năng lực; ý thức tổ chức kỷ luật cao. Có tinh thần phục vụ đất
nước, bảo vệ quyền là lợi ích chính đáng của cơng dân. Liêm khiết, không


14
khoan nhượng, kiên quyết phịng, chống mọi hình thức lợi dụng, tham ơ,

nhận hối lộ, cửa quyền. Có quan điểm khách quan, đánh giá vấn đề sâu sắc,
tồn diện, khơng định kiến. Phân tích, xử lý các thơng tin, số liệu một cách
đúng đắn. Đối với cán bộ dưới 50 tuổi phải tốt nghiệp phổ thông trung học
và biết ngoại ngữ cần thiết cho cơng việc mình phụ trách.
2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
* Nhóm các cơng trình bàn về cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
của Đảng
Tác giả Nguyễn Thị Doan với bài “Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật
nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới”
[54] đã làm rõ những đặc điểm của công tác kiểm tra của Đảng: Đối tượng
kiểm tra khi được kiểm tra vừa là đối tượng vừa là chủ thể kiểm tra. Là đối
tượng, đảng viên hoặc tổ chức đảng được kiểm tra phải chấp hành nghiêm
túc mọi yêu cầu, nội dung, quy trình, quy chế kiểm tra; là chủ thể kiểm tra,
thì người đảng viên hoặc tổ chức đảng được kiểm tra không thụ động đứng
ngoài cuộc mà phải chủ động, tự giác tham gia thực hiện đầy đủ quyền và
trách nhiệm trong kiểm tra. Công tác kiểm tra được tiến hành trong hệ
thống tổ chức đảng, theo đúng những nguyên tắc của Đảng, quy định Điều
lệ Đảng; mọi hoạt động kiểm tra và xử lý kỷ luật trong Đảng phải tiến hành
công khai, dân chủ, tập thể và có lãnh đạo, chỉ đạo. Hiệu quả công tác đảng
trong hoạt động kiểm tra được thể hiện rõ ở tính giáo dục, khơng chỉ đối
với cán bộ, đảng viên đang là cán bộ, đảng viên là đối tượng kiểm tra mà
cịn có tác dụng cho cả tập thể, cả tổ chức đảng.
Bài viết “Nâng cao chất lượng kiểm tra, giám sát trong Đảng trong cuốn
sách Một số vấn đề về xây dựng Đảng trong văn kiện Đại hội X” của tác giả
Nguyễn Đức Tài [119] đã làm rõ phải nâng cao tính chiến đấu trong cơng tác
KT, GS. Trong kiểm tra phải đề cao tự phê bình và phê bình, nhăm làm rõ
mạnh, yếu của đối tượng kiểm tra. Phải nâng cao tính chính xác của các kết
luận kiểm tra. Kiểm tra phải thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình thủ tục,



15
không thực hiện tùy tiện theo ý muốn của cá nhân. Cán bộ kiểm tra phải công
tâm, khách quan, không thiên vị, khơng định kiến, khơng được cảm tình riêng,
khơng được nghe thông tin một chiều; phải tôn trọng thực tế chứng cứ, chứ
không được suy diễn chủ quan, áp đặc theo ý kiến cá nhân. Cấp ủy các cấp phải
tích cực, chủ động và đích thân trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các cuộc kiểm tra
của mình theo kế hoạch chứ không đợi vi phạm rồi mới kiểm tra. Đặc biệt tập
trung đi sâu kiểm tra những vấn đề nổi cộm, bức xúc, những lĩnh vực dễ phát
sinh vi phạm và có cơ chế phát huy dân chủ, bảo đảm cho mọi cán bộ, đảng
viên đều có quyền và trách nhiệm tham gia công tác KT, GS một cách chủ
động và có hiệu quả.
Tác giả Đặng Đình Phú với bài “Một số vấn đề về công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật của Đảng hiện nay” trong cuốn sách “Đảng Cộng sản
Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển” [101] đưa ra quan niệm “Công tác
kiểm tra của Đảng là hoạt động của Đảng, được tiến hành đối với tổ chức
đảng và đảng viên, nhằm nắm vững tình hình; nhận xét, đánh giá việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, các quy
định, quyết định của Đảng; xác định sự đúng đắn hay vi phạm của các hành vi
có liên quan đến kỷ cương, kỷ luật của Đảng”. Nội dung chủ yếu của công tác
kiểm tra là kiểm tra “việc” và kiểm tra “người”. Kiểm tra “việc” có nghĩa là
kiểm tra ngay đường lối, nghị quyết, chỉ thị, chính sách, quyết định đã đề ra
và khẳng định cái đúng, cái sai để từ đó có biện pháp xử lý phù hợp. Kiểm tra
“người” có nghĩa là kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp và đảng
viên là đảng viên là cán bộ do cấp ủy quản lý thực hiện đúng tiêu chuẩn đảng
viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và nhiệm vụ đảng viên. Kiểm tra “việc” và kiểm
tra “người” của Đảng là hai nội dung chủ yếu, có quan hệ mật thiết với nhau
nhằm mục tiêu là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng


16

Đảng; nếu đi chệch vấn đề có tính ngun tắc này, công tác kiểm tra sẽ mất
phương hướng, chệch mục tiêu và không đem lại kết quả.
Trong bài viết “Chủ động nắm tình hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm
trong công tác kiểm tra”[27] tác giả Nguyễn Ngọc Đán đã phân tích những
hạn chế như chưa chủ động phát hiện dấu hiệu vi phạm để tiến hành kiểm tra
và đề xuất một số biện pháp để cán bộ kiểm tra ln chủ động trong cơng tác
này. Đó là, UBKT phải quy định cụ thể trách nhiệm của kiểm tra viên theo
dõi địa bàn trong lĩnh vực, địa bàn mình phụ trách; cán bộ kiểm tra phải rèn
luyện kỹ năng nắm bắt thơng tin, chủ động tìm hiểu, nắm rõ tình hình trước
khi đề xuất ủy ban kiểm tra tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Cán
bộ kiểm tra phải xây dựng kỹ năng phân tích, xử lý thơng tin thu thập được
để khẳng định chính xác dấu hiệu vi phạm; rèn luyện kỹ năng giao tiếp, gợi
mở, nêu vấn đề, tác phong, phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát
cơ sở, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của đảng viên và nhân dân, có
trách nhiệm, uy tín đối với nhân dân.
Bài viết “Đổi mới phương thức kiểm tra, giám sát của Đảng giai đoạn
hiện nay” của tác giả Cao Văn Thống [130] chỉ ra 7 tiêu chuẩn cơ bản của
người cán bộ kiểm tra; một là phải có năng lực thực tiễn. Năng lực thực tiễn
của cán bộ kiểm tra thể hiện ở khả năng nhận biết, nắm bắt kịp thời, xử lý tình
huống thực tiễn trên cơ sở tuân thủ đúng nguyên tắc, phương pháp công tác
đảng, công tác KT, GS của Đảng, phù hợp với tình hình thực tế. Hai là, phải
có trình độ chun mơn sâu, kỹ năng nghiệp vụ thuần thục. Đó là, nắm vững
Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận
hướng dẫn, quy trình về cơng tác KT, GS của Đảng. Ba là, có bản lĩnh, dũng
khí và chính kiến rõ ràng. Đó là khơng giao động, có tinh thần đấu tranh kiên
quyết với những sai trái của đối tượng KT, GS, chính kiến rõ đúng, sai khơng
bị các thế lực nào thao túng. Bốn là, có tính nhân bản, nhân văn sâu sắc, ứng
xử có văn hóa. Năm là, có đức hy sinh. Sáu là, có tầm nhìn chiến lược. Bảy là,



17
phải đạt chuẩn về tiêu chuẩn hóa cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiếp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Trong bài “Công tác kiểm tra của Đảng là công tác Đảng”[25] của tác
giả Đỗ Hùng Cường đã phân tích và khảng định đặc trưng của công tác kiểm
tra là luôn coi đảng viên hoặc tổ chức đảng được kiểm tra vừa là đối tượng vừa
là chủ thể kiểm tra. Là đối tượng kiểm tra, đảng viên hoặc tổ chức đảng được
kiểm tra phải chấp hành nghiêm túc mọi yêu cầu nội dung cũng như quy trình
của hoạt động kiểm tra. Là chủ thể kiểm tra thì đảng viên hoặc tổ chức đảng
được kiểm tra khơng thể bị động, đứng ngồi cuộc mà phải có trách nhiệm đầy
đủ với yêu cầu và kết quả kiểm tra. Tính đặc trưng này địi hỏi đội ngũ cán bộ
kiểm tra, ủy viên ủy ban kiểm tra phải nỗ lực học tập tinh thông nghiệp vụ, bồi
dưỡng tư duy logic, biện chứng, xem xét vấn đề đảm bảo tính lịch sử, tồn
diện, cụ thể và phải có đủ khả năng để thuyết phục các đối tượng kiểm tra.
Bài viết của tác giả Trần Quốc Vượng “Nhiệm vụ trọng tâm của công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng”
[155] chỉ ra: Công tác KT, GS, kỷ luật đảng cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức trong Đảng và toàn xã hội về vị trí,
vai trị, tầm quan trọng của cơng tác KT, GS, kỷ luật đảng; tăng cường KT, GS
của các cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp và chi bộ. Tiếp tục hoàn thiện các
quy định của Đảng về cơ chế, phương pháp, quy trình KT, GS, thi hành kỷ luật
và giải quyết khiếu nại trong Đảng; hoàn thiện quy chế phối hợp thực hiện
nhiệm vụ KT, GS, thi hành kỷ luật Đảng giữa UBKT với các tổ chức đảng và
cơ quan liên quan; kiện toàn UBKT, tổ chức bộ máy và cán bộ cơ quan UBKT
ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Đổi mới và nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra các cấp.
Tác giả Mai Thế Dương với bài “Đổi mới cơng tác kiểm tra, giám sát góp
phần nâng cao phương thức lãnh đạo của Đảng” [60] chỉ ra: Cần đổi mới
phương thức của cấp ủy từ khâu xây dựng, ban hành đến việc lãnh đạo tổ chức



18
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác KT, GS và thực hiện tốt
dân chủ trong nội bộ Đảng nhằm bảo đảm quyền KT, GS của tập thể đối với cá
nhân và tổ chức. Lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ có chất
lượng, cải thiện điều kiện, phương tiện làm việc cho UBKT. Trong q trình tiến
hành KT, GS có thể sử dụng linh hoạt các phương pháp với từng đối tượng cụ
thể. Đổi mới và hoàn thiện phong cách KT, GS, tập trung vào xây dựng phong
cách của người lãnh đạo và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị, đặc biệt là giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng, đảng viên.
Bài viết “Tầm quan trọng của phương pháp thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra” của Tác giả Phạm Thị Ngạn [97] khẳng định: Thẩm tra,
xác minh quyết định chất lượng, hiệu quả của cơng tác kiểm tra, kỷ luật Đảng
nói chung. Do đó, phương pháp thẩm tra, xác minh trong cơng tác kiểm tra
của Đảng phải bảo đảm tính đúng đắn, tính khoa học và linh hoạt, sáng tạo.
Tính đúng đắn là yêu cầu quan trọng nhất; tính khoa học thể hiện ở việc xây
dựng và thực hiện trình tự tiến hành hợp lý với những biện pháp tác động phù
hợp với đối tượng tác động. Tính linh hoạt, sáng tạo giúp cán bộ kiểm tra xử
lý tình huống. Khả năng vận dụng phương pháp thẩm tra, xác minh của cán
bộ tra phải thể hiện ở phương pháp tiếp cận nguồn thông tin, phương pháp
khai thác thông tin và phương pháp xử lý thông tin. Phương pháp xử lý thông
tin là xác định độ tin cậy, đánh giá tính khách quan, hợp pháp, hợp lý và tính
đầy đủ, tồn diện của thông tin nhằm tránh oan sai hoặc bỏ lọt vi phạm. Nó
cịn bao gồm hai việc chính là phân tích, đánh giá thông tin và đối chiếu, so
sánh, liên kết các thông tin một cách khách quan, trung thực.
Bài viết “Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra đối với tổ chức đảng
và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm” của tác giả Nguyễn Văn Quyết [114]
đã đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra đối với tổ
chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là: Nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của cấp ủy đảng, UBKT, cán bộ, đảng viên; tăng cường trách nhiệm,



19
nâng cao hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với tổ chức và
hoạt động của UBKT các cấp; xây dựng, hoàn thiện, thực hiện tốt quy chế,
quy trình, đổi mới nội dung, phương pháp kiểm tra trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; tăng cường phối,
kết hợp chặt chẽ giữa UBKT với các tổ chức, các cấp, các ngành trong quá
trình kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
Trong bài “Tăng cường kiểm tra, giám sát đấu tranh, ngăn chặn, đẩy
lùi suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên” của
tác giả Cao Văn Thống và Trần Duy Hưng [131] chỉ ra công tác KT, GS của
Đảng không chỉ là nội dung thuộc chức năng lãnh đạo của Đảng mà còn là cơng
cụ đắc lực góp phần quan trọng, có hiệu quả nhất vào cuộc đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở
nước ta hiện nay. Để tăng cường kiểm tra, giám sát đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên hiện nay, cần
tập trung vào: tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp ủy, tổ
chức đảng, UBKT, trước hết là người đứng đầu cấp ủy về công tác KT, GS, kỷ
luật của Đảng; xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước phục vụ đổi mới phương thức KT, GS và kỷ luật của Đảng; đổi mới, tăng
cường công tác KT, GS của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp và chi bộ đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả; đổi mới và hồn thiện quy trình, phương pháp KT, GS, kỷ
luật của Đảng theo hướng cải cách thủ tục hành chính trong Đảng và kiện tồn tổ
chức bộ máy cơ quan UBKT và tăng cường cán bộ kiểm tra các cấp bảo đảm
tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
* Nhóm các cơng trình bàn về cơng tác kiểm tra, giám sát trong Đảng
bộ Quân đội
Khi nghiên cứu về “Công tác kiểm tra của đảng uỷ các hệ đào tạo cán
bộ chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Lục quân giai

đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Nguyện [100] đã phân tích làm rõ những


20
vấn đề có tính ngun tắc của cơng tác kiểm tra. Chỉ ra những căn cứ đánh giá
công tác kiểm tra của đảng ủy các hệ đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu cấp
chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Lục quân: Nhận thức, trách nhiệm, năng lực
của cấp ủy đảng, UBKT, đội ngũ cán bộ, đảng viên về công tác kiểm tra; quán
triệt và thực hiện tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, nền nếp, chế độ kiểm tra của đảng
ủy; vận dụng nội dung, hình thức, phương pháp, quy trình tiến hành kiểm tra của
đảng ủy; sự chuyển biến tiến bộ của đối tượng kiểm tra và kết quả thực hiện các
nhiệm vụ sau kiểm tra. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế trong hoạt
động của kiểm tra đảng uỷ các hệ, tác giả đã rút ra năm kinh nghiệm và đề xuất
năm giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của đảng uỷ các hệ đào tạo
cán bộ chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Lục quân.
- “Nâng cao năng lực công tác kiểm tra, giám sát của chi uỷ các chi bộ đại
đội quản lý học viên ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 hiện nay”, của Nguyễn Văn
Doanh [55] đã làm rõ đặc thù của các chi uỷ, chi bộ đại đội quản lý học viên ở
Trường Sĩ quan Lục quân 2; xác định đối tượng, nội dung, hình thức, phương
pháp, cách tiến hành; mối quan hệ giữa kiểm tra và giám sát, vai trị cơng tác KT,
GS ở chi bộ đại đội quản lý học viên; những yếu tố cấu thành năng lực và biểu
hiện năng lực trong công tác KT, GS của chi uỷ, từ đó đưa ra quan niệm về năng
lực KT, GS của chi uỷ các chi bộ đại đội quản lý học viên ở Trường Sĩ quan Lục
quân 2. Từ phân tích những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, kinh nghiệm
nâng cao năng lực công tác KT, GS của các chi uỷ chi bộ đại đội quản lý học
viên ở Trường Sĩ quan Lục quân 2, tác giả đề ra bốn giải pháp cơ bản, trong đó
đi sâu phân tích giải pháp: tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của các
cấp uỷ, tổ chức đảng, các lực lượng về nâng cao năng lực KT, GS của chi uỷ các
chi bộ đại đội quản lý học viên được coi là biện pháp rất quan trọng làm cho
năng lực tiến hành công tác KT, GS của các chi uỷ đại độị.



21
Bài viết “Đảng bộ Trường Sĩ quan Chính trị: Cơng tác kiểm tra, giám sát
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, xây dựng Đảng bộ trong sạch,
vững mạnh” của tác giả Phạm Hồng Thắng [126] đã đánh giá thực trạng của công
tác KT, GS ở Đảng bộ Trường Sĩ quan Chính trị và rút ra những nguyên nhân của
những mặt hạn chế là: Một số cấp ủy, nhất là cấp cơ sở và chi bộ chưa quan tâm
đúng mức, chưa đầu tư thời gian cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực
hiện nhiệm vụ KT, GS; chưa thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
sinh hoạt đảng, chưa nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình; vai trò
của UBKT chưa được đề cao; phần lớn ủy viên UBKT các đảng bộ cơ sở kiêm
nhiệm nên thời gian dành cho cơng tác KT, GS cịn ít; trình độ kiến thức nghiệp
vụ, kinh nghiệm cán bộ làm công tác kiểm tra còn hạn chế. Tác giả đề xuất các giải
pháp khắc phục những hạn chế, khuyết điểm: Tiếp tục chỉ đạo quán triệt nắm vững
và thực hiện đầy đủ, đúng các quy định của Điều lệ Đảng về công tác KT, GS; tập
trung KT, GS việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cuộc vận
động ”hai khơng”; nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ kiểm
tra các cấp đủ khả năng đảm nhiệm nhiệm vụ.
“Bồi dưỡng năng lực công tác kiểm tra, giám sát của đội ngũ bí thư chi
bộ đại đội ở các đảng bộ lữ đoàn tăng thiết giáp giai đoạn hiện nay” của tác giả
Hoàng Ngọc Sơn [118] đề xuất 4 giải pháp bồi dưỡng năng lực cơng tác kiểm
tra, giám sát của đội ngũ bí thư chi bộ đại đội ở các đảng bộ lữ đoàn tăng thiết
giáp là: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng cán bộ
chủ trì, cơ quan chính trị, UBKT các cấp; Xác định đúng nội dung, xây dựng và
thực hiện tốt chương trình, kế hoạch, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức,
phương pháp bồi dưỡng; Phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của đội ngũ bí
thư chi bộ đại đội trong bồi dưỡng; Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức,
lực lượng trong bồi dưỡng năng lực công tác KT, GS của đội ngũ bí thư chi bộ
đại đội ở các đảng bộ lữ đoàn tăng thiết giáp.



22
Đề tài “Bồi dưỡng năng lực công tác kiểm tra, giám sát cho đội ngũ bí
thư ở các tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Học viện Phịng khơng - không
quân hiện nay” của tác giả Cao Văn Thiện [128] đã xác định những vấn đề
có tính ngun tắc trong bồi dưỡng năng lực công tác KT, GS cho đội ngũ bí
thư ở tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Học viện Phịng khơng - khơng qn
là: Phải luôn quán triệt và thực hiện đúng đường lối, quan điểm của Đảng,
nhiệm vụ của quân đội, đơn vị; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, cán
bộ chủ trì, cơ quan chính trị, UBKTVcác cấp và phát huy sức mạnh tổng hợp
của các tổ chức, lực lượng tham gia; phù hợp với chức trách, nhiệm vụ và
đặc điểm của từng loại hình bí thư đảng ủy, chi ủy, chi bộ cơ sở; kết hợp bồi
dưỡng của cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị, UBKT cấp trên với tự
bồi dưỡng của từng bí thư.
Tác giả Ngô Xuân Lịch với bài “Công tác kiểm tra, giám sát góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cuả Đảng bộ Quân đội” [79] đã đề
cập một số vấn đề quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả công tác KT, GS
của cấp uỷ các cấp hiện nay. Tác giả khái quát những đóng góp quan trọng của
cấp uỷ và KT, GS các cấp trong công tác xây dựng Đảng. Để nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác KT, GS, tác giả khẳng định: tiếp tục làm tốt công tác
tuyên truyền, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cấp
ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên; KT, GS các cấp, đội ngũ cán bộ,
đảng viên, nhất là người đứng đầu của cấp ủy trong việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện nhiệm vụ KT, GS. Thường xuyên kiện toàn cán bộ kiểm tra các
cấp đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng. Đội ngũ cán bộ kiểm tra phait hường
xuyên được bồi dưỡng kiến thức KT, GS, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, năng lực công tác, đổi mới phương thức hoạt động, thực hiện chất
lượng, hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Bài viết “Những yêu cầu cơ bản về phẩm chất, năng lực, phương

pháp, tác phong công tác của ủy viên ủy ban kiểm tra ở các tổ chức cơ sở


23
đảng trong Quân đội hiện nay” của tác giả Vũ Văn Chức [19] đã chỉ ra
những yêu cầu cơ bản về phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công
tác của ủy viên UBKT ở các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội hiện nay là:
Tuyệt đối trung thành với mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng, nắm
vững và chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, pháp
luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của quân đội. Có tinh
thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao; luôn n tâm cơng tác, u
ngành, u nghề, có ý chí phấn đấu, biết tập trung trí tuệ, năng lực thực hiện
nhiệm vụ; có tác phong thận trọng, chín chắn, tỷ mỷ, cụ thể, chuẩn xác và
chu đáo, bảo vệ cái đúng và đấu tranh với tiêu cực, sai trái. Có tính trung
thực, khách quan, cơng tâm, lối sống trong sạch, lành mạnh, khơng vì lợi ích
cá nhân; có tinh thần đồn kết đúng đắn và tình cảm cách mạng trong sáng.
Có kiến thức tồn diện về xây dựng Đảng, cơng tác chính trị, thành thạo
cơng tác KT, GS.
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu liên quan đến chất lượng, nâng
cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng
Trong cơng trình “Nâng cao chất lượng cơng tác kiểm tra ở các tổ
chức cơ sở đảng Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật thông tin”, của tác giả Lê
Văn Cơ [22] làm rõ vai trị của cơng tác kiểm tra và trách nhiệm của đảng uỷ
cùng kiểm tra, giám sát các cấp đối với công tác kiểm tra; khái quát những
ưu, khuyết điểm và những nguyên nhân của những ưu, khuyết điểm đó. Trong
đó nguyên nhân chủ quan là nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chủ
trì, nguyên nhân khách quan là thuộc về cơ cấu tổ chức như ở các tổ chức cơ
sở đảng một cấp khơng có kiểm tra, giám sát, cán bộ phải kiêm nhiệm nên
thiếu sự chủ động trong công tác. Tác giả đã chỉ ra năm yêu cầu cơ bản đòi
hỏi cần phải quán triệt và thực hiện tốt để nâng cao chất lượng kiểm tra ở các

tổ chức cơ sở đảng. Trong bốn giải pháp cơ bản đã nêu, thì giải pháp: xây
dựng và phát huy vai trò kiểm tra, giám sát và đội ngũ cán bộ làm công tác


24
kiểm tra được tác giả đi sâu và làm rõ yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ cán bộ
làm cơng tác kiểm tra. Đó là: Cán bộ kiểm tra phải am hiểu về công tác xây
dựng Đảng, thành thạo cơng tác kiểm tra; có kiến thức nhất định về chính trị,
kinh tế, xã hội; phải ln đi sâu, sát thực tiễn; có phương pháp cơng tác khoa
học, có hiểu biết nhất định về tâm lý con người; thường xuyên học tập, cầu
tiến bộ và đúc rút kinh nghiệm để không ngừng nâng cao năng lực công tác.
Nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của
các đảng uỷ trung, lữ đoàn thuộc Quân khu 4”, tác giả Ngô Xuân Cầm [17] đã
luận giải 4 tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác KT, GS của các đảng uỷ
trung, lữ đoàn thuộc Quân khu 4: Cấp uỷ, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng
viên có nhận thức đúng, trách nhiệm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện nhiệm vụ KT, GS; quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc,
nền nếp, chế độ KT, GS; kết quả thực hiện nội dung, hình thức, biện pháp cơng
tác KT, GS của các đảng uỷ trung, lữ đoàn; sự chuyển biến, tiến bộ về năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ đảng viên
và kết quả hồn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Trong cơng trình “Nâng cao hiệu quả cơng tác kiểm tra đảng viên và
tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm của uỷ ban kiểm tra đảng uỷ
các trung, lữ đoàn đủ quân ở Quân khu 1 giai đoạn hiện nay”, của Bùi Thế
Đăng [46] đã khẳng định tính cấp thiết của cơng tác kiểm tra trong Đảng bộ
Quân đội và luận giải khá sâu sắc về tổ chức và hoạt động của ủy ban kiểm tra
đảng uỷ các trung, lữ đoàn đủ quân ở Quân khu 1; làm rõ hiện tượng có dấu
hiệu vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng. Tác giả đã thành cơng trong xây
dựng quan niệm và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác kiểm tra đảng viên, tổ
chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm. Trên cơ sở khái qt u cầu

nâng cao tính giáo dục, phịng ngừa trong tiến hành công tác kiểm tra đảng
viên, tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm, tác giả đề xuất năm giải pháp đồng


25
bộ nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng có dấu
hiệu vi phạm kỷ luật ở các trung, lữ đoàn đủ quân ở Quân khu 1.
Nghiên cứu về “Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban
kiểm tra các cấp ở Đảng bộ Học viện Hậu cần hiện nay”, tác giả Nguyễn Văn
Bắc [11] đã đưa ra quan niệm về chất lượng công tác KT, GS của UBKT các
cấp ở Đảng bộ Học viện Hậu cần và làm rõ 5 yếu tố quy định chất lượng
công tác KT, GS: Một là, sự lãnh đạo của đảng uỷ, sự chỉ đạo, hướng dẫn
của UBKT cấp trên đối với công tác KT, GS của UBKT cấp dưới. Hai là,
phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong cơng tác của ủy viên UBKT.
Ba là, tính chủ động, tích cực, sáng tạo và năng lực tham mưu chính xác, kịp
thời của UBKT các cấp. Bốn là, kết quả thực hiện nội dung, hình thức,
phương pháp, chế độ, nền nếp và quy trình cơng tác kiểm tra, giám sát. Năm
là, công tác KT, GS của UBKT các cấp phải phát huy vai trò các tổ chức
quần chúng (đồn thanh niên, cơng đồn, phụ nữ), hội đồng qn nhân; kết
hợp chặt chẽ với thanh tra quốc phòng, với KT, GS của các cơ quan có liên
quan, với cấp ủy, chính quyền, đồn thể nhân dân địa phương.
Trong bài “Hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của đảng ủy cơ sở trong
Đảng bộ Quân đội” của Tác giả Sinh Huy [74] đã chỉ ra những ưu, khuyết điểm
trong công tác KT, GS của đảng ủy cơ sở, trong đó, có nhận thức, trách nhiệm
của cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên về hoạt động này. Để
nâng cao hiệu quả công tác KT, GS của đảng ủy cơ sở trong Đảng bộ Quân đội
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán
bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu của đảng ủy cơ sở về công tác KT,
GS; nâng cao tính khoa học trong cơng tác KT, GS của đảng bộ cơ sở; công tác

KT, GS phải gắn với nhiệm vụ chính trị của đơn vị, yêu cầu xây dựng đảng bộ
cơ sở; xây dựng UBKT đảng ủy cơ sở vững mạnh; phát huy vai trò của các tổ
chức, lực lượng trong đơn vị để tiến hành công tác KT, GS.


26
Bài viết “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát ở
đảng bộ cơ sở trong quân đội” của tác giả Phùng Văn Mười [89] đã chỉ ra một
trong những biện pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS ở
đảng bộ cơ sở trong quân đội hiện nay là: Phát huy tinh thần trách nhiệm xây
dựng Đảng của quần chúng trong thực hiện nhiệm vụ KT, GS. Quần chúng
tham gia công tác KT, GS phải được cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo
chặt chẽ, hướng dẫn cụ thể, tổ chức thực hiện đúng ngun tắc, tránh giản đơn
hình thức, khơng áp đạt mệnh lệnh. Cùng với việc tuyên truyền, nâng cao nhận
thức cho quần chúng cần công khai nội dung, đối tượng, kế hoạch KT, GS cho
quần chúng, tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng được đối thoại, chất vấn,
đóng góp ý kiến với tổ chức đảng, đảng viên, tạo sự nhất trí cao trong thực hiện
nhiệm vụ KT, GS; không thành kiến với những ý kiến chỉ ra thiếu sót, khuyến
điểm của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.
Tác giả Bùi Quang Cường với bài“Một số giải pháp nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát ở đảng bộ cơ sở trong quân đội
hiện nay” [22] đã luận giải khái quát vị trí, tầm quan trọng của công tác KT,
GS ở đảng bộ cơ sở trong quân đội. Trên cơ sở khái quát những ưu điểm và
khuyết điểm, hạn chế của KT, GS ở các đảng bộ cơ sở trong quân đội hiện
nay, tác giả đưa ra năm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng,
hiệu quả hoạt động này là: Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là của cấp ủy, bí thư cấp ủy
và ủy ban kiểm tra về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; quán triệt và
thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo, phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra,
giám sát; bám sát nhiệm vụ chính trị của đơn vị và cơng tác xây dựng Đảng

để tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; tăng cường công tác KT, GS và thi
hành kỷ luật đảng ở chi bộ.
Trong bài “Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, góp
phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) trong Đảng bộ


×