Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Đề án Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.22 KB, 40 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC IV

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Tên đề tài : Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp thuộc đảng bộ
huyện Cờ Đỏ giai đoạn 2015 - 2020

Họ tên học viên: NGUYỄN PHƯỚC NGUYÊN
Lớp: Cao cấp Lý luận chính trị hệ tập trung A37-CT


Cần Thơ, tháng 8 năm 2015
MỤC LỤC

Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề án

1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề án

2

3. Ý nghĩa lựa chọn đề án



3

4. Phạm vi nghiên cứu đề án

3

5. Phương pháp nghiên cứu đề án

4

B. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, cơ sở pháp lý

5
5

1.1 Cơ sở lý luận

5

1.2 Cơ sở thựa tiễn

11

1.3 Cơ sở pháp lý

11

2. Nội dung


16

2.1 Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra
huyện ủy Cờ Đỏ trong nhiệm kỳ (2010 - 2015)

16

2.2 Phương hướng, nhiệm vụ

28

2.3 Giải pháp chủ yếu để thực hiện

30

3. Tổ chức thực hiện đề án

33

4. Điều kiện bảo đảm thực hiện đề án

33

C. PHẦN KẾT LUẬN

35

- Kiến nghị


37

- Danh mục tài liệu tham khảo

38



-1PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ ÁN
Công tác kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của
Đảng, có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hệ thống lãnh đạo của Đảng,
đảm bảo cho Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng lãnh
đạo thông qua Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, hệ thống tổ chức và đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Tổ chức của Đảng ở các cấp, các ngành không
những có trách nhiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện mà còn
có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm cho nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quy chế, kết luận của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, thắng
lợi trong thực tiễn. Vì nếu như tổ chức thực hiện thiếu chặt chẽ, nhất là không
kiểm tra, giám sát hoặc kiểm tra, giám sát không đến nơi, đến chốn thì kết quả
thực hiện sẽ bị hạn chế, thậm chí phạm sai lầm.
Ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
ta luôn coi trọng và tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra, coi đó là một
nguyên tắc, một khâu quan trọng trong quá trình lãnh đạo và quá trình xây dựng
Đảng. Kiểm tra nhằm đảm bảo đường lối chính sách của Đảng được xác định
đúng, được quán triệt và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn, đó là vấn đề có tính
nguyên tắc, vừa là chức năng lãnh đạo vừa là trách nhiệm, nội dung, phương
pháp, quy trình lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn thời gian qua nhiều tổ chức đảng chưa nhận thức được đầy đủ,

đúng đắn, chưa coi trọng và quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém
trong thực hiện nghị quyết Đại hội X của Đảng là: Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng
chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và
hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực
hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra,
giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát huy những nhân tố tích cực. Nhiều khuyết
điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng
thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến


-2trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng
không nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt.
Đặc biệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã nhìn nhận:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị
trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa
vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn
cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...
Đối với Đảng bộ huyện Cờ Đỏ trong những năm qua, công tác kiểm tra,
giám sát mặc dù luôn được cấp uỷ, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp quan
tâm và tiến hành thường xuyên, song kết quả đạt được vẫn còn ở mức độ nhất
định. Nguyên nhân của kết quả đó có nhiều nhưng đáng chú ý là vẫn còn một số
cấp uỷ, tổ chức đảng nhất là cơ sở chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vị trí, vai trò
và tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát; ủy ban kiểm tra ở một số nơi
chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo chưa tích cực tham mưu cho cấp uỷ thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thực hiện chưa toàn diện nhiệm vụ do Điều
lệ Đảng quy định. Chất lượng những cuộc kiểm tra, giám sát còn nhiều hạn chế
so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Chính vì những lý do cơ bản nêu trên, để nhằm thực hiện có hiệu quả hơn
nữa về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, tiếp tục góp phần thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết TW 4 (khóa XI) và Nghị quyết
Đại hội đảng bộ huyện Cờ Đỏ lần thứ XI. Vì vậy, mà tôi quyết định chọn nội
dung đề tài “Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban
kiểm tra các cấp thuộc đảng bộ huyện Cờ Đỏ giai đoạn 2015 - 2020” để làm
đề án tốt nghiệp cuối khóa cho mình.
2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐẾ ÁN
Là một đảng viên, cấp ủy viên của đảng bộ huyện, ủy viên ủy ban kiểm
tra huyện ủy nên trong đề án này, trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện công tác
kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra huyện ủy Cờ Đỏ trong nhiệm kỳ qua
(2010 – 2015), từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị chủ yếu nhằm góp phần
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra huyện Cờ


-3Đỏ hiện tại và những năm tiếp theo, đồng thời cùng góp phần xây dựng tổ chức
cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên thuộc đảng bộ huyện Cờ Đỏ ngày càng thật sự
trong sạch vững mạnh, đủ khả năng lãnh đạo, chỉ đạo huyện Cờ Đỏ tiếp tục phát
triển toàn diện, đáp ứng tốt mọi yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
3. Ý NGHĨA LỰA CHỌN ĐỀ ÁN
Hiện nay nước ta đang hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý điều hành và tổ chức thực hiện. Mặc dù đến nay đã đạt được nhiều kết
quả tích cực trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kinh tế tiếp tục phát triển,
quốc phòng an ninh luôn ổn định, công tác xây dựng hệ thống chính trị ngày
càng đạt chất lượng, đời sống người dân ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên
trong thực tế thời gian qua vẫn còn nhiều trường hợp tổ chức Đảng, cán bộ đảng
viên các cấp chấp hành chưa nghiêm quy định, vi phạm Điều lệ, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước, nhất là tình trạng tham nhũng,
lãng phí… có chiều hướng gia tăng, đã gây ra nhiều dư luận bức xúc trong xã
hội. Nên công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cần phải được nâng cao hơn nữa

về chất lượng và hiệu quả hoạt động, để góp phần quan trọng cho việc xây dựng
tổ chức đảng, cán bộ đảng viên của Đảng nói chung và của huyện Cờ Đỏ nói
riêng ngày càng được trong sạch vững mạnh, đáp ứng được lòng tin của nhân
dân từ đó mà tôi chọn nội dung đề án này.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ ÁN
Đối tượng nghiên cứu của đề án này chính là việc ủy ban kiểm tra các cấp
thuộc đảng bộ huyện Cờ Đỏ tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám
sát theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá những mặt tích cực đã làm được, những hạn chế còn tồn tại, xác
định rõ nguyên nhân, từ đó bản thân đề xuất, kiến nghị những giải pháp thực
hiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng hơn nữa đối với công tác kiểm tra,
giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp thuộc đảng bộ huyện Cờ Đỏ để đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay.
Không gian nghiên cứu của đề án này là toàn bộ địa bàn huyện Cờ Đỏ,
thành phố Cần Thơ.
Thời gian nghiên cứu đề án là mốc thời gian hoạt động của ủy ban kiểm
tra các cấp thuộc đảng bộ huyện Cờ Đỏ qua một nhiệm kỳ (2010 – 2015).


-45. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ ÁN
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời trên cơ
sở quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí,
vai trò và tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Ngoài ra để xây dựng hoàn chỉnh đề án còn thực hiện phương pháp thống
kê, khảo sát phân tích tổng hợp, ghi chép số liệu lịch sử.


-5PHẦN NỘI DUNG

1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN, CƠ SỞ PHÁP LÝ :

1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1.1 Khái niệm về công tác kiểm tra, giám sát :
1.1.1.1 Công tác kiểm tra
Kiểm tra của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là
việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc
vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
- Chủ thể kiểm tra bao gồm chi bộ, đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở; cấp
ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra; các ban
đảng, văn phòng cấp ủy, cơ quan ủy ban kiểm tra (gọi chung là các cơ quan
tham mưu, giúp việc của cấp ủy); ban cán sự đảng, đảng đoàn.
- Đối tượng kiểm tra bao gồm chi bộ, đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở; cấp
ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban
kiểm tra; các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng
đoàn, đảng viên.
- Nguyên tắc kiểm tra là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy, tổ
chức đảng theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn về công
tác kiểm tra của Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự kiểm
tra, tổ chức đảng cấp trên kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Đảng
viên được tham gia kiểm tra theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền.
Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra của Đảng. Việc kiểm tra phải
công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng, chặt chẽ, kịp thời, đúng phương
pháp công tác đảng và quy định của Điều lệ Đảng.
1.1.1.2 Công tác giám sát


-6Công tác giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động nhằm kịp thời tác động để cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ

Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng.
- Chủ thể giám sát bao gồm chi bộ, đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở; cấp
ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra; các ban
đảng, văn phòng cấp ủy, cơ quan ủy ban kiểm tra (gọi chung là các cơ quan
tham mưu, giúp việc của cấp ủy).
- Đối tượng giam sát bao gồm chi bộ, đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở;
cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy
ban kiểm tra; các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng viên.
- Nguyên tắc giám sát là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, các cấp ủy đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác giám sát theo
quy định của Điều lệ Đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên. Đảng viên thực hiện việc giám sát theo sự phân công của
tổ chức đảng có thẩm quyền. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát của
Đảng. Việc giám sát phải dân chủ, khách quan, đúng nguyên tắc và quy định của
Điều lệ Đảng.
Giám sát và kiểm tra có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.
Kết quả giám sát là căn cứ để kiểm tra, kết quả kiểm tra đánh giá kết quả công
tác giám sát, thực hiện tốt giám sát. Giám sát được thực hiện tốt thường xuyên
có tác dụng phát hiện sớm vi phạm, giúp việc kiểm tra chủ động, kịp thời, có
chất lượng, hiệu quả; đồng thời có tác dụng ngăn ngừa vi phạm, làm giảm số
cuộc và nội dung kiểm tra. Giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm
làm cho công tác kiểm tra, giám sát bảo đảm tính toàn diện, sâu sắc, thống nhất.
1.1.2 Ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát :
- Kiểm tra, giám sát là một tất yếu khách quan, là một biểu hiện nghiêm
túc của hoạt động có ý thức của mọi tổ chức và con người trong xã hội.
Hoạt động của tổ chức và con người trong xã hội là hoạt động có ý thức.
Trước khi hành động, các tổ chức và con người đều phải suy nghĩ, xác định rõ ý
định, chủ trương, kế hoạch tiến hành và tổ chức thực hiện thắng lợi ý định, chủ



-7trương, kế hoạch ấy trong thực tiễn. Song, thực tiễn luôn luôn vận động, biến
đổi, phát triển không ngừng theo quy luật khách quan, nên ý định, chủ trương,
kế hoạch đã xác định dù được nghiên cứu tính toán, cân nhắc kỹ vẫn có thể có
những thiếu sót, sơ hở, thậm chí không có khả năng thực thi hoặc sai lầm
nghiêm trọng. Vì vậy, muốn đạt được kết quả trong thực tiễn, phải xem xét tình
hình thực tế để nhận xét, đánh giá, có nghĩa là phải kiểm tra, giám sát. Do đó,
hoạt động có ý thức là hoạt động có kiểm tra, giám sát; ý thức càng cao, tổ chức
càng quan trọng, con người ở cương vị càng cao và cán bộ chủ chốt các cấp,
nhiệm vụ càng khó khăn, phức tạp, thì càng đòi hỏi phải coi trọng và tiến hành
tốt công tác kiểm tra, giám sát.
- Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, là bộ phận
quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
Kiểm tra, giám sát cần thiết với mọi tổ chức và con người trong xã hội,
đặc biệt là đối với chính đảng của giai cấp vô sản. Sự nghiệp cách mạng lâu dài,
gian khổ, quyết liệt, phức tạp đòi hỏi Đảng phải có đường lối, chính sách đúng,
có năng lực tổ chức thực hiện cao, đòi hỏi phải tiến hành kiểm tra, giám sát
thường xuyên, kịp thời, có hiệu quả. Chính vì vậy, ngay từ khi mới thành lập và
suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng và tiến hành
thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII khẳng định: “ Công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong
toàn bộ hoạt động của Đảng”. Vì lãnh đạo không chỉ là việc xây dựng đường lối,
chính sách, nghị quyết, chỉ thị, việc tổ chức thực hiện và bố trí cán bộ, mà lãnh
đạo còn là kiểm tra, giám sát, không những kiểm tra, giám sát việc thực hiện
đường lối, Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách mà kiểm tra ngay cả bản
thân Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách đó và kiểm tra, giám sát cả các
tổ chức tiến hành kiểm tra nhằm đảm bảo đường lối, chính sách được xác định
đúng, được quán triệt và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Đó là vấn đề có tính
nguyên tắc, vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương
pháp, quy trình lãnh đạo của Đảng.

V.I.Lênin đã chỉ rõ: khi đường lối, chính sách đã được xác định, phương
hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu
và sự lãnh đạo phải “chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh
lệnh sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện”. Người còn nhấn mạnh:


-8“Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc chấp hành thực tế công tác - mấu
chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn ở đấy
và chỉ có ở đấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chính sách đúng là nguồn gốc
của thắng lợi”. “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của
chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi
kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. “Nếu tổ
chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha”. Bao nhiêu tình
hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ.
Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì
thiếu sự kiểm tra”.
Thực tiễn lãnh đạo của Đảng ta từ khi thành lập đến nay đã khẳng định
kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng; lãnh đạo phải có kiểm
tra; “lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo”. Vì vậy, Đảng
ta đã rút ra sáu bài học kinh nghiệm qua 20 năm đổi mới, trong đó có bài học
kinh nghiệm về công tác kiểm tra, giám sát là: “Đảng phải tăng cường và nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Thường xuyên kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu
điểm, pḥòng ngừa và khắc phục kịp thời sai lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát
công tác, năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng,
cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh”.
Qua thực tiễn, Đảng ta đã kết luận: công tác kiểm tra là “một bộ phận
quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng” là “một khâu quan trọng của
tổ chức thực hiện”, là “biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu”.

“Có giám sát tốt mới có thể đánh giá đúng, lựa chọn đúng và đặt biệt là kịp thời
ngăn ngừa sai phạm từ khi mới có những dấu hiệu vi phạm; đó cũng là phương
thức quan trọng để bảo vệ cán bộ, bảo đảm Đảng và Nhà nước có đội ngũ cán
bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, được nhân dân
tin yêu”.
- Kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của toàn Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của xã hội, có vai trò lãnh đạo
chính trị đối với toàn xã hội, đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta


-9đến thắng lợi. Sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành thông qua tổ chức đảng và
đảng viên đang hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi tổ chức
đảng và đảng viên dù công tác ở lĩnh vực, cương vị nào đều phải tham gia xây
dựng, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật Nhà nước...
- Trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh phải coi trọng và
tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Đảng phải “đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo
tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, bổ sung thêm những yêu
cầu, biện pháp mới phù hợp, đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu”, đặc biệt hơn
là thực hiện có hiệu quả nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp
bách trong xây dựng Đảng hiện nay”, đấu tranh kiên quyết với những phần tử cơ
hội, xây dựng hệ thống tổ chức, bộ máy trong sạch vững mạnh... Muốn vậy, bên
cạnh việc phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng;
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên; thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng... phải đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đặc
biệt là kiểm tra, giám sát việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,

nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật Nhà nước; kiểm tra tổ chức đảng và đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm; “tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức bộ máy công tác và kỷ luật của Đảng”.
1.1.3 Nhiệm vụ của công tác kiểm tra, giám sát :
Hoạt động trong điều kiện mới, các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên
hàng ngày, hàng giờ chịu nhiều sức ép, tác động to lớn. Nhiệm vụ của công tác
kiểm tra, giám sát tăng lên gấp bội, trãi khắp các lĩnh vực lãnh đạo của Đảng,
bao gồm những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Cấp ủy các cấp tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng
cao chất lượng nghiên cứu các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng để các tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên nắm vững và tự giác chấp hành; đấu tranh chống
những biểu hiện tiêu cực, suy thái trong các cấp ủy đảng, nhất là chi bộ cần tăng


- 10 cường quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn xảy ra vi phạm hoặc không để tái phạm, góp phần chủ động thực hiện
có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng và
trong cả hệ thống chính trị. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy,
tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội ở các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Tập trung
kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị,
quy định của Đảng về các nội dung, lĩnh vực sau:
+ Lĩnh vực tư tưởng chính trị, quản lý báo chí: kiểm tra, giám sát việc
thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, việc thi hành Điều lệ Đảng, các quy
định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác tư tưởng chính trị nói
chung và hoạt động báo chí nói riêng.
+ Về chấp hành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng: kiểm tra,
giám sát việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách; chấp hành quy chế làm việc, chế độ công tác; thực hiện dân chủ trong

Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; về mối quan hệ giữa tổ chức đảng và đảng viên
với quần chúng; việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên.
+ Lĩnh vực kinh tế - tài chính: kiểm tra, giám sát việc thực hành tiết kiệm,
phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các khâu cấp và sử dụng nguồn vốn
thuộc ngân sách nhà nước, vốn ODA, tài trợ của nước ngoài; trong xây dựng cơ
bản, mua sắm trang thiết bị; quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên, công sản;
triển khai thực hiện các dự án trọng điểm.
+ Lĩnh vực hành chính, tư pháp: kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo
và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính
liên quan đến giải quyết công việc của các tổ chức và cá nhân, đặc biệt là trong
các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Kiểm tra việc thực hiện các chủ
trương, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận.
+ Trong công tác tổ chức và cán bộ: kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng,
quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bố trí, sử dụng, khen thưởng


- 11 và thực hiện chính sách cán bộ; về phẩm chất đạo đức, lối sống và thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên; việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; về nội dung và chất lượng sinh hoạt của các cấp ủy, tổ
chức đảng.
+ Kiểm ra, gám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo của
đảng viên và nhân dân; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng gắn với vai trò trách
nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ
ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X.
- Đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng theo hướng
đồng bộ, nghiêm minh, có hiệu lực, hiệu quả; thực hiện quy chế giám sát trong

Đảng. Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của
nhân dân.
- Củng cố kiện toàn tổ chức, bộ máy, tăng cường cán bộ đủ số lượng, đảm
bảo chất lượng; đảm bảo chế độ, chính sách theo quy định; cải thiện điều kiện,
phương tiện làm việc của ủy ban kiểm tra các cấp.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ ÁN
Cờ Đỏ là huyện mới được thành lập, phát triển kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp trồng lúa nước, cơ sở vật chất, trang thiết bị còn nhiều khó khăn, đội ngũ
cán bộ, đảng viên đa số còn trẻ thiếu kinh nghiệm thực tiễn công tác trong đó
cán bộ làm công tác kiểm tra cấp cơ sở đa số là kiêm nhiệm, trình độ nghiệp vụ
chuyên môn không cao, thường xuyên thay đổi, nhận thức của tổ chức đảng và
đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát chưa thật sự tốt…Có thể nói từ các yếu
tố trên đã tác động không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác kiểm
tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp thuộc đảng bộ huyện Cờ Đỏ trong
nhiệm kỳ qua.
1.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ĐỀ ÁN
1.3.1 Chức năng của ủy ban kiểm tra các cấp
Ủy ban kiểm tra là cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên trách của ban chấp
hành đảng bộ, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Điều lệ


- 12 Đảng, tham mưu giúp ban chấp hành đảng bộ, ban thường vụ cấp ủy chỉ đạo,
hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
trong Đảng.
1.3.2 Nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra các cấp
1.3.2.1 Nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định:
- Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm
tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ
đảng viên.
- Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp

hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các
nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
- Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và
tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp
hành Trung ương.
- Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề
nghị cấp ủy thi hành kỷ luật.
- Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại
về kỷ luật đảng.
- Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy
cùng cấp.
1.3.2.2 Nhiệm vụ do cấp ủy giao:
- Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng
Đảng, tùy tình hình, yêu cầu cụ thể trong từng thời gian, cấp ủy, ban thường vụ
cấp ủy giao nhiệm vụ cho các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy và ủy
ban kiểm tra. Những nhiệm vụ này thường có quan hệ trực tiếp chức năng,
nhiệm vụ của từng ban. Cùng với thực hiện nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định,
ủy ban kiểm tra các cấp còn thực hiện nhiệm vụ do cấp ủy giao.


- 13 - Trong trường hợp nhiệm vụ cấp ủy giao ảnh hưởng đến việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình thì ủy ban kiểm tra phải báo cáo, đề xuất với cấp
ủy và cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
1.3.2.3 Nhiệm vụ tham mưu, giúp cấp ủy
- Phối hợp với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy giúp cấp uỷ
xây dựng phương hướng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát, tổ
chức lực lượng để tiến hành kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thỉ của

Đảng (theo Điều 30 Điều lệ Đảng).
- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng.
- Báo cáo các vụ kỷ luật, giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật thuộc thẩm
quyền xem xét, quyết định của cấp ủy.
- Tham gia ý kiến với cấp ủy và các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp
ủy trong việc giúp cấp ủy cùng cấp chuẩn bị và chuẩn y nhân sự cấp ủy; ban cán
sụ đảng, đảng đoàn và ủy ban kiểm tra của các cấp ủy trực thuộc; trong việc
đánh giá, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm đối với cán bộ thuộc diện cấp ủy, ban thường
vụ cấp ủy quản lý.
- Cùng các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy có liên quan chuẩn bị
nội dung những kỳ họp của cấp ủy bàn về công tác kiểm tra, giám sát và công
tác xây dựng Đảng có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát; hướng dẫn thực
hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên và cấp mình về những nội dung nói
trên. Qua thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, rút ra những vấn đề cần thiết về
xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức để đề nghị với cấp ủy và
góp ý với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy nghiên cứu, giải quyết.
1.3.3 Quyền hạn của ủy ban kiểm tra các cấp
- Ủy ban kiểm tra được quyền hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các cấp ủy,
tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Trung ương Đảng; chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra, giám sát ủy ban kiểm tra cấp dưới. Tham gia ý kiến với cấp
ủy và ủy ban kiểm tra của cấp ủy trực thuộc về việc chuẩn bị nhân sự ủy ban
kiểm tra, xây dựng tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra và đội ngũ cán bộ


- 14 kiểm tra, bồi dưỡng nghiệp vụ. Chỉ đạo, hướng dẫn ủy ban kiểm tra của cấp ủy
trực thuộc thực hiện sơ kết, tổng kết về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành
kỷ luật đảng.
- Được yêu cầu các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo tình hình,

cung cấp tài liệu về những vấn đề có liên quan đến nội dung kiểm tra, giám sát.
Được yêu cầu các tổ chức đảng có liên quan phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Khi tiến hành công tác kiểm tra,
giám sát, nếu tổ chức đảng và đảng viên thấy có vấn đề cần tham gia ý kiến thì
phản ảnh với ủy ban kiểm tra; không được gây khó khăn, trở ngại cho việc kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng.
- Trong quá trình kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện có những quyết định
hoặc việc làm có dấu hiệu sai, trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng thì ủy ban kiểm tra yêu cầu tổ chức đảng hoặc
đảng viên được kiểm tra xem xét lại quyết định hoặc việc làm đó; đồng thời
thông báo hoặc báo cáo kịp thời với cấp có thẩm quyền để giải quyết.
- Các quyết định, kết luận, thông báo của ủy ban kiểm tra về công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng phải được tổ chức đảng cấp
dưới và đảng viên có liên quan chấp hành nghiêm túc. Trường hợp có ý kiến
khác nhau thì được quyền khiếu nại, báo cáo với cấp ủy cấp trên trực tiếp xem
xét, quyết định.
- Ủy ban kiểm tra từ cấp quận, huyện và tương đương trở lên có thẩm
quyền thi hành kỷ luật, chuẩn y, thay đổi, xóa bỏ hình thức kỷ luật theo quy định
của Điều lệ Đảng, quy định và hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
Được quyền quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng của cấp ủy viên cấp dưới trực
tiếp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý nhưng không
phải là cấp ủy viên cùng cấp khi bị tạm giam, truy tố; quyết định đình chỉ sinh
hoạt cấp uỷ của cấp ủy viên cấp dưới khi bị khởi tố.
Trãi qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc đã có rất nhiều văn bản chỉ đạo
về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến nay vẫn còn hiệu lực thi hành, tuy
nhiên ở gốc độ đề án này tôi chỉ xin nêu một số văn bản mà ủy ban kiểm tra cấp
huyện và cơ sở làm căn cứ pháp lý và thường áp dụng trong nhiệm kỳ qua đó là:


- 15 - Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về

tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
- Hướng dẫn số 08-HD/KTTW, ngày 28-9-2007 của ủy ban kiểm tra
Trung ương về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
- Quy định số 94-QĐ/TW, ngày 15-7-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về
xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm
- Hướng dẫn số 11-HD/UBKTTW, ngày 24-3-2008 của ủy ban kiểm tra
Trung ương về thực hiện Quy định số 94-QĐ/TW, ngày 15-7-2007 của Bộ
Chính trị (khóa X) về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm
- Quyết định số 09-QĐ/TW, ngày 24-3-2011 của Bộ Chính trị bổ sung,
sửa đổi Điều 7, Quy định số 94-QĐ/TW, ngày 15-7-2007 của Bộ Chính trị (khóa
X) về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách, dân số, kế hoạch hóa gia đình
- Hướng dẫn số 01-HD/UBKTTW, ngày 26-4-2011 của ủy ban kiểm tra
Trung ương về thực hiện Quyết định số 09-QĐ/TW, ngày 24-3-2011 của Bộ
Chính trị bổ sung, sửa đổi Điều 7, Quy định số 94-QĐ/TW, ngày 15-7-2007 của
Bộ Chính trị (khóa X) về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách, dân số, kế
hoạch hóa gia đình
- Thông báo số 226-TB/TW, ngày 03-3-2009 kết luận của Ban Bí thư về
tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
- Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung
ương ban hành kèm theo hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật của đảng trong chương VII và chương VIII Điều lệ Đảng
khóa XI.
- Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung
ương về những điều đảng viên không được làm.
- Hướng dẫn số 03-HD/UBKTTW, ngày 15-3-1012 của ủy ban kiểm tra
Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
- Hướng dẫn số 05-HD/UBKTTW, ngày 17/4/2012 của ủy ban kiểm tra
Trung ương thực hiện Quy định về công tác kiểm tra của tổ chức Đảng đối với
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.



- 16 - Quyết định số 68-QĐ/TW, ngày 21-3-2012 của Bộ Chính trị ban hành
quy chế giám sát trong Đảng
- Hướng dẫn số 06-HD/UBKTTW, ngày 20-6-2012 của ủy ban kiểm tra
Trung ương về thực hiện Quyết định số 68-QĐ/TW, ngày 21-3-2012 của Bộ
Chính trị ban hành quy chế giám sát trong Đảng.
- Hướng dẫn số 07-HD/UBKTTW ngày 30/7/2012 của ủy ban kiểm tra
Trung ương về thực hiện chất vấn cấp ủy viên tại các kỳ họp Ban chấp hành
Đảng bộ các cấp.
- Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30-3-2013 của Ban Chấp hành Trung
ương về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
- Hướng dẫn số 09-HD/UBKTTW, ngày 06/6/2013 của ủy ban kiểm tra
Trung ương Hướng dẫn một số điều của Quy định 181-QĐ/TW.
- Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong đảng (tài liệu
nghiệp vụ dùng cho cấp trên cơ sở, Nxb Tài chính Hà Nội - 2012).
2. NỘI DUNG :
2.1 Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các
cấp thuộc đảng bộ huyện Cờ Đỏ giai đoạn (2010 – 2015):
2.1.1 Khái quát tình hình chung :
Cờ Đỏ là huyện ngoại thành của thành phố Cần Thơ được thành lập vào
đầu năm 2004 theo Nghị định số 05/2004/NĐ-CP của Chính phủ, sau đó được
điều chỉnh địa giới hành chính theo Nghị định số 12/NĐ-CP ngày 23/12/2008,
diện tích tự nhiên 31.047,67 ha, dân số 122.464 khẩu, với 10 đơn vị hành chính
trực thuộc, gồm 09 xã và 01 thị trấn. Đảng bộ huyện có 51 tổ chức cơ sở đảng
trực thuộc với 2.245 đảng viên, ban chấp hành đảng bộ huyện có 41 đồng chí,
ban thường vụ có 11 đồng chí, ủy ban kiểm tra huyện ủy hiện có 07 ủy viên,
trong đó đồng chí chủ nhiệm là ủy viên thường vụ, 04 ủy viên chuyên trách và
02 ủy viên kiêm chức. Có 14 ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở với 42 đồng chí ủy
viên, trong đó có 34 là kiêm nhiệm.

Là địa bàn nông thôn, kinh tế phát triển chủ yếu bằng nông nghiệp, giao
thông đi lại còn nhiều khó khăn. Ngay từ những năm đầu mới thành lập, đi đôi
với việc sắp xếp, ổn định biên chế cán bộ các phòng, ban trực thuộc. Huyện ủy,


- 17 ủy ban nhân dân huyện Cờ Đỏ luôn quan tâm đến phát triển kinh tế, văn hóa - xã
hội, an ninh - quốc phòng, nâng cao công tác cải cách thủ tục hành chính, tập
trung xây dựng hệ thống chính trị, trong đó thường xuyên quan tâm thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Ngoài ra sự nghiệp giáo dục - đào tạo cũng được quan tâm phát triển cả
về quy mô, chất lượng dạy và học; hàng năm tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở và
trung học phổ thông đều tăng; thực hiện chính sách an sinh xã hội thu được kết
quả trên nhiều mặt, giải quyết được những vấn đề cấp bách có ý nghĩa thiết thực
đến đời sống nhân dân, nhất là các đối tượng chính sách, hộ nghèo gặp khó khăn
và các đối tượng bảo trợ xã hội khác.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn giữ vững, các loại
tội phạm từng bước được kềm chế và đẩy lùi.
Công tác xây dựng hệ thống chính trị được quan tâm thực hiện đồng bộ
trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, bộ máy từ huyện tới cơ sở luôn
được sắp xếp, kiện toàn theo hướng trẻ hóa đội ngũ cán bộ.
2.1.2 Kết quả thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật đảng:
2.1.2.1 Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy các cấp:
- Lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với công tác kiểm tra, giám sát:
+ Huyện ủy luôn xác định công tác kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh
đạo của Đảng, không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo. Từ đó đã chỉ đạo
ủy ban kiểm tra huyện ủy tham mưu xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát
toàn khóa, xây dựng quy chế làm việc nhiệm kỳ. Căn cứ vào chương trình, hàng
năm cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đều xây dựng và triển khai thực hiện
chương trình kiểm tra, giám sát với những nội dung cụ thể, thiết thực đến việc

lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.
+ Lãnh đạo tổ chức triển khai học tập, quán triệt các văn bản theo đúng
quy định, cụ thể là Quy định số 45-QĐ/TW ngày 01/11/2011 về thi hành Điều lệ
Đảng; Quyết định số 46-QĐ/TW ngày 01/11/2011 về hướng dẫn thực hiện các
quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng trong
chương VII, chương VIII Điều lệ Đảng; Quy định số 47-QĐ/TW, ngày
01/11/2011 về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 181-QĐ/TW


- 18 ngày 30/3/2013 về xử lý kỷ luật đảng viên; Quyết định số 68-QĐ/TW ngày
21/3/2012 về ban hành Quy chế giám sát trong Đảng...
+ Huyện ủy xây dựng ban hành Quy định số 04-QĐ/HU ngày 28/5/2014
về chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra huyện ủy theo
Quy định 220-QĐ/TW; Hướng dẫn số 10-HD/HU ngày 12/01/2015 về công tác
kiểm tra, giám sát và nhân sự ủy ban kiểm tra phục vụ đại hội nhiệm kỳ 2015 –
2020 và đã ban hành 04 Nghị quyết chuyên đề về xây dựng chi bộ ấp, đảng bộ
xã, thị trấn trong sạch vững mạnh toàn diện; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; vận động quần chúng trong tình hình mới và xây dựng nông thôn mới. Qua
đó cấp ủy và ủy ban kiểm tra theo dõi, giám sát quá trình triển khai thực hiện ở
cấp mình, hàng năm tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm và đã tổng kết 4 năm thực
hiện đối với 4 Nghị quyết chuyên đề đã đem lại hiệu quả thiết thực.
+ Hàng năm cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đều xây dựng và triển khai
thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát với những nội dung cụ thể, thiết thực
đến việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.
+ Ủy ban kiểm tra huyện ủy làm việc theo chế độ tập thể, dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của huyện ủy và sự chỉ đạo, kiểm tra của ủy ban kiểm tra cấp trên;
công tác cán bộ đặc biệt quan tâm từ khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo. Hiện tại
ủy ban kiểm tra huyện ủy hoàn thành quy hoạch giai đoạn 2015 - 2020 và đã
được phê duyệt danh sách ra ứng cử ủy ban kiểm tra nhiệm kỳ 2015 - 2020; hầu
hết cán bộ làm công tác kiểm tra từ huyện đến cơ sở đều được tập huấn chuyên

môn nghiệp vụ, chất lượng hoạt động từng bước nâng lên, hàng năm đều cơ bản
hoàn thành nhiệm vụ.
+ Trong hoạt động luôn có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan ban,
ngành cấp huyện và đảng ủy, ủy ban nhân dân các xã, thị trấn trong tổ chức thực
hiện chương trình giám sát, kiểm tra; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; giải
quyết công việc liên quan đến phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết
kiệm; ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức lối sống cán bộ, đảng viên… Từ sự phối
hợp hoạt động tốt đã giúp huyện ủy nắm bắt tình hình kịp thời và giải quyết
công việc chính xác, hiệu quả.
+ Việc sơ, tổng kết được thực hiện nghiêm túc từng quý, 6 tháng, cuối
năm, hàng tháng ủy ban kiểm tra huyện ủy có báo cáo kết quả hoạt động và đề


- 19 ra chương trình công tác tháng tới. Tại các cuộc họp, hội nghị thường trực huyện
uỷ đều tham dự và phát biểu ý kiến chỉ đạo, đặc biệt là tháo gỡ những vấn đề
còn khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác kiểm tra để hoàn thành nhiệm
vụ. Về trang thiết bị phục vụ công tác, kinh phí hoạt động đều đáp ứng; đội ngũ
cán bộ kiểm tra từ huyện đến cơ sở ổn định.
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy:
+ Giám sát, kiểm tra 86 tổ chức đảng (58 lượt đảng ủy, 28 chi bộ cơ sở).
Nội dung về chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật
Nhà nước; xây dựng nông thôn mới; khắc phục theo Nghị quyết Trung ương 4;
thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW; thực hiện Chỉ thị số 04-CT/HU; an toàn giao
thông; xây dựng hệ thống chính trị; thực hiện quy chế dân chủ; sinh hoạt chi bộ
cơ quan... Qua giám sát, kiểm tra cho thấy các cấp ủy đảng chủ động xây dựng
kế hoạch tổ chức thực hiện theo từng nội dung; nhận thức của cấp ủy ngày càng
nâng lên về công tác giám sát, kiểm tra của Đảng; những hạn chế, tồn tại được
lãnh đạo huyện ủy đóng góp, nhắc nhỡ kịp thời, giúp tổ chức đảng từng bước
trong sạch, vững mạnh toàn diện.
+ Cấp ủy huyện thi hành kỷ luật 03 đảng viên (02 Huyện ủy viên, 01 chi

ủy viên). Hình thức kỷ luật cảnh cáo 02, cách chức 01. Nội dung vi phạm: cố ý
làm trái luật ngân sách Nhà nước; tham nhũng; thiếu trách nhiệm; Cấp ủy cơ sở
và các chi bộ trực thuộc thi hành kỷ luật 61 đảng viên (11 chi ủy viên, 50 đảng
viên). Hình thức kỷ luật khiển trách 33, cảnh cáo 27 và cách chức 1. Nội dung vi
phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống, chức trách nhiệm vụ được giao, sinh con
thức 3, kết thông gia với người nước ngoài, rượu chè bê tha.
+ Chỉ đạo ủy ban kiểm tra huyện ủy đã giải quyết 46 đơn tố cáo (02 liên
quan đến tổ chức đảng và 44 đảng viên), trong đó có 01 huyện ủy viên; 08 cấp
ủy cơ sở và 37 đảng viên. Đã giải quyết và kết luận 46. Nội dung tố cáo chủ yếu
xét cất nhà không đúng đối tượng; bắt người sai pháp luật; vi phạm pháp luật;
trục lợi cá nhân; tổ chức đánh người; tham nhũng; đạo đức; quan hệ nam nữ; sử
dụng bằng giả; sử dụng tiền trợ cấp sai mục đích. Kết quả: tố đúng, có vi phạm
phải thi hành kỷ luật 13; có vi phạm nhưng chưa đến mức phải thi hành kỷ luật,
kiểm điểm rút kinh nghiệm 10; nhắc nhỡ khắc phục kịp thời 04; tố sai sự thật 19.
2.1.2.2 Công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp:


- 20 - Thực hiện chức năng tham mưu cấp ủy và nhiệm vụ cấp ủy giao:
+ Tham mưu, giúp cấp ủy triển khai các văn bản liên quan đến ngành
kiểm tra kịp thời, sâu sát, đúng quy định, cụ thể là Hướng dẫn số 03HD/UBKTTW ngày 15/3/2012 về những điều đảng viên không được làm;
Hướng dẫn số 05-HD/UBKTTW ngày 17/4/2012 thực hiện Quy định về công
tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán
bộ, đảng viên; Hướng dẫn số 07-HD/UBKTTW ngày 30/7/2012 về thực hiện
chất vấn cấp ủy viên tại các kỳ họp ban chấp hành đảng bộ các cấp; Hướng dẫn
số 09-HD/UBKTTW ngày 06/6/2013 về hướng dẫn một số điều của quy định
181-QĐ/TW. Ngoài ra tiếp tục quán triệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Qua triển khai quán triệt hầu hết tổ chức đảng và đảng viên đều có nhận
thức sâu hơn về công tác giám sát, kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng; xác
định công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hệ thống lãnh

đạo của Đảng; áp dụng vào thực hiện trong công tác đem lại hiệu quả thiết thực.
+ Tham mưu cấp ủy xây dựng, ban hành chương trình giám sát, kiểm tra
toàn khóa và hàng năm, từng chuyên đề sâu sát với thực tế và tổ chức thực hiện
đạt hiệu quả, cụ thể như sau:
Giám sát, kiểm tra 111 cuộc. Nội dung chủ yếu về chấp hành Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật Nhà nước; cấp tiền hỗ trợ lúa
nước theo Nghị định 42/NĐ-CP của Chính phủ; việc khắc phục những hạn chế,
khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI); thực hiện nghị quyết chuyên đề của huyện ủy; tổ chức
bầu cử trưởng ấp; vận động kinh phí xây dựng giao thông nông thôn; cấp phát
quà tết. Qua giám sát, kiểm tra cho thấy các cấp ủy đảng có chủ động lãnh đạo
thực hiện; vai trò, trách nhiệm người đứng đầu được phát huy; tính tiền phong
gương mẫu của đảng viên nâng lên; dân chủ, đoàn kết thống nhất tốt; tự phê
bình và phê bình có chuyển biến. Qua đó kịp thời nhắc nhỡ, hướng dẫn tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc và tổ chức kiểm điểm xử lý nghiêm các trường hợp
vi phạm. Đã góp phần tích cực vào xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững
mạnh.


- 21 + Báo cáo sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát; báo cáo 03
năm thực hiện Quy định 115-QĐ/TW của Bộ Chính trị về những điều đảng viên
không được làm; báo cáo 03 năm thực hiện Quy định 94-QĐ/TW của Bộ Chính
trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; báo cáo tổng kết công tác giám sát từ
2009 đến cuối năm 2014; báo cáo kết quả kiểm tra tài chính đảng nhiệm kỳ 2010
- 2015.
+ Phối hợp các ban xây dựng đảng kiểm điểm phê bình tập thể đảng ủy xã
Thới Đông; ban thường vụ đảng ủy xã Thới Xuân; chi ủy ấp 1 thuộc đảng bộ xã
Thạnh Phú; lãnh đạo phòng Văn hóa – Thông tin, phòng Giáo dục, phòng Tài
nguyên - Môi trường, Hội Cựu chiến binh, Trung tâm Văn hóa; kiểm điểm cá

nhân đồng chí bí thư đảng ủy, 02 phó bí thư đảng ủy, 01 chủ tịch HĐND xã, 01
chủ tịch UBND xã, 04 đồng chí trưởng phòng cấp huyện và 02 đảng viên thuộc
đảng bộ thị trấn Cờ Đỏ. Nội dung nhắc nhỡ những mặt còn hạn chế, tồn tại qua
đánh giá hàng tháng, quí, năm và qua kết quả giám sát, kiểm tra.
+ Phối hợp ban tổ chức huyện ủy xác minh làm tham mưu cho ban thường
vụ huyện ủy xem xét giải quyết đơn khiếu nại về việc xóa tên trong danh sách
đảng viên dự bị ở xã Thạnh Phú. Kết quả rút quyết định xóa tên và chuyển đảng
chính chức, đồng thời chỉ đạo xử lý kỷ luật 02 đảng viên vi phạm có liên quan.
- Thực hiện nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định
+ Kiểm tra đảng viên, cấp uỷ viên cùng cấp và tổ chức đảng khi có dấu
hiệu vi phạm:
Kiểm tra đảng viên: Tổng số kiểm tra 48 đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm, trong đó có 01 cấp ủy huyện và 05 cấp ủy cơ sở. Nội dung kiểm tra về
đạo đức lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; đoàn kết nội bộ; sử dụng bằng tốt
nghiệp không hợp pháp; tham nhũng; chủ trương sai luật ngân sách; nhận tiền
chạy án; bỏ công tác, sinh hoạt; quan hệ nam nữ; khắc phục sửa chữa theo Nghị
quyết Trung ương 4. Qua kiểm tra, kết luận có vi phạm là 48; phải xử lý kỷ luật
là 28 (6 cấp ủy viên ); nhắc nhỡ khắc phục kịp thời và gắn với phê, tự phê bình
kiểm điểm rút kinh nghiệm 18; đề nghị cho ra khỏi đảng 02.
Kiểm tra tổ chức đảng: Kiểm tra 09 tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm.
Nội dung kiểm tra về đoàn kết nội bộ; sinh hoạt lệ; chấp hành Cương lĩnh chính


- 22 trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao. Kết quả, có vi phạm nhưng chưa đến mức phải thi hành kỷ luật, chỉ
đạo phê bình tập thể chi bộ và gắn với đánh giá chất lượng tổ chức đảng cuối
năm.
+ Thực hiện nhiệm vụ giám sát tổ chức đảng và đảng viên:
Giám sát chuyên đề: giám sát 33 tổ chức đảng về thực hiện quy chế làm

việc của cấp ủy, lề lối làm việc của tập thể thường trực; xây dựng giao thông
nông thôn; lãnh đạo bầu cử trưởng ấp; lãnh, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị
quyết; đánh giá tổ chức đảng và đảng viên... Cho thấy các đơn vị đều thực hiện
tốt nội dung được giám sát. Tuy nhiên còn một vài tổ chức lề lối làm chưa thật
sự đổi mới; thiếu kiểm tra, giám sát, nhắc nhỡ đối với cấp dưới.
Giám sát 97 đảng viên về thực hiện nhiệm vụ được giao; chấp hành
nguyên tắc tập trung dân chủ; chính sách, pháp luật của Nhà nước; rượu chè bê
tha; giờ giấc hành chính; khắc phục, sửa chữa theo Nghị quyết Trung ương 4;
đạo đức lối sống. Hầu hết các đảng viên đều thực hiện tốt nội dung được giám
sát. Bên cạnh còn một số đảng viên chưa đảm bảo giờ hành chính và còn rượu
chè bê tha được chấn chỉnh, nhắc nhỡ kịp thời.
Giám sát thường xuyên: giám sát 2.929 lượt tổ chức đảng, 90 lượt ủy ban
kiểm tra đảng ủy cơ sở và có 22.523 lượt đảng viên được giám sát. Nội dung tập
trung vào thực hiện nhiệm vụ được giao, việc thực hiện quy chế làm việc,
chương trình, kế hoạch công tác năm; triển khai, học tập quán triệt các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đảng viên hợp đồng
đất nông trường; cấp phát quà dịp Tết; cứu trợ ảnh hưởng cơn lốc xoáy; chấp
hành nghĩa vụ thuế, quỹ; sinh hoạt lệ; bình xét hộ nghèo và các nhiệm vụ khác.
Kết quả là các tổ chức, cá nhân đều thực hiện tốt. Tuy nhiên một số cấp ủy nắm
tình hình, quản lý, giáo dục đảng viên chưa kịp thời; lãnh đạo công tác giám sát,
kiểm tra có mặt lúng túng.
Ngoài ra ủy ban kiểm tra huyện ủy giám sát 79 cán bộ trưởng, phó các
ban ngành, đoàn thể huyện tham gia sinh hoạt, chỉ đạo 79 ấp theo tinh thần Nghị
quyết số 03-NQ/HU của huyện ủy. Nhìn chung hầu hết đều thể hiện được vai
trò, trách nhiệm của mình, kịp thời cùng chi bộ ấp tháo gỡ những khó khăn giúp


×