Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Xác định hoạt chất trong thuốc kháng sinh, W 10, E41

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 62 trang )

TUYỂN TẬP BÀI TẬP PHỔ THÔNG, ĐẠI HỌC, SAU ĐẠI HỌC
LUẬN ÁN-ĐỒ ÁN-LUẬN VĂN-KHOÁ LUẬN-TIỂU LUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

XÁC ĐỊNH ĐỒNG THỜI MỘT SỐ HOẠT CHẤT CÓ TRONG THUỐC
KHÁNG SINH THUỘC HỌ β –LACTAM.


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH

BẢNG KÍ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT


CLS

Bình phương tối thiểu thông thường (classical least square)

ILS

Bình phương tối thiểu nghịch đảo (inverse least square)

PLS

Bình phương tối thiểu từng phần (partial least square)

PC

Cấu tử chính (Principal component)



UI
EtOH

Đơn vị quốc tế chuẩn hóa
(international unit)
Ethanol

KLTB

Khối lượng trung bình viên

PCR

Hồi qui cấu tử chính (principal component regression)

PEN

Penicillin

AMO

Amoxicillin

CEP

Cephalexin

Tbot


Tinh bột

CLO

Cloxacillin

SPE

Chiết pha rắn

ACN

axetonitril

AMP

Ampicillin


MỞ ĐẦU
Hiện nay hoạt động sản xuất và buôn bán kháng sinh nói riêng và tân dược nói chung
đem đến nguồn lợi nhuận khổng lồ khiến một số tổ chức, cá nhân đã tung ra thị trường
hàng triệu viên thuốc giả mỗi ngày. Thuốc giả không chỉ đánh lừa người tiêu dùng, còn
vô hiệu hóa các liệu pháp điều trị để cứu sống bệnh nhân và trong rất nhiều trường hợp
thuốc giả gây ra tác hại to lớn như gây ra các phản ứng dị ứng, nhiễm độc kim loại nặng
cũng như làm bệnh nhân dễ kháng thuốc. Đại diện tổ chức Y Tế Thế giới cảnh báo thuốc
giả đang chiếm 7-15% tổng số thuốc ở các nước phát triển, 25% ở các nước đang phát
triển, trong đó các nước ở khu vực Châu Á chiếm 50%. Các mẫu thuốc giả thường được
phát hiện chủ yếu là các loại kháng sinh như Ampicillin, Penicillin…Điều khiến nhiều
người quan tâm là tỉ lệ thuốc giả ở Việt Nam ngày càng một gia tăng và diễn biến trở nên

phức tạp hơn dẫn đến công tác kiểm tra khó khăn hơn.
Vì vậy, vấn đề kiểm định thuốc đúng hoạt chất, và đúng hàm lượng hoạt chất trong thuốc
là một vấn đề hết sức cấp thiết. Hiện nay có rất nhiều phương pháp xác định hàm lượng
kháng sinh hiệu quả cao như phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao( HPLC), huỳnh
quang tia X, các phương pháp quang học hay các phương pháp điện hóa để phân tích kháng
sinh được qui định trong dược điển. Tuy nhiên, hầu như các phương pháp trên đều được thực
hiện trên các thiết bị đắt tiền, chi phí cho quá trình phân tích tốn kém, quy trình xử lí mẫu và
tách chất tốn dung môi và mất nhiều thời gian không phải phòng thí nghiệm phân tích nào
cũng thực hiện được.
Xuất phát từ thực tế này, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu xây dựng
phương pháp phổ hồng ngoại gần và trung bình kết hợp với thuật toán hồi quy đa
biến để định lượng đồng thời một sốhoạt chất có trong thuốc kháng sinh thuộc họ βLactam”. Với mục tiêu là nghiên cứu quy trình phân tích nhóm β-Lactam bằng phương
pháp phổ hồng ngoại gần với kĩ thuật hồi qui đa biến để kiểm định nhanh chất lượng
lượng thuốc trên thị trường hiện nay.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1.

Tổng quan về nhóm kháng sinh β-lactam

1.1.1. Khái niệm và phân loạinhóm β-lactam
Kháng sinh là những chất kháng khuẩn (antibacterial substances) được tạo ra bởi
các chủng vi sinh vật (vi khuẩn, nấm, Actinomycetes), có tác dụng ức chế sự phát triển
của các vi sinh vật khác [2].
Nhóm β-lactam là một họ kháng sinh rất lớn, bao gồm các kháng sinh có cấu trúc hóa học
chứa vòng β-lactam. Khi vòng này liên kết với một cấu trúc vòng khác sẽ hình thành các
phân nhóm lớn tiếp theo.
Cáckháng sinh β-lactam được chia thành 4 nhóm gồm các penicillin tự nhiên và
tổng hợp,cáccephalosporin bán tổng hợp,các chấtcarbapenem, monobactam.Trong đó có

hai nhóm được sử dụng phổ biến nhất là nhóm các penicillin và cephalosporin.
Các penicillin và cephalosporin tự nhiên được chiết tách từ môi trường nuôi cây
nấm penicilium notaum mà nay gọi là penicillin chrysogenumvàcephalosporium
aeremonium [2].
1.1.1.1. Nhóm penicillin
Nguồn gốc: Lexander Fleming (1929) phát hiện môi trường nuôi cấy penicillium
notatum, P. chysogenum.Công thức cấu tạo của một số hoạt chất nhóm Penicillin được
đưa ra trong bảng 1.1.


Bảng1.1. Công thức cấu tạo của một số hoạt chất nhóm Penicillin.
Công thức cấu tạo nhóm Penicillin

R

Tên thuốc

Kháng sinh thuộc họ penicillin có cấu trúc mạch vòng beta- lactam (amin nội vòng)
gắn với mạch ngang R-CO-NH, được gọi là các amin của 6-Amino penicillanie (A.6.A.P)
có công thức chung R – C9H11N2O4S [4,7].
Tính chất: Là chất bột màu trắng, dễ bị phá hủy trong môi trường oxi hóa, môi trường có
tính kiềm và nhiệt độ cao, hoặc do tác dụng của nước, của men penicillin naza (do vi
khuẩn đường ruột hay vi khuẩn Gr (-) sinh ra.
Phân loại:
Sự thay đổi nhóm thế trong cấu trúc của penicilin bán tổng hợp dẫn đến sự thay đổi
tính bền vững với các enzym penicilinase và β-lactamase, thay đổi phổ kháng khuẩn cũng
như hoạt tính kháng sinh trên các chủng vi khuẩn gây bệnh.
Dựa vào phổ kháng khuẩn, có thể tiếp tục phân loại các kháng sinh nhóm Penicilin
thành các phân nhóm với phổ kháng khuẩn tương ứng bảng như sau:



Penicillin nhóm 1: Các penicillin phổ kháng khuẩn hẹp gồm Gồm:
benzylpenicilin

(penicillinG),

phenoxymethylpenicilin

(penicillin

V),


penicillin chậm (procain benzylpenicilin, benzathin benxylpenicilin và
benethamin penicillin).
• Penicillin nhóm 2: Các penicillin phổ kháng khuẩn hẹp đồng thời có tác dụng
trên tụ cầu gồm Methicillin, oxacillin, Cloxacillin (CLO), Dicloxacillin,
Nafcillin.
Dược động học
Tất cả các thuốc (trừ methicilin) đều bền với axit dạ dày và hấp thu tốt qua
đường tiêu hóa.Thức ăn làm giảm hấp thu nên dùng trước và sau khi ăn một


giờ.
Penicillin nhóm 3: Các penicillin phổ kháng trung bình gồm ampicilin và

amoxilin.
• Penicillin phổ rộng: Hay penicillin chuyên trị vi khuẩn nhóm Pseudomonas
-


aeruginosa gồm 2 nhóm nhỏ là Carboxypenicilin và Ureidopenicilin
Carboxypenicilin: Gồm các thuốc: carbenicilin, ticarcilin, temocilin…có phổ

-

kháng khuẩn giống aminopenicilin nhưng rộng hơn.
Gồm các thuốc azlocilin, mezlocilin, piperacilin có phổ kháng khuẩn giống

carboxypenicilin cộng thêm Klebsiella và một số vi khuẩn Gr (-) khác.
1.1.1.2.Nhóm cephalosporin
Nguồn gốc:
Cephalosporin trong tự nhiên được phân lập từ môi trường nuôi cấy nấm Cephalosporin
acremonium có hoạt tính kháng khuẩn thấp nên không được dùng trong lâm sàng. Các
cephalosporin hiện đang dùng là các chất bán tổng hợp từ 7-amino-cephalosporinic
(7ACA).Cấu trúc vòng 7ACA cũng dễ bị cephalosporinase phá hủy làm mất tác dụng
kháng khuẩn.
Cấu trúc chung gồm vòng β- lactam 4 cạnh gắn với 1 dị vòng 6 cạnh.
Khi thay đổi các gốc R được các cephalosporin có độ bền,tính kháng khuẩn và dược động
học khác nhau.
Công thức hóa học:
Cấu trúc hóa học của các kháng sinh nhóm cephalosporin đều là dẫn xuất của Axit 7aminocephalosporanic (viết tắt là A7AC).Các cephalosporin khác nhau được hình thành
bằng phương pháp bán tổng hợp.Cấu trúc chung gồm vòng β- lactam 4 cạnh gắn với 1 dị
vòng 6 cạnh.Khi thay đổi các gốc R 1, R2 được các cephalosporin có độ bền, tính kháng


khuẩn và dược động học khác nhau.Công thức cấu tạo của một số hoạt chất trong nhóm
cephalosporin được đưa ra trong bảng 1.2.
Phân loại:
Dựa vào phổ kháng khuẩn, chia các cephalosporin thành 4 thế hệ.Các cephalosporin
thế hệ trước tác dụng trên vi khuẩn G+ mạnh hơn nhưng trên vi khuẩn G- yếu hơn thế hệ

sau. Các tên thuốc sử dụng các thế hệ Cephalosporin được đưa ra trong bảng 1.3.

Bảng 1.2.Công thức cấu tạo của các hoạt chất trong nhóm cephalosporin.


Bảng 1.3.Các thế hệ Cephalosporin.
Thế hệ

Tên thuốc


Cefazolin
Cephalosporin thế hệ 1

Cephalexin
Cefadroxil
Cefoxitin
Cefaclor

Cephalosporin thế hệ 2

cefafrozil
cefuroxim
cefotetan
ceforanid
Cefotaxim
Cefpodoxim
Ceftibuten
Cefdinir
Cefditoren

Ceftizoxim

Cephalosporin thế hệ 3

Ceftriaxon
Cefoperazon
Ceftazidim

Cephalosporin thế hệ 3

Cefepim

1.1.1.3.Các kháng sinh β-lactam khác.
Carbapenem
Dẫn xuất tự nhiên là thienamycin được lấy từ Streptomyces catteifa nhưng không bền nên
không dùng trong điều trị.


Imipenem là dẫn xuất của N-formidoyl và meropenem là dẫn xuất của
demethylcarbamoyl pyrolidinyl của thienamycin bền vững hơn.
Monobactam:
Kháng sinh monobatam là kháng sinh mà công thức phân tử có chứa β-lactam đơn
vòng.Chất điển hình của nhóm này là aztreonam.
1.1.2. Tính chất vật lývà hóa học các kháng sinh nhóm β- Lactam
Các β- Lactam thường ở dạng bột kết tinh màu trắng, dạng axit ít tan trong nước,
dạng muối natri và kali dễ tan, tan được trong metanol và một số dung môi hữu cơ có độ
phân cực vừa phải, tan trong dung dịch axit và kiềm loãng do đa phần chứa đồng thời
nhóm -COOH và –NH2.
Cực đại hấp thụ chủ yếu do nhân phenyl, tùy thuộc vào cấu trúc khác làm dạng phổ
thay đổi (đỉnh phụ, vai, sự dịch chuyển sang bước sóng ngắn hoặc dài, giảm độ hấp thụ).



Tính chất hóa học các kháng sinh nhóm β- Lactam

Tính không bền của vòng β-lactam:
Sự tấn công của các tác nhân thân điện tử (An): Các bazơ mở vòng azetidin-2-on, tạo ra
những dẫn xuất của axit cephalosporic không có hoạt tính sinh học [5].
Ví dụ: các bazơ (NaOH, KOH) đậm đặc tạo muối của axit cephalosporic.
Tính axit:
Các β-lactam là các axit với nhóm –COOH có pKa=2,5-2,8 tùy vào cấu trúc phân
tử.Trong môi trường axit hoặc kiềm, β-lactamcó tác dụng phân cắt khung phân tử, mở
vòng β-lactam làm kháng sinh mất tác dụng.
Các penicillin là các axit khó tan trong nước, dạng muối natri hoặc kali dễ tan dùng
để pha thuốc tiêm.
Các cephalosporin có vòng β-lactam đều kém bền do cộng hưởng amid không tồn
tại. Cộng hưởng amit mất đi chủ yếu còn do có cộng hưởng “en-amin”.


So với penicillin thì các cephalosporin bền với axit hơn, tuy nhiên do cộng hưởng
en-amin mà phản ứng cộng hợp ái điện tử vẫn xảy ra tại trung tâm (-), kéo theo cắt đứt
đường nối amit. Đó là quá trình thủy phân axit, chất đầu tiên tạo thành là axit
cephalosporoic.Các cephalosporin có tính axit khá mạnh của axit α, β không no.
Phản ứng chuỗi acilamino
Bản chất của chuỗi acilamino ở 7-β xác định tính bền của cephalosporin.Một sự cản trở
không gian tạo ra ở gần vòng β-lactam thì không thuận lợi cho tác dụng của β-lactam và
vì vậy có tác dụng bảo vệ.
Phản ứng của nhóm thế R2 ( nhóm R2 thuộc cấu trúc cephalosporin)
Sự thay đổi nhóm thế R2 tạo ra nhiều cephalosporin bán tổng hợp khác nhau.Vì vậy, phản
ứng tại các nhóm thế này rất quan trọng. Sự thay đổi trên R 2 làm thay đổi đặc tính dược
động học phân tử .

1.2.

Các phương pháp phân tích định lượng nhóm kháng sinh β-lactam.

1.2.1. Phương pháp đo quang
Phương pháp đo quang là phương pháp phân tích dựa trên tính chất quang học của chất
cần phân tích như tính hấp thụ quang, tính phát quang…Các phương pháp này đơn giản,
dễ tiến hành, thông dụng, được ứng dụng nhiều khi xác định β-lactam, đặc biệt trong
dược phẩm [8 ].
Các β-lactam hấp thụ các tia UV nhưng không nhiều cực đại hấp thụ. Chúng tạo thành
phức chất với một số ion kim loại hoặc tham gia phản ứng quang hóa giúp nâng cao độ
nhạy của phép đo.
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5147-90

đã qui định phương pháp gián tiếp sử

dụng quang phổ hấp thụ nguyên tử AAS xác định Penicillin tổng số trong thịt và sản
phẩm thịt, dùng làm thực phẩm cho người và thức ăn gia súc. Phương pháp này dựa
vào phản ứng tạo phức đặc trưng và hoàn toàn định lượng của cadimi với thuốc thử
phenantrolin-cadimi sinh ra phức bền. Chiết phức này bằng nitrobenzen và đo phổ hấp
thụ nguyên tử AAS của kim loại cadimi trong phức ở pha hữu cơ, hay phân hủy pha hữu
cơ lấy cadimi vào dung dịch HCl 1% và đo phổ của cadimi. Phương pháp này phức
tạp, không

đặc

trưng




chỉ

xác

định

được

lượng

tổng

Penicillin.


Wei Liu và cộng sự [36] đã sử dụng phản ứng quang hóa của β-lactam với hệ luminol –
K3Fe(CN)6 kết hợp với phương pháp chiết pha rắn để phân tích một số β-lactam trong
sữa đạt độ nhạy cao: PEN là 0,5mg/l, cefadin là 0,04 mg/l, CEP là 0,1 mg/l .
Tuy nhiên, nếu không kết hợp với phương pháp chiết pha rắn mắc nối tiếp, các
phương pháp quang học chủ yếu chỉ dùng xác định riêng rẽ từng chất kháng sinh và trong
các đối tượng có nhiều yếu tố ảnh hưởng hay chất tương tự chất phân tích việc xác định
sẽ kém chính xác. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp chất phân tích cần thủy phân mới
phát hiện cũng được.
Sheikha M. Al- ghannam [35] cũng đã sử dụng phương pháp hấp thụ nguyên tử AAS để
xác định hai hợp chất của cephalosporins (Cephalexin monohydrate và Cephradine).Các
quy trình này dựa trên sự tạo phức cặp ion giữa các thuốc với muối ammonium
reineckate. Các kết tủa tạo thành dùng để định lượng hoặc bằng phương pháp đo quang
trắc hoặc bằng phương pháp AAS. Các phương pháp này gồm phản ứng của các thuốc
với muối.Reinecke trong môi trường axit ở nhiệt độ 25 ± 2 0. Quy trình phép phổ quang
kế (quy trình 1) dựa trên sự hòa tan tạo kết tủa bằng axeton, đo độ hấp thụ của dung dịch

tại bước sóng 525 nm. Còn đối các quy trình phổ hấp thụ AAS (quy trình 2) được định
lượng trực tiếp hay gián tiếp thông qua sự tạo thành các kết tủa crom hay lượng crom dư
không phản ứng trong dung dịch lọc tại bước sóng 358,6 nm. Theo định luật Lambert –
Beer cho nghiên cứu các mẫu thuốc trong khoảng 0,1-1,5 mg mL -1 cho phổ quang kế và
5-70 μg mL-1 cho phương pháp AAS, hệ số tương quan ≥ 0,9965. Cả hai phương pháp
đều có độ chính xác khi phân tích các cephalosporins trong các mẫu thuốc và đều cho
phần trăm độ thu hồi tốt từ 98,90 ± 0,94 đến 100,15 ± 0,97 mà không cần thêm phụ gia.
1.2.2. Các phương pháp sắc ký
Tiêu chuẩn ngành thuỷ sản TCN 197-2004 qui định phương pháp định lượng
Penicillin [13] trong sản phẩm thuỷ sản bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC).
Penicillin trong sản phẩm thuỷ sản được tách ra khỏi nền mẫu bằng dung dịch đệm
phosphat, pH= 9, làm sạch và cô đặc dịch chiết trên cột Bond Elut C18, dẫn xuất hoá và
định lượng bằng HPLC với detector PDA. Qui trình này trải qua quá trình dẫn xuất phức
tạp và mới chỉ dừng lại ở phạm vi thuỷ sản.
TitusA.M.Msagati và cộng sự [4] đã xác định lượng dư các β-lactam trong thực phẩm
bằng sắc ký lỏng – khối phổ bằng hỗn hợp đệm phosphat, tetraetylammoniumclorua


(Et4NCl) và acetonitril.Sau đó, các β-lactam sẽ được tách và định lượng bằng sắc ký lỏng
khối phổ chế độ ion dương (LC-PI-ESI-MS). Giới hạn phát hiện của phương pháp này
đối với penicillin G và penicillin V trong gan và bầu dục là là 1 ng/kg, trong sữa là 0,7
µg/l.
Helio A.Martins-Júnior [25] cũng đã sử dụng phương pháp LC/MS để xác định lượng dư
kháng sinh có trong sữa. Mục đích của nghiên cứu này nhằm phát triển một phương
pháp phân tích mới đơn giản và nhanh chóng để xác định và định lượng mười bốn kháng
sinh từ các mẫu sữa khác nhau.Trong đó, có năm β-lactam, bốn sulfonamides, ba
tetracycline, một macrolid và một cephalosporin. Các chất này đều được xác định trong
khoảng nồng độ 0,75-3,75 mg L -1, hệ số tuyến tính (r 2) cao hơn 0,9960, với thời gian
phân tích ít hơn 10 phút. Giới hạn định lượng thấp nhất và cao nhất của Dicloxacillin và
erythromycin tương ứng 0,05 và 9,77 µg L -1, có hiệu suất thu hồi dao động từ 65-125%,

độ lệch chuẩn từ 2,0 to 15%.
Phương pháp bằng sắc ký lỏng khối phổ-tandem (LC-MS / MS) cũng đã được
Frédérique van Holthoon và các cộng sự [23] sử dụng để xác định tám penicillin trong
các mô của heo, sữa và thức ăn gia súc . Kết quả đạt độ chính xác dao động trong khoảng
94-113% (cơ bắp), 83-111% (thận) và 87-103% (sữa) và 88-116% (thức ăn gia súc). Độ
chính xác (độ lệch chuẩn tương đối (RSD) r) trong ngày dao động từ 5-13% (cơ bắp, n =
18), 4-17% (thận, n = 7) và 5-18% (sữa, n = 7) đến 11-32% (thức ăn gia súc, n = 18). Độ
chính xác lặp lại giữa các ngày (RSDRL, n = 18) dao động 6-23% (cơ bắp) để 11-36%
(thức ăn gia súc).
Tác giả Yuko Ito và cộng sự [4] thuộc Viện sức khỏe cộng đồng (Nhật Bản) đã ứng
dụng kĩ thuật làm sạch qua cột trao đổi ion để xác định 6 penicillin: Penicillin G,
Penicillin V, Oxacillin, Cloxacillin, Nafcillin, và dicloxacillin trong thịt. Các penicillin
được chiết ra khỏi nền mẫu thịt lợn với nước, nền mẫu thịt bò với NaCl 2%, làm sạch qua
cột chiết pha rắn trao đổi ion và xác định bằng sắc ký lỏng cặp ion với detectơ tử ngoại.
Hiệu suất thu hồi của phương pháp từ 73 - 95%. Giới hạn phát hiện của phương pháp cho
các penicillin là 0,02 mg/viên.
Tác giả E.Benito-Pena và các cộng sự [22] đã sử dụng phương pháp HPLC, detector UV
để phân tích đồng thời các kháng sinh β-lactam (penicillin G, amoxicillin, ampicillin,
penicillin V, oxacillin, cloxacillin, dicloxacillin và nafcillin) trong nước thải. Phương


pháp này dựa trên chiết pha rắn (SPE) và sắc ký lỏng hiệu năng cao. Các penicillin đã
được tách ra bằng cách sử dụng cột LUNA C18 (150 mm x 4.6 mm, 5 µm), gradient rửa
giải với các pha động bao gồm các axit trifluoroacetic, dung dịch nước và acetonitril tại
bước sóng 220 nm. Hiệu suất thu hồi đạt trong khoảng 82-97% (RSD 2-9%) cho tất cả
các kháng sinh trừ amoxicillin (52%, RSD 8%), giới hạn phát hiện trong khoảng 8-24 ng
L-1.
J.M.Cha và các cộng sự [27] cũng đã dùng phương pháp HPLC – MS để xác định lượng
vết của thuốc kháng sinh β-lactam trong mẫu nước tự nhiên và nước thải. Mẫu nước được
làm giàu bằng chiết pha rắn, cột Xterra MS C18 (2,1mm x 50mm,; 2,5 µm),pha động

gồm axit focmic,metanol và acetonitil. Các chất phân tích bao gồm amoxicillin (AMOX),
ampicillin (AMP), oxacillin (OXA), cloxacillin (ClOx) và cephapirin (CEP). Hiệu suất
thu hồi trung bình trong các mẫu thường trên 75% (trừ amoxicillin) với độ lệch chuẩn
thấp hơn 10% trong các mẫu nước. Amoxicillin có hiệu suất thu hồi kém (dưới 40%).
Giới hạn phát hiện phương pháp (MDL) được ước tính khoảng từ 8 - 10 ng/L với nước bề
mặt, 13 - 18 ng / L với nước thải trước xử lý và 8 - 15 ng / L nước thải sau xử lý của
một nhà máy xử lý nước thải.
Agence Française de Sécurité Sanitaire des Aliments cùng các cộng sự [19] đã sử
dụng phương pháp HPLC để xác định 8 hợp chất penicillin (benzylpenicillin,
phenoxymethylpenicillin, ampicillin, amoxicillin, nafcillin, oxacillin, cloxacillin, và
dicloxacillin) ở mức lượng vết trong các mô cơ. Các điều kiện chiết các penicillin với
đệm phosphat có pH = 9 sau khi chiết bằng cột chiết tách pha rắnC18, phản ứng với
anhydrit benzoic ở 500C trong 5 phút và với 1,2,4-triazol, dung dịch thủy ngân (II )
clorua có pH = 9 ở 650C trong 10 phút. Các hợp chất dẫn xuất được tách rửa trên một cột
C18 với pha động chứa acetonitril và đệm phosphat (pH=6; 0,1 mol/L) được nạp với natri
thiosunfat và cặp ion tetrabutylammonium-hydro sunfat. Giới hạn phát hiện phương pháp
là khoảng 3-11 µg/l.
1.2.3. Phương pháp phổ hồng ngoại
1.2.3.1.Nguyên tắc phương pháp phổ hồng ngoại FTIR
Phương pháp phân tích phổ hồng ngoại (FTIR) là một trong những kỹ thuật phân tích rất
hiệu quả.Các hợp chất hoá học có khả năng hấp thụ chọn lọc bức xạ hồng ngoại.Sau khi
hấp thụ các bức xạ hồng ngoại, các phân tử của các hợp chất hoá học dao động với nhiều


tần số dao động và xuất hiện dải phổ hấp thụ gọi là phổ hấp thụ bức xạ hồng ngoại. Các
đám phổ khác nhau có mặt trong phổ hồng ngoại đặc trưng cho các nhóm chức và các
liên kết có trong phân tử . Do vậy, phổ hồng ngoại của một hợp chất hoá học coi như
"dấu vân tay", có thể căn cứ vào đó để nhận dạng chúng.
Một trong những ưu điểm quan trọng nhất của phương pháp phổ hồng ngoại vượt
trội hơn những phương pháp phân tích cấu trúc khác (nhiễu xạ tia X, cộng hưởng từ điện

tử vv…) là phương pháp này cung cấp thông tin về cấu trúc phân tử nhanh, không đòi hỏi
các phương pháp tính toán phức tạp. Phổ hấp thu hồng ngoại là phổ dao động quay vì khi
hấp thu bức xạ hồng ngoại thì cả chuyển động dao động và chuyển động quay đều bị kích
thích.
Bản chất của phương pháp phổ hồng ngoại là dựa trên hiện tượng các hợp chất hóa
học có khả năng hấp thụ chọn lọc các bức xạ hồng ngoại. Các phân tử chỉ có khả năng
hấp phụ bức xạ hồng ngoại khi chúng phải thỏa mãn 2 yếu tố:
- Một là tần số dao động tự nhiên của một phần phân tử (các nguyên tử và các liên
kết trong phân tử) bằng chính tần số dao động của bức xạ tới.
- Hai là một phân tử chỉ hấp thụ bức xạ hồng ngoại khi nào sự hấp thụ đó gây nên
sự biến thiên momen lưỡng cực của chúng.
Do sự hấp thụ chọn lọc này mà khi chiếu chùm bức xạ điện từ với một dải tần số
khác nhau đi qua môi trường vật chất thì sau khi đi qua, chum bức xạ này sẽ bị mất đi
một số bức xạ có tần số xác định nghĩa là các tia này đã bị hấp thụ.
*Các vùng phổ hồng ngoại
Phổ hồng ngoại thường được ghi với trục tung biểu diễn độ truyền qua T hoặc độ
hấp thụ A, trục hoành biểu diễn số sóng (cm-1).
- Độ truyền qua T: là tỷ số của cường độ bức xạ truyền qua và cường độ bức xạ tới.
- Độ hấp thụ ánh sáng (A): là logarit thập phân của nghịch đảo độ truyền quang.
Bức xạ hồng ngoại là một vùng bức xạ điện từ có độ dài bước sóng từ 0,8 đến 1000µm và
chia thành ba vùng:
- Vùng hồng ngoại gần (near infrared): 12500-4000 cm-1 (λ = 0,8–2,5µm)


- Vùng hồng ngoại trung (medium infrared): 4000-400 cm-1 (λ = 2,5–50µm)
- Vùng hồng ngoại xa (far infrared): 400-10 cm-1 (λ = 50-100µm).
Hầu hết các nhóm nguyên tử trong các hợp chất hữu cơ hấp thụ ở vùng 4000-650cm -1.
1. Vùng hồng ngoại gần (NIR):

Trong vùng 12500 cm -1 -4000 cm-1 có rất nhiều đám phổ có liên quan đến nguyên

tử H. Trong số đó, dao động co giãn (bội) của O-H gần 7140 cm -1 và N-H gần 6667 cm-1,
đám phổ tổ hợp do các dao động co giãn và dao động biến dạng của C-H của nhóm ankyl
ở 1548 cm-1 và 3856 cm-1..
Độ hấp thụ của đám phổ NIR thấp hơn từ 10 đến1000 lần so với các đám phổ vùng hồng
ngoại giữa.Vùng NIR có thể ghi được với hệ quang học thạch anh, kết nối với các detectơ
nhạy với NIR và nguồn bức xạ mạnh hơn.
Vùng hồng ngoại trung :



Vùng này được chia thành vùng "tần số nhóm" 4000 – 1300 cm -1 và vùng"dấu vân tay"
1300 - 650 cm-1. Trong khoảng 4000 – 2500 cm-1 sự hấp thụ đặc trưng cho dao động co
giãn của H với các nguyên tố khối lượng < 19.
Phần chủ yếu trong phổ giữa 1300 và 650 cm -1, là các tần số co giãn của liên kết
đơn và tần số các dao động uốn (các tần số bộ khung) của hệ nhiều nguyên tử. Đó là
vùng "nhận dạng" "(vùng "dấu vân tay").Vùng phổ này hết sức đa dạng, khó cho việc
nhận biết riêng rẽ các đám phổ một cách chắc chắn, nhưng kết hợp các đám phổ hấp thụ,
giúp cho việc nhận biết các chất.
Vùng hồng ngoại xa:



Vùng 667 – 10cm -1 bao gồm các dao động biên dạng của C, N, O, F với các nguyên
tử khối lượng > 19 và các dao động biến dạng trong hệ thống mạch vòng hoặc chưa no.
Vùng dao động tần số thấp trong phổ hồng ngoại rất nhạy đối với sự thay đổi cấu trúc
phân tử, bởi vậy đám phổ vùng hồng ngoại xa thường cho phép dự đoán các dạng đồng
phân.


1.2.3.2. Cách chuẩn bị mẫu đo hồng ngoại

Một trong các lợi thế vượt trội của phương pháp phổ hồng ngoại (FTIR) là có thể phân
tích được hầu hết các dạng vật chất như: chất lỏng, dung dịch, bột nhão, bột khô, phim,
sợi, khí và các bề mặt…
Các kỹ thuật chụp gồm: truyền qua, phản xạ, tán xạ, phản xạ suy giảm toàn phần
trong đó kỹ thuật truyền qua được sử dụng nhiều nhất.
Phổ FTIR của các hợp chất có thể được ghi ở pha hơi, pha lỏng hay ở pha rắn:


Mẫu ở thể rắn: Có ba cách đo khi mẫu ở thể rắn:

- Màng nhão: Nghiền nhỏ vài mg chất nghiên cứu với một vài giọt parafin lỏng (nujol) và
ép phần thu được giữa hai tấm NaCl. Để tránh các đỉnh pic hấp thụ mạnh của parafin ở
2950-2850 cm -1 và 1450-1350 cm -1 khi khảo sát sự hấp thụ của các nhóm C-H, người ta
có thể thay parafin bằng hexaclo 1,3-butadien.
- Màng bột: Mẫu được trộn với dung môi, sau đó phết lên bề mặt cửa sổ KBr hoặc NaCl,
chờ đến khi dung môi bay hơi hết tạo thành một lớp màng bột trên cửa sổ thì tiến hành đo
mẫu. Yêu cầu đối với dung môi là không tác dụng với chất đo, dễ bay hơi và phải khan
nước.
- Mẫu ép màng KBr: Trộn mẫu thật đồng đều với KBr, rồi ép thành các viên mỏng trong
suốt bằng máy ép thuỷ lực. Do KBr có tính hút ẩm, trên phổ hồng ngoại thường xuất hiện
các vân hấp thụ của nước ở 3450 cm -1. Khi dùng KBr cũng cầu lưu ý đến khả năng xảy
ra phản ứng trao đổi cation hoặc anion trong trường hợp chất nghiên cứu là muối hoặc
phức chất vô cơ.
• Mẫu dạng màng lỏng:

Khi mẫu ở thể lỏng tinh khiết, người ta có thể chuẩn bị mẫu bằng cách nhỏ một giọt chất
lỏng giữa hai tấm NaCl để có một màng mỏng dày khoảng 0,01-0,1mm, gọi là màng


lỏng. Đây là kỹ thuật ghi phổ đơn giản nhất, thường sử dụng cho chất lỏng có độ nhớt

cao và ít bay hơi.
• Mẫu dung dịch :

Hoà tan chất nghiên cứu bằng dung môi thành dung dịch có nồng độ 1-5%. Cho
dung dịch và dung môi nguyên chất vào hai cuvet có bề dày 0,1-1,0 mm và bằng việc so
sánh hai chùm tia đi qua dung dịch và dung môi có thể loại được vân hấp thu của dung
môi.Kỹ thuật thường sử dụng cho các chất lỏng có độ nhớt thấp và dễ bay hơi.Dung môi
không được phép hấp thụ quá 65% bức xạ chiếu vào vì cường độ bức xạ còn lại sẽ quá
yếu. Ngoài ảnh hưởng do bản chất của dung môi, cũng cần lưu ý đến bề dày của cuvet.
Một số dung môi thường sử dụng là CCl 4, CHCl3, CH2Cl2, Cl2C=CCl2… Mặc dù vùng
không hấp thu của CHCl3 hẹp hơn CCl4 nhưng khả năng hoà tan các chất của CHCl 3 tốt
hơn nên thường được sử dụng nhiều hơn. Đặc biệt là có thể đo dung dịch đặc hơn trong
các cuvet có bề dày nhỏ hơn. Các cuvet thường có cửa sổ bằng NaCl, KBr, CaF 2 hoặc
AgCl thì cửa sổ sẽ bị đen sau một thời gian sử dụng.
• Mẫu ở thể hơi:

Khi mẫu ở thể hơi, hơi sẽ được đưa vào một cuvet dạng ống có chiều dài khoảng 10 cm
với hai đầu ống được bịt bằng các tấm NaCl hoặc KBr.
Trong thực tế, để phân tích các chất hữu cơ phức tạp, người ta thường sử dụng máy hồng
ngoại được ghép với máy sắc kí khí.Trong hệ thống sắc kí khí-hồng ngoại (GC/IR), sau
khi được tách bằng máy sắc kí khí, mỗi hợp phần đi ra từ cột sắc kí (tương ứng với mỗi
pic trên sắc kí đồ) sẽ được ghi phổ hồng ngoại (thường dùng FTIR) và được lưu giữ trong
bộ nhớ của máy tính. Máy có thể in ra những phổ đồ hồng ngoại của các hợp phần ứng
với các pic trên sắc kí đồ mà ta quan tâm. Nhờ so sánh các phổ mẫu với thư viện phổ
chuẩn lưu trong máy tính, máy có thể chỉ rõ cấu tạo của các hợp chuẩn hoặc cho biết các
nhóm chức có mặt trong hợp phần đó.
1.2.3.2. Ứng dụng của phương pháp phổ dao động
* Định tính các chất
Trước khi ghi phổ hồng ngoại, nói chung ta đã có thể có nhiều thông tin về hợp chất
hoặc hỗn hợp cần nghiên cứu, như: trạng thái vật lý, dạng bên ngoài, độ tan, điểm nóng



chảy, điểm cháy. Nếu có thể thì cần biết chắc mẫu là chất nguyên chất hay hỗn hợp. Sau
khi ghi phổ hồng ngọai, nếu chất nghiên cứu là hợp chất hữu cơ thì trước tiên nghiên cứu
vùng dao động co giãn của H để xác định xem mẫu thuộc loại hợp chất vòng thơm hay
mạch thẳng hoặc cả hai. Sau đó nghiên cứu các vùng tần số nhóm để xác định có hay
không có các nhóm chức. Trong nhiều trường hợp việc đọc phổ (giải phổ) và tìm các tần
số đặc trưng không đủ để nhận biết một cách toàn diện về chất nghiên cứu, nhưng có lẽ là
có thể suy đoán được kiểu hoặc loại hợp chất. Cũng cần tránh khuynh hướng cố gắng giải
và gán cho mọi đám phổ quan sát thấy, nhất là những đám phổ vừa và yếu trong vùng
phổ phức tạp. Mỗi khi phát hiện một loại chất, người ta so sánh phổ của chất nghiên cứu
với phổ của chất nguyên chất tương ứng để có thể nhận định đúng.


Xác định độ tinh khiết sản phẩm

Phổ hồng ngoại được dùng để xác định độ tinh khiết của các chất.Phổ hồng ngoại của
chất không tinh khiết thì thường độ rõ nét của đám phổ riêng biệt bị giảm, sự xuất hiện
thêm các đám phổ sẽ làm "nhoè" phổ [3].Khi tạp chất hấp thụ mạnh IR mà ở đó thành
phần chính không hấp thụ hoặc hấp thụ yếu thì việc xác định rất thuân lợi.


Phân tích định lượng

Phương pháp phổ hồng ngoại (FTIR) còn có thể được ứng dụng trong phân tích định
lượng một chất trong dung dịch hoặc hỗn hợp. Khả năng ứng dụng phổ FTIR để phân
tích định lượng phụ thuộc trang thiết bị và trình độ của các phòng thí nghiệm. Ngày nay,
sự ra đời của các máy quang phổ hồng ngoại hiện đại, sự tăng tỷ lệ tín hiệu/nhiễu làm cho
việc phân tích định lượng càng thêm chính xác và do đó mở rộng được phạm vi phân tích
định lượng. Khi chiếu chùm bức xạ hồng ngoại đi qua một lớp mỏng vật chất, thì sau khi

đi qua cường độ bức xạ bị giảm do bị khuếch tán hay hấp thụ trong lớp mỏng vật chất.
Trong một vùng sóng nhất định thì độ hấp thụ hay mật độ quang đều tỷ lệ tuyến tính với
nồng độ dung dịch.
Nguyên tắc chung của phân tích định lượng bằng phổ hồng ngoại là thiết lập mối quan hệ
giữa tỷ số I0/I ở một bước sóng nhất định với nồng độ chất.
Theo định luậnt Lambert-Beer:
lg (I0/I)λ = ελ.d C
Trong đó: Io, I: Cường độ bức xạ hồng ngoại trước và sau khi qua mẫu.


ελ – Hệ số hấp thụ
C – Nồng độ
d – Chiều dày lớp dung dịch hay chiều dày cuvet.
Do vậy, dựa vào phương trình này có thể xác định được hàm lượng của một chất
trong hỗn hợp và độ chuyển hóa của một phản ứng dựa vào cường độ của một đỉnh píc
đặc trưng cho nhóm chức có trong chất đó.
1.3.Ứng dụng của phương pháp phổ hồng ngoại để xác định nhóm kháng sinh βLactam
1.3.1. Kỹ thuật đo hồng ngoại định lượng một hoạt chất trong thuốc
Andréia de Haro Moreno và cộng sự [18]cũng đã tiến hành định lượng Ceftazidime bằng
phương pháp phổ hồng ngoại trên các mẫu dược phẩm dạng bột để tiêm bằng việc khảo
sát cường độ hấp thụ của các đỉnh pic đặc trưng cho vòng thơm trong vùng 1475-1600
cm-1. Kết quả cho thấy tá dược không làm ảnh hưởng đến độ chính xác của phép phân
tích . Đường chuẩn được thiết lập trong khoảng nồng độ 0,5 – 0,7 mg, phần trăm hiệu
suất thu hồi 98.98 ± 0.70.
Tác giả Macedo Vieira cùng các cộng sự [20] đã sử dụng phương pháp phổ hồng
ngoại để định lượng cefuroxime (CFU) dạng bột dùng để tiêm, phương pháp này đo
cường độ hấp thụ của các đỉnh pic hấp thụ đặc trưng cho vòng thơm trong vùng từ 14751600 cm-1. Khoảng tuyến tính được xác định từ 5,0-20,0 μg.ml -1 (phương trình hồi qui: y
= 0,5053x + 0,0114; r2 = 0,9991). Độ chính xác của phương pháp được cho là tốt với giá
trị RSD gần 2 %, không lớn hơn 5%.
Eliane Gandolpho Tótoli và cộng sự [21] cũng đã phân tích định lượng Natri

Ampicillin dạng bột dùng để tiêm bằng phương pháp phổ FTIR bằng đo cường độ hấp
thụ các đỉnh pic đặc trưng cho các nhóm cacbonyl trong phân tử trong vùng 1800 -1700
cm-1. Hệ số tuyến tính r2 = 0,9993, trong khoảng nồng độ 1- 3mg/viên.
1.3.2. Các ứng dụng của phổ hồng ngoại kết hợp với Chemometric để định lượng
thuốc kháng sinh β – lactam.
Kết hợp phổ hồng ngoại FTIR với Chemometric đã trở thành một công cụ mạnh cho
ngành công nghiệp dược phẩm, phù hợp cho việc phân tích các mẫu dược phẩm cả dạng


rắn cũng như dạng lỏng. Đồng thời, phổ hồng ngoại còn có thể sử dụng trong quá trình
kiểm soát chất lượng dược phẩm.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình trên thế giới nghiên cứu theo hướng này và đã
đạt được những thành tựu nhất định trong việc định lượng nhóm thuốc kháng sinh β –
Lactam. Phương pháp này được đánh giá có nhiều ưu điểm như không tốn dung môi,
không cần phá mẫu mà vẫn phân tích trực tiếp được các mẫu rắn, giá thành phân tích thấp
phù hợp kiểm định nhanh các loại thuốc đang lưu hành trên thị trường hiện nay.
Eliane Gandolpho Tótoli và cộng sự [21] đã sử dụng phương pháp phổ hồng ngoại
chuyển Fourier FTIR để phân tích định lượng bột natri ampicillin. Phương pháp này
không sử dụng dung môi hữu cơ là một ưu điểm vượt trội hơn so với các phương pháp
phân tích khác, thực tế đã đóng góp làm giảm lượng dung môi hữu cơ thải ra môi trường.
Hàm lượng bột natri ampicillin trong mẫu phân tích được xác định bằng cường độ hấp
thụ của đỉnh pic đặc trưng cho nhóm cacbonyl trong vùng 1800-1700 cm -1. Độ chính xác
của phương pháp này đã được đánh giá qua độ tuyến tính r 2 = 0,9993 của đường chuẩn
trong khoảng nồng độ 1,0 - 3,0 mg/viên, giới hạn phát hiện và định lượng lần lượt
0,13mg, 0,4 mg. [18]
Tác giả Graciele ParisottoI [24] đã tiến hành xác định hàm lượng Amoxicillin trong các
mẫu thuốc dược phẩm sử dụng phổ hồng ngoại gần NIR kết hợp với phương pháp bình
phương tối thiểu từng phần (PLS). Mô hình thực nghiệm: có 24 mẫu chuẩn được trộn với
tinh bột trong đó 17 mẫu được sử dụng mô hình chuẩn, 7 mẫu dùng cho mô hình đánh
giá. Các hoạt chất được trộn tạo ra các mẫu chuẩn có nồng độ nằm trong khoảng 76.7 –

94.3% (w/w). Quá trình phân tích dữ liệu phổ sử dụng máy quang phổ Nicolet Magna
550 FTIR với độ phân giải 4 cm -1, 32 lần quét. Mô hình tốt nhất chỉ ra có r 2 = 0,9936,
RMSEC = 0,441 và RMSEV = 0,790.
Tác giả Michaela Dračková1 [31] cũng sử đã sử dụng phương pháp phổ hồng ngoại
gần biến đổi Fourie ( FT-NIR) kết hợp với phương pháp bình phương tối từng phần PLS
để xác định hàm lượng dư Penicillin G và Cloxacillin trong sữa tươi. Phổ được đo trong
vùng 4000 – 10.000 cm-1, 100 lần quét. Mô hình chuẩn được phát triển, đánh giá dựa trên
hệ số tương quan (R) và sai số chuẩn (SEC). Giá trị thu được đối với Penicillin: R= 0,951
và SEC = 0,004 và đối với Cloxacillin: R = 0,871, SEC = 0,007. Các mô hình chuẩn
được sau đó được đánh giá chéo. Tuy nhiên phương pháp phổ này không phải là một


phương pháp thích hợp để xác định chính xác các chất này trong sữa tươi vì sự thay đổi
thành phần sữa có thể ảnh hưởng đến giới hạn phát hiện chất ở nồng độ thấp.
Tác giả YanYun Li [37]sử dụng phương pháp hồng ngoại xây dựng mô hình định
lượng xác định natri cefazolin ở các dạng tinh thể khác nhau. Các natri cefazolin có thể
được tạo ra từ hai dạng tinh thể α và β. Các sản phẩm vô định hình được sản xuất từ quy
trình sản xuất khác nhau đã tạo ra các loại thuốc đa hình thường có tính chất vật lí, hóa
học khác nhau.Phương pháp phổ hồng ngoại gần kết hợp với phương pháp Chemometric
đa biến được xem là công cụ hữu hiệu cho việc xác định các tinh thể trong việc lựa chọn
các dãy quang phổ tối ưu tương ứng với dạng tinh thể đặc trưng với thành phần đặc
trưng. Các kết quả cho thấy các bước sóng nằm trong khoảng 9102 – 8597 cm -1 được
dùng để xác định đặc tính và dãy sóng 6001– 5496 cm -1 đươc dùng để định lượng natri
cefzolin.
Như vậy thực tế phân tích cho thấy, các phương pháp truyền thống như HPLC, phương
pháp quang học hay phương pháp phổ hồng ngoại thường chỉ được dùng để xác định các
hoạt chất ở dạng riêng rẽ, không thể dùng xác định đồng thời đồng thời các hoạt chất có
cấu trúc phân tử gần giống nhau trong cùng nhóm có trong cùng mẫu thuốc. Do đó
Chemometrics là công cụ hữu hiệu để xác định đồng thời các hoạt chất trong cùng mẫu
mà không cần phải tách loại.



CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Chất phân tích.
• Penicillin V (phenoxymethyl penicillin)

Công thức phân tử: C6H18N2O5S; Tên quốc tế, tên khoa học: axit (2S, 5R, 6 R) 3,3
dimethyl – 7- oxo – 6 ( 2 phenoxyacetamido] 4-thia – 1- azabicyclo [3,2,0] heptan – 2
carboxylic.
Penicilin V là chất bột kết tinh trắng, khó tan trong nước, dễ tan trong etanol 96%,
không tan trong dầu và paraffin lỏng [4], được sản xuất bằng nuôi cấy chủng Penicillium
notatum hoặc các chủng cùng họ trong môi trường có chứa tiền chất thích hợp hay bằng
các phương pháp khác. Tổng hàm lượng của phenoxylmethylpenicillin và 4hydroxymethylpenicillin phải từ 95% đến 100,5 %, tính theo chế phẩm khan.
Cephalexin.
Công thức phân tử: C16H17N3O4S.H2O; Tên quốc tế, tên khoa học: axit 7 (α amino


αphenylacetamido) 3 methylcephem – 4- carboxylic monohyrat.
Cephalexin là chất bột kết tinh trắng hơi có mùi lưu huỳnh, tan ít trong nước, tan
trong các dung dịch kiềm loãng, không tan trong etanol [4,6], được điều chế bằng con
đường tổng hợp hóa học.
2.1.2. Mẫu phân tích

Mẫu phân tích là các thuốc kháng sinh nhóm kháng sinhβ-lactam.Thành phần chính
của thuốc là hoạt chất và tá dược.
Tá dược là các chất không hoạt tính được lựa chọn để xây dựng công thức bào chế cùng
với các thành phần hoạt chất khác của thuốc, nhằm mục đích xây dựng công thức bào chế
thuốc. Tá dược cũng có ích cho các quá trình sản xuất, pha chế thuốc như làm tăng độ
hòa tan của thuốc, làm tăng tính chất trơn chảy của hạt thuốc (dập viên, đóng nang), tá

dược còn đóng vai trò quan trọng trong độ ổn định của thuốc (dược chất, dạng bào chế)
giúp thuốc đạt được tuổi thọ như mong muốn.
Các thuốc kháng sinh nhóm penicillin có tá dược chính là magie stearate, tinh bột sắn,
talc, gelatin; Các thuốc kháng sinh nhóm cephalosporin có thành phần tá dược chính là
tinh bột,lactoza, magie stearate, talc, tinh bột, natri glycolat.


Một số mẫu thuốc phân tích:
Mẫu 1: Hoạt chất Penicillin V:


Hinh 1.1: Thuốc kháng sinh penicillin
Tên thuốc: PEN-VEE-K; VEETIDS…
Dạng dùng: Viên nén 125mg, 250mg, 500mg… Dung dịch uống: 125mg/5ml,
250mg/5ml.
Thành phần hoạt chất: Phenoxymethylpenicilin Kali
Tá dược thường dung: Amidon, bột talc, magnesistearat, tinh bột.
Mẫu 2: Hoạt chất Cephalexin:

Hình 1.2: thuốc kháng sinh cephalexin
Tên thuốc: Cephalexin
Dạng dùng : Nang và viên nén 250 mg, 500 mg; viên nén 1 g. Nhũ dịch 125 mg, 250
mg/5 ml (sau khi pha thêm nước cho chế phẩm). Siro 250 mg, 500 mg/5 ml (sau khi pha
thêm nước cho chế phẩm). Thuốc giọt dùng cho trẻ em 125 mg/1,25 ml (sau khi pha
thêm nước cho chế phẩm).
Thành phần: Cephalexin monohydrate
Tá dược: Tinh bột mì,lactoza,Magie stearate.
2.2. Hóa chất và dụng cụ thí nghiệm
2.2.1. Hóa chất
• Tên chất chuẩn


Chất chuẩn Penicillin V Kali C 6H18N2O5S có hàm lượng nguyên trạng 98,6%.Viện
kiểm nghiệm trung ương (chuẩn phòng thí nghiệm), số kiểm soát: 0104011.
Chất chuẩn Cephalexin monohydrat C 16H17N3O4S có hàm lượng nguyên trạng
94,33%, Viện kiểm nghiệm trung ương (chuẩn phòng thí nghiệm), số kiểm soát :
0108041.
- KBr dùng cho hồng ngoại (Merck)
- Tinh bột sắn (Nhà máy sản xuất tinh bột mì Quảng Ngãi), đạt tiêu chuẩn đã kiểm tra

theo DĐVN 4


×