Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

giải pháp thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương sang thị trường nhật bản đến 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 53 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
------------------------

Sinh Viên: TRỊNH QUỐC LONG
Lớp:
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY KINH DOANH
XUẤT KHẨU CÁ NGỪ ĐẠI DƢƠNG VIỆT NAM SANG THỊ
TRƢỜNG NHẬT BẢN ĐẾN NĂM 2020

Ngành

: Kinh doanh quốc tế

GVHD

: ThS. VĂN ĐỨC LONG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
XK: Xuất khẩu
NK: Nhập khẩu
Đvt: Đơn vị tính
KL: Khối lượng
GT: Giá trị
USD: Đô la Mỹ


HS: Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa
DN: Doanh nghiệp
XTTM: Xúc tiến thương mại
JETRO: Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản
MAFF: Bộ Nông Lâm Thủy sản Nhật Bản
MOF: Bộ Tài chính Nhật Bản
ITC: Trung tâm Thương mại Quốc tế
EU: Liên minh Châu Âu
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới
VASEP: Hiệp hội chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam
VJEPA: Hiệp định đối tác kinh tế song phương Việt - Nhật
CBPG: Chống bán phá giá
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEM: Diễn đàn hợp tác Á – Âu
APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
NAFIQAD: Cục quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ lâu, các sản phẩm thủy hải sản đã xác lập vị thế là một trong những mặt hàng xuất
khẩu quan trọng bậc nhất của Việt Nam và được Chính phủ quy hoạch để tiếp tục giữ
vững vai trò đặc biệt quan trọng này trong giai đoạn sắp tới, góp phần không nhỏ vào
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Năm 2014, tổng giá trị xuất khẩu thủy
sản nước ta đạt mốc 7,84 tỷ USD. Riêng 9 tháng đầu năm 2015, thủy sản đem về cho nền
kinh tế nước ta 4,77 tỷ USD (cục Hải Quan Việt Nam), giảm 16,5% so với cùng kì năm
2014. Trong đó, không thể không nhắc đến các sản phẩm cá ngừ đại dương, một trong ba
mặt hàng hải sản xuất khẩu quan trọng nhất bên cạnh tôm và cá basa. Năm 2014, Việt
Nam xuất khẩu cá ngừ đại dương sang 99 thị trường với giá trị cả năm đạt 484 triệu USD.

Với nguồn cá ngừ đại dương tự nhiên vô cùng dồi dào, kinh nghiệm đánh bắt cá ngừ lâu
năm của ngư dân Việt Nam, cộng thêm việc được đưa vào chiến lược phát triển thủy sản
đến năm 2020, ngành khai thác, sản xuất và xuất khẩu cá ngừ hứa hẹn sẽ tiếp tục duy trì
và củng cố vị trí quan trọng của mình trong ngành thủy sản nói riêng và toàn bộ nền kinh
tế nói chung trong một thời gian dài sắp tới.
Nói đến cá ngừ đại dương thì không thể không nhắc tới thị trường xuất khẩu thủy lớn thứ
3 và giàu tiềm năng nhập khẩu mặt hàng này là Nhật Bản.Có thể nói, Nhật Bản đang là
thị trường tìm năng nhất đối với mặt hàng cá ngừ đại dương xuất khẩu. Đặc biệt là nhu
cầu cá ngừ tươi(Sashimi) của người dân Nhật rất lớn và ngày càng tăng. Mặc dù vậy,
xuất khẩu cá ngừ đại dương sang thị trường Nhật Bản cũng còn gặp rất nhiều khó khăn,
nhất là trong việc phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, sự
cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, cùng cách khai thác và đánh bắt cá theo lối truyền
thống, thiếu cơ sở khoa học và do đó hạn chế chất lượng và tính cạnh tranh của các sản
phẩm cá ngừ đại dương…Những thách thức đó đang
đòi hỏi sự hợp tác đồng bộ giữa Chính phủ; các bộ-ban-ngành có liên quan; các doanh
nghiệp sản xuất, xuất khẩu cá ngừ đại dương và ngư dân bên cạnh việc hoạch định chiến
lược phát triển rõ ràng để giúp sản phẩm cá ngừ đại dương của nước nhà tiếp tục củng cố
vị trí và tăng trưởng trên thị trường khó tính này. Trước tình hình đó, tác giả đã quyết
định chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu cá ngừ
đại dƣơng sang thị trƣờng Nhật Bản đến năm 2020”, nhằm tìm ra các giải pháp cụ thể
phát huy những điểm mạnh thúc đẩy xuất khẩu, phát triển nghề khai thác cá ngừ đại
dương, đồng thời khắc phục những hạn chế, điểm yếu còn tồn tại trong quá tình xuất
khẩu cá ngừ đại dương, đặc biệt xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
2. Mục tiêu nghiên cứu


Thứ nhất: hệ thống lại những vấn đề lý thuyết xuất khẩu hàng hóa trong nên kinh tế hội
nhâp.
Thứ hai: đánh giá sự cần thiết thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương sang thị
trường Nhật Bản.

Thứ ba: phân tích thực trạng xuất khẩu cá ngừ đại dương Việt Nam sang thị trường Nhật
Bản.
Thứ tƣ: đánh giá Cơ hội và thách thức hoạt động kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương
Việt Nam đến năm 2020.
Thứ năm: đề xuất một số kiến nghị được rút ra từ kết quả nghiên cứu hỗ trợ cho việc
hoạch định, xây dựng chiến lược thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương sang
thị trường Nhật Bản đến năm 2020.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tập chung nghiên cứu quá trình kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại
dương và một số vấn đề có liên quan đến kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương.
4. Phạm vi nghiêm cứu
Phạm vi không gian: Hoạt động kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương của doanh
nghiệp Việt Nam, thị trường xuất khẩu cá ngừ đại đương là Nhật Bản
Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến tháng 9/2015 và dự báo đến năm 2020
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Áp dụng phương pháp khảo sát thực tế về nhu cầu, sự quan tâm đến cá ngừ đại dương.
Phân tích thống kê miêu tả số liệu thứ cấp của các hiệp hội, cơ quan, tổng cục có cơ sở dữ
liệu liên quan. Tham khảo ý kiến chuyên gia Thương Mại có chuyên môn cao cùng một
số phương pháp khác.
6. Kết cấu nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận, đề tài gồm 4 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản về khai thác kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương
Việt Nam.
Chƣơng 2: Thị Trường Nhật Bản về Cá Ngừ đại dương.
Chƣơng 3: Thực trạng khai thác – kinh doanh, kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương
Việt Nam sang thị trường Nhật.
Chƣơng 4: Một số giải pháp thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương sang thị
trường Nhật Bản.



CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHAI THÁC, KINH DOANH XUẤT
KHẨU CÁ NGỪ ĐẠI DƢƠNG VIỆT NAM
1.1Xuất khẩu hàng hóa xu thế hội nhập toàn cầu.
1.1.1 Khái niệm kinh doanh xuất khẩu
“Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào
khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật”, trích điều 28 Luật Thương Mại Việt Nam số 36/2005/QH11.
Kinh doanh xuất khẩu là hoạt động kinh doanh hàng hóa từ quốc gia này sang quốc gia
khác nhằm thu lợi nhuận.
Trong thời kỳ kinh tế toàn cầu hiện nay, xuất khẩu và nhập khẩu phản ánh mối quan hệ
thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong khu vực và thế giới. Là nguồn thu chi
ngoại tệ chủ yếu của một quốc gia khi tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế.
Thông qua xuất khẩu sẻ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng
trao đổi và thúc đẩy tận dụng lợi thế so sánh, tiềm nằng giữ các quốc gia, tạo cơ hội phát
triển.
1.1.2 Vai trò
1.1.2.1 Đối với nền kinh tế Việt Nam
Xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ chính phục vụ phát triển.
Năm 2014, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 298,24 tỷ USD trong đó kim ngạch xuất
khẩu đạt 150,19 tỷ USD (tổng cục hải quan) là ngoại tệ lớn nhất trong các nguồn thu
ngoại tệ như kinh doanh du lịch, nhận viện trợ hay vay nước ngoài.
Nguồn ngoại tệ xuất khẩu được làm vốn cho phục vụ nhập khẩu phát triển đất nước như
nhập khẩu phân bón, máy móc nhằm cải thiện năng suất. Nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu
cựu kỳ quan trọng, nếu không có nguồn ngoại tệ xuất khẩu thì nên kinh tế không thể phát
được, nguồn đầu tư phải phụ thuộc vào các nguồn thu ngoại tệ khác như khác nguồn viện
trợ, vay của nước ngoài, ảnh hưởng trực tiếp kinh tế - chính trị.
 Xuất Khẩu giải quyết việc làm.
Hiện nay việc hàng trăm triệu người lao động đang đổ xô về thành phố kiếm việc làm
đã gây ra nhiều vấn đề xã hội và làm cho sự quản lý của nhà nước thêm khó khăn. Nó
cũng chứng tỏ người dân đặc biệt là những người dân ở các vùng nông thôn đang thiếu

việc làm một cách trầm trọng tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi năm 2014 theo tính toán của
tổng cục thống kê là 2,08%. Xuất khẩu đã giải quyết được vấn đề công ăn việc làm, có



khoản 2.149 ngàn lao động trong lĩnh vực dịch vụ xuất khẩu, gần 7.400 ngàn lao động
công nghiệp, chế biến xuất khẩu, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động.
Sự gia tăng đầu tư trong ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu đã tạo điều kiện thúc đẩy sản
xuất trong nước cả về quy mô và tốc độ để có thể đáp ứng được các quy định về tiêu
chuẩn chất lượng hàng hóa ở các thị trường khó tính như Mỹ, EU,… các ngành nghề cũ
được khôi phục và phát triển, nhiều ngành nghề mới ra đời, nhu cầu lao động tăng lên đặc
biệt các ngành sản xuất, chế biến, như ngành dệt may phát triển kéo theo các ngành công
nghiệp phụ liệu như hóa chất, nguyên liệu thô ra đời đáp ứng nguyên liệu cho các các
doanh nghiệp dệt may, góp phần tạo việc làm.
Xuất khẩu là cơ sở thúc đẩy và mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt
Nam và các nước.
Trong kinh tế, xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác có mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau:


Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại đã làm cho nên kinh tế của mỗi quốc gia gắn
chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn
các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳn
hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng hóa thúc đẩy tín dụng, bảo hiểm, thanh toán, vận tải quốc
tế…Ví dụ: khi xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, để phục vụ cho nhu cầu giao
thương hàng hóa giữa 2 quốc gia, các bên phải cùng nhau hợp tác xây dựng những tuyến
tàu xuyên biên giới, cửa khẩu quốc gia vì lợi ich chung, trên cơ sở quá thực trình đó quan
hệ ngoại giao 2 nước được thúc đẩy.
Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại là tiền đề, điều kiện mở rộng xuất khẩu.
Khi các hoạt động kể trên ngày càng phát triển và hiện đại, sẽ tạo sự tiện lợi, nhanh

chóng và dễ dàng hơn cho hoạt động xuất khẩu, do đó xuất khẩu sẽ ngày càng mở rộng
và phát triển.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh
tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong nên kinh tế toàn cầu như hiện
nay, khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới đó là cơ hội lớn cho mỗi quốc
gia trên con đường hội nhập.
1.1.2.2 Đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia và tiếp cận vào thị
trường thế giới. Nếu thành công đây sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp mở rộng thị trường
và khả năng sản xuất của mình.


Xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
sẽ góp phần đẩy mạnh liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước một
cách tự giác, mở rộng quan hệ kinh doanh, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực hiện có, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Sản xuất hàng hoá xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm
việc tạo ra thu nhập ổn định, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho
sản xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Khi tham gia vào kinh doanh quốc tế tất yếu sẽ đặt các doanh nghiệp vào một môi trường
cạnh tranh khốc liệt mà ở đó nếu muốn tồn tại và phát triển được thì đòi hỏi các doanh
nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm.
Đây sẽ là một nhân tố thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2 Tổng quan về khai thác - kinh doanh cá ngừ đại dƣơng.
1.2.1 Giới thiệu khai thác - kinh doanh cá ngừ đại dương Việt Nam
1.2.1.1 Khái Niệm sản phẩm cá ngừ đại dương
Cá ngừ đại dương hay còn gọi cá Bò gù, là loại cá cá lớn và di cư thuộc họ cá Bạc Má
sinh sống chủ yếu ở vùng biển ấm cách bờ độ trên 185 Km.
Sản phẩm cá ngừ đại dương có nhiều loại khác nhau tuy vào nhu cầu về chủng loại, quy
cách, chất lượng của các thị trường và khách hàng đặt hàng. Hiện các dòng sản phẩm cá

ngừ gồm chính:
- Nguyên con, bỏ đầu bỏ nội tạng đông lạnh;
- Thăn cá ngừ có và không xông CO đông lạnh;
- Cắt lát có và không xông CO đông lạnh;
- Cắt miếng có và không xông CO đông lạnh;
- Thăn cá ngừ hấp.
- Cá ngừ hộp.
1.2.1.2 Phân Loại.
Cá ngừ đại dương trên thế giới có 48 loài, có 7 loài được tính là cá ngừu thương mại:
- Cá ngừ vằn
- Cá ngừ vây dài
- Cá ngừ vây vàng
- Cá ngừ vây xanh miền Nam


- Cá ngừ mắt to
- Cá ngừ vây xanh Thái Bình Dương
- Cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương
Ngoài ra cá ngừ đại dương còn được chia làm 2 loại là cá ngừ đại dương Nhiệt đới và Ôn
Đới
- Nhiệt đới: Cá ngừ mắt to, cá ngừ vằn, cá ngừ vây vàng
- Cá ngừu đại dương Ôn Đới: cá ngừ vây dài, cá ngừ vây xanh miền Nam, cá ngừ vây
xanh Đại Tây Dương, cá ngừ vây xanh Thái Bình Dương.
Trong tổng số 4 triệu tấn cá ngừ đánh bắt được hàng năm trên thế giới, có tới 65% sản
lượng khai thác ở Thái Bình Dương, 21% ở ấn Độ Dương và 14% ở Đại Tây Dương,
trong đó, cá ngừ vây vàng chiếm đến 30% và cá ngừ mắt to chiếm khoảng 10% tổng sản
lượng cá ngừ thế giới. Cá ngừ đại dương là một trong các đối tượng khai thác chính của
nghề cá xa bờ. Cá ngừ đại dương ở Việt Nam bao gồm cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to.
1.2.2 Đặt điểm khai thác - kinh doanh cá ngừ đại dương Việt Nam
1.2.2.1 khai thác cá ngừ

a. Cơ cấu tàu và nghề khai thác
Đến tháng 6/2015, số lượng tàu khai thác cá ngừ 3.556 chiếc, trong đó:
Nghề câu vàng và câu tay có 1.760 tàu (Bình Định: 1.034 tàu câu tay, Phú Yên:
550 tàu câu vàng và 18 tàu câu tay, Khánh Hòa có 133 tàu câu tay), nghề lưới vây có 592
chiếc, nghề lưới rê có 1.204 chiếc.
Đvt: Chiếc


Nguồn: Hiệp Hội Cá Ngừ Việt Nam
Hình 1.1 Biểu Đồ số lƣợng tàu khai thác cá ngừ đại dƣơng năm 2015
Tàu khai thác cá ngừ chủ yếu là tàu vỏ gỗ có công suất máy tàu chủ yếu từ 45 CV trở lên.
Đối với tàu câu cá ngừ (câu vàng, câu tay) chủ yếu tàu có công suất từ 90 CV trở lên.
Hầu hết tàu khai thác cá ngừ đều trang bị thiết bị khai thác như: máy thu câu, thu lưới,
máy vô tuyến điện, một số tàu làm nghề lưới vây đã trang bị máy tầm ngư (dò cá).
b. Lao động trong khai thác cá ngừ
Tổng số lao động khai thác cá ngừ khoảng 35.000 người. Số lao động trên tàu khai thác
cá ngừ được bố trí theo từng loại nghề, giao động khoảng 5– 6 người/tàu đối với nghề câu
tay, khoảng 9 – 10 người/tàu đối với tàu câu vàng, tàu lưới rê, 14 – 16 người/tàu lưới vây.
Trên tàu, chủ tàu và thuyền trưởng là người có kinh nghiệm quản lý, điều hành khai thác
và bảo quản sản phẩm, được đào tạo và cấp bằng thuyền, máy trưởng. Đối với thuyền
viên, hầu như chưa được đào tạo, tập huấn về kỹ thuật khai thác và bảo quản sản phẩm,
kiến thức và hiểu biết chủ yếu tích lũy qua thực tiễn sản xuất và học tập lẫn nhau, nên tay
nghề khai thác và bảo quản sản phẩm rất thấp.
c. Công nghệ khai thác


Nghề lƣới vây: là nghề lưới đánh bắt theo nguyên lý lọc nước bắt cá, lưới vây được thả
từ tàu và kéo lên tàu. Lưới vây chuyên đánh cá đi thành đàn và chỉ thả lưới đến một độ
sâu nhất định nào đó
Chiều dài và chiều cao vàng lưới vây tùy thuộc vào ngư trường, phương pháp khai thác,

công suất tàu và không tuân thủ theo một hệ số điều chỉnh nào mà chủ yếu theo kinh
nghiệm. Phương thức khai thác có 02 loại vây ngày và vây đêm kết hợp phương pháp dẫn
dụ bằng ánh sáng. Hầu hết đều không sử dụng chà, chủ yếu khai thác theo kinh nghiệm.
Tất cả các tàu lưới vây đều trang bị tời kéo lưới, thiết bị định vị. Hiện nhiều tàu đã trang
bị thiết bị tầm ngư, khoảng trên 50% tàu có trang bị máy thu lưới.
Nghề lƣới rê: là nghề lưới theo phương pháp bị động, lưới trôi theo dòng chảy hoặc được
thả chắn ngang đường đi của cá và một số loài thủy sản khác khi gặp lưới chúng mắc phải
mắt lưới hoặc quấn vào lưới.
Kết câu vàng lưới tùy thuộc vào công suất tàu và ngư trường.
Thao tác và kỹ thuật thả lưới bằng thủ công, công đoạn thu lưới được trang bị máy thu
lưới truyền động bằng thủy lực. Thời gian thả, ngâm, thu lưới tùy thuộc vào chiều dài
vàng lưới, tập quán sản xuất của từng địa phương và tốc độ thả thu lưới và chiều dài vàng
lưới.
Nghề câu cá ngừ:
Có 02 loại: câu vàng và câu tay kết hợp với ánh sáng. Hầu hết các tàu đều được trang bị
máy thu dây câu chính, máy định vị vệ tinh, la bàn, thông tin liên lạc...
Đối với nghề câu vàng:
Kết cấu, kích thước vàng câu phụ thuộc vào quy mô tàu thuyền và trang thiết bị kỹ thuật
cho nghề (chiều dài vàng câu từ 40 – 60km, với số dây câu và lưỡi câu khoảng từ 700 –
1.000 lưỡi); sử dụng là lưỡi câu J hoặc lưỡi câu vòng; thời gian thả, ngâm và thu câu tùy
thuộc số lượng lưỡi câu thả của mỗi tàu.
Đối với nghề câu tay:
Xuất hiện từ cuối năm 2011 đến nay, tàu được trang bị máy phát điện, đèn cao áp, cần,
dây câu, mỗi tàu với 4 – 6 cần câu. Thời gian chuyến biển được rút ngắn bằng khoảng 2/3
thời gian so với câu vàng. Nghề câu tay đạt sản lượng khai thác đạt khá cao. Tuy nhiên,
chất lượng cá ngừ câu tay thấp, tỷ lệ cá ngừ câu tay đạt tiêu chuẩn sashimi chỉ đạt 5 – 6
% lô sản phẩm khai thác được. Nhưng do giảm chi phí di chuyển thu thả câu, giảm chi
phí mồi và thời gian chuyến biển nên hiệu quả của nghề này thường cao hơn nhiều so với
nghề câu vàng truyền thống.



d. Mối quan hệ và các hình thức tổ chức sản xuất
Tổ chức sản xuất trên biển
Đối với đội tàu khai thác cá ngừ nói chung, khoảng 60% tàu hoạt động theo mô hình sản
xuất độc lập, không theo hình thức tổ đội. Một số tàu bán sản phẩm trên biển, một số tàu
gửi sản phẩm cho tàu khác về bờ tiêu thụ, như một số mô hình tàu câu vàng của Tam
Quan, Bình Định. Những tàu khai thác từ 15 ngày trở lên thường được tổ chức dưới dạng
đội sản xuất hoặc có mối liên hệ chặt chẽ với các tàu khác trong địa phương giúp nhau
trong việc vận chuyển sản phẩm về bờ hoặc cung ứng nguyên, nhiên vật
liệu từ bờ ra; đặc biệt giữa nghề lưới vây đêm có mối quan hệ với các tàu câu để kết nối
khi gặp cây trôi (trà nổi) trên biển. Có khoảng 10% tàu khai thác nghề lưới vây khai thác
trong ngày, nhóm tàu này thường ở gần ngư trường vùng lộng và vùng bờ khi cá áp lộng.
Hiện nay sản phẩm khai thác của nhiều tàu lưới vây được bán ngay cho các tàu dịch vụ
thu mua trên biển, nên thời gian bám biển thường đến hết mùa trăng mới về bờ như tàu
của các tỉnh Miển Trung và Miền Nam, đối với các tỉnh Miền Bắc mô hình
này chưa được thực hiện.
Tuy nhiên, do ý thức cộng đồng chưa cao, nên việc hình thức sản xuất theo
tổ đội và tổ chức liên kết sản xuất trên biển còn ở tỷ lệ thấp.
Liên kết khai thác với dịch vụ thu mua trên biển
Hiện nay, ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa có khoảng 295 tàu hoạt động dịch vụ
thu mua sản phẩm khai thác trên biển; trong đó: Bình Định có 02 tàu, Phú Yên có 08 tàu,
Khánh Hòa có 285 tàu. Riêng tỉnh Khánh Hòa có 25 tàu thu mua tại vùng lộng và vùng
khơi. Nhiều tàu lưới vây được bán ngay cho các tàu dịch vụ thu mua này, như các tỉnh
Phú Yên, Khánh Hòa. Các tàu của Bình Định bằng nghề lưới vây hoạt động ở các ngư
trường các tỉnh phía Nam bán sảnphẩm cho các tàu dịch vụ thu mua của các tỉnh Phú
Yên, Khánh Hòa và các tàu thu mua các tỉnh phía Nam. Mô hình tàu dịch vụ thu mua trên
biển ngoài việc mua sản phẩm còn hỗ trợ thao tác trong quá trình thả lưới, cung ứng
nhiên vật liệu và thực phẩm cho tàu khai thác...Hiện nay các mô hình tàu dịch vụ thu mua
trên biển của ngư dân phát huy hiệu quả, tạo điều kiện để tàu khai thác và bám biển dài
ngày, chi phí thấp, hiệu quả được nâng cao rõ rệt, cá được bán và chuyển về bờ nhanh,

chất lượng sản phẩm tốt, giảm tổn thất sau thu hoạch.
1.2.2.2 Thu mua cá ngừ
a. Năng lực thu mua cá ngừ.


Các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa có 36 cơ sở thu mua và 15 doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu thu mua trực tiếp cá ngừ.

Bảng 1.1 Số cơ sở thu các loại cá ngừ đại dƣơng tại 3 tỉnh đánh bắt trọng điểm
Tại các cảng cá, bến cá: Các công đoạn vận chuyển từ tàu lên bờ và đến cơ sở thu mua
đều được thực hiện thủ công; cầu cảng xa, không có mái che, chủ yếu cá mua vào ban
ngày nên hầu hết cá tiếp xúc trực tiếp với nắng. Nhiều cơ sở mới chỉ chấp hành đăng ký
kinh doanh, không đáp ứng yêu cầu về điều kiện kinh doanh như: cơ sở vật chất- kỹ thuật
không đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, thu mua nguyên liệu hải sản; vị trí, mặt bằng
nằm trong khu dân cư; nhiều cơ sở xây dựng nhà xưởng sơ sài, tạm bợ; đội ngũ quản lý
và nhân viên chưa được đào tạo, tập huấn chuyên môn. chất lượng nguyên liệu bị giảm và
tổn thất sau thu hoạch lớn.
b. Cách thức tổ chức, phương thức thu mua, tiêu thụ
Ngư dân không thể bán cá trực tiếp cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuẩt khẩu mà
phải bán thông qua trung gian là đại lý hoặc nậu vựa (thương lái). Việc thiếu vắng các
chợ cá ngừ tại các bến cảng đã không cho ngư dân cơ hội được lựa chọn bạn hàng, cơ hội
có được thông tin minh bạch về giá cá ngừ theo phẩm cấp trên thị trường. Cá ngừ tiêu thụ
được phân phối theo 2 chuỗi xuất khẩu và nội địa.


Hình 1.2 Chuỗi sản phẩm cá ngừ đại dƣơng xuất khẩu

Hình 1.3 Chuỗi sản phẫm cá ngừ đại dƣơng tiêu thụ nội địa



Đối với tàu có sự ràng buộc do vay vốn của chủ nậu vựa thì chủ tàu phải bán sản phẩm
cho chủ vay, đối với tàu không có sự giàng buộc vốn vay thì sau khi khảo sát và thỏa
thuận giá, phương thức nhận hàng thì bán cho cơ sở nào có giá cao và phương thức nhận
hàng phù hợp, chưa có phương thức bán đấu giá cá ngừ.
Hiện nay phương thức mua bán sản phẩm cá ngừ, nhất là cá ngừ đại dương không phù
hợp, tình trạng mua xô, ép cấp, ép giá gây bất lợi lớn cho ngư dân, đã không khuyến
khích và nâng cao trách nhiệm cho ngư dân trong việc bảo quản sản phẩm, nâng cao chất
lượng dẫn đến tổn thất sau thu hoạch lớn cả về chất lượng cũng như giá trị.
Bản thân các Doanh nghiệp, các Đại lý, Nậu vựa phải lo ứng phó với các rủi ro, biến
động thị trường nên luôn đưa ra mức giá dự phòng, thấp hơn so mặt bằng giá trị sản
phẩm, giá cá ngừ đại dương loại 1 chỉ từ 120.000 – 140.000 đồng/kg, còn lại chỉ từ
30.000 – 40.000 đông/ kg. Đây là mâu thuẫn đang tồn tại giữa ngư dân với các nậu vựa
thu mua tiêu thụ cá ngừ. Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết được thông qua việc tổ chức
quản lý đồng bộ hệ thống sản xuất kinh doanh cá ngừ từ khai thác bảo quản, chế biến đến
tiêu thụ và xuất khẩu, đặc biệt chú trọng hình thành cơ sở hạ tầng chợ đấu giá cá ngừ đại
dương để công khai minh bạch các thông tin thị trường, giá cả.
Tại Phú Yên và Khánh Hòa các tổ chức, cá nhân đã mạnh dạn đầu tư cho những con tàu
thực hiện hoạt động thu mua, cung ứng dịch vụ nhiên liệu, nước đá trên biển. Sản phẩm
thu mua chủ yếu là cá ngừ vằn, giá thường thấp hơn giá trong bờ. Tuy nhiên phương thức
này vẫn phù hợp bởi không phải chi phí nhiên liệu để ra ngư trường và vận chuyển sản
phẩm vào bờ, giảm chi phí nước đá bảo quản sản phẩm, nâng cao hiệu suất khai thác và
năng suất chuyến biển.
1.2.3 Vai trò của xuất khẩu cá ngừ đại dương đối với nên kinh tế Việt Nam
Những năm gần đây, cá ngừ đại dương luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
cả nước. Góp phần đem về nguồn thu ngoại tệ và phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia. Tính riêng năm 2014, cá ngừ đã đem về 484 triệu USD (VASEP) cho Việt Nam.
Giải quyết việc làm khu vực Miền Trung, xuất khẩu cá ngừ đã giúp tạo công ăn việc
làm. Nguồn cá ngừ dồi dào và đặc biệt được sự ủng hộ và hỗ trợ của chính phủ. Việc phát
triển nghề cá cũng tạo điều kiện phát triển kinh doanh cho các cơ sở kinh
doanh xăng dầu, đá lạnh, dụng cụ đi biển, đóng tàu, đầu nậu, các công ty kinh doanh và

tiểu thương… Có thể nói nghề câu cá ngừ và xuất khẩu cá ngừ có vai trò vô cùng quan
trọng đối với đời sống nhân dân. Ngày nay, không chỉ ngư dân 3 tỉnh Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa mà tất cả các tỉnh thành trên cả nước có ngư dân tham gia đánh bắt cá
ngừ đại dương đều được lợi từ nghề cá này.
Ngoài ra, việc phát triển nghề câu cá ngừ đại dương, hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ, giúp


ngư dân bám biển… còn góp phần khẳng định và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo
thiêng liêng của tổ quốc ta.
1.2.4 Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến kinh doanh xuất khẩu cá ngừ đại dương Việt
Nam
1.2.4.1 Nhân tố quốc tế
Thị hiếu của các thị trường xuất khẩu ảnh hưởng nhiều đến kết quả xuất khẩu:
Nhìn chung các thị trường chính nhập khẩu cá ngừ đại dương Việt Nam như Mỹ, EU,
Nhật Bản… điều quan tâm đến vấn đề sức khỏe. Người tiêu dùng thích những sản phẩm,
an toàn, vệ sinh, giàu dinh dưỡng, khoán chất, vitamin đặc biệt hàm lượng chất béo ít.
Nhưng nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ đại dương vẫn chưa đáp ứng được các yêu
cầu này, quá khứ Việt Nam nhiều lần bị phát hiện vi phạm tiêu chuẩn an toàn vệ sinh nên
nhiều người tiêu dùng khi lựa chọn sản phẩm Việt Nam còn e dè. Người tiêu dùng ở các
thị trường này chỉ lựa chọn sản phẩm đầy đủ nhãn hiệu về nguồn gốc xuất sứ, mã vạch,
thành phần dinh dưỡng, các điều kiện bảo quản và sử dụng…
Nhanh, tiện lợi là một tiêu chí lựa chọn sản phẩm, do đặt thù lối sống bận rộn ở đa số các
quốc gia nhập khẩu cá ngừ dại dương Việt Nam, yếu tố này ảnh hưởng đến xu hướng tiêu
thụ cá ngừ của Việt Nam, như tại thị trường EU sản phẩm tiện lợi như cá ngừ phile, đóng
hộp, cá ngừ chế biến sẵn chiếm 80% tổng giá trị cá ngừ đại dương xuất qua thị trường
này năm 2014.
Trọng thời kỳ kinh tế khó khăn, thắc lưng buộc bụng như hiện nay giá cả ảnh hưởng rất
lớn đến khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp.
Sự Cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Sự cạnh tranh ở thị trường quốc tế khốc liệt hơn thị trường trong nước rất nhiều. Doanh

nghiệp luôn chịu sức ép từ sự mặc cả khách hàng quốc tế, sự cạnh tranh của các đối thủ
quốc tế, sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế…
Trên thị trường xuất khẩu cá ngừ đại dương có sự cạnh đến chính từ các thị trường nhập
khẩu cá ngừ đại dương của Việt Nam như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Italy và Hy
Lạp…trong đó Tây Ban Nha nằm trong 3 nước có giá trị xuất khẩu cá ngừ lớn nhất thế
giời, nhưng đây không phải đối thủ chính của xuất khẩu cá ngừ Việt Nam do các nước
này chủ yếu nhập nguyên liệu thô từ các nước Châu Á và xuất sản phẩm chế biến cao
cấp, đối thủ chính của Việt Nam là các quốc gia xuất khẩu cá ngừ khác như Thái Lan,
Philippines, Ecuador, Indonexia, El Salvador, Papua New Guina và Mauritius. Như Thái


Lan hiện là nước có giá trị xuất khẩu lớn Nhất năm 2014 vào thị trường Mỹ, EU, Nhật
Bản lần lượt là 35%, 19%, 56% thị phần là đối thủ cạnh tranh lâu đời của Việt Nam. Mỹ
là thị trương nhập khẩu cá ngừ đại dương lớn nhất của Việt Nam, nhưng vẫn chiếm tỷ
trọng nhỏ trong cơ câu thị trường này.

Hình 1.4 Cơ cấu nhập khẩu cá ngừ đại dƣơng của Mỹ năm 2014
Do có đặt thù cá ngừ đại dương chỉ sinh sống ở một số vùng biển, sản lượng đang giảm
dần nên rủi ro xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới là gần như không có. Doanh nghiệp cần
có chiến lược rõ ràng và nguồn lực đủ mạnh nếu muốn vươn xa trên thị trường quốc tế.
1.2.4.2 Nhân tố kinh tế
Kinh tế ảnh hướng rất lớn đến tình hình xuất khẩu cá ngừ đại dương Việt Nam, quyết
định đến nhu cầu và khả năng thanh toán của khác hàng. Khi nên kinh tế thị trường xuất
khẩu tăng trưởng ổn đinh thì thu nhập của người dân ở các thị trường xuất khẩu của Việt
Nam được nâng lên, nhu cầu về sản phẩm sẻ được tăng theo, kéo theo là tăng lượng sản
phẩm xuất khẩu.
Kinh tế phát triển đầu tư nhiều cho cơ sở hạ tầng: đường xá, bến bãi, hệ thống vận tải, hệ
thống thông tin, ngân hàng, bảo hiểm… tạo sự thông thoáng thúc đây nhanh quá trình
xuất khẩu, gao hàng, tạo sự thuận tiện khi xuất khẩu.



Cơ sở hạ tầng phục vụ hậu đánh bắt cực kỳ quan trọng, vì cá ngừ có giá trị cao khi còn
tươi, nên việc đâu tư các cơ sở hạ tậng phục vụ quá trình này là hợp lý, các cơ sở hạ tầng
bến cảng, cầu cảng, cảng cá, cơ sở thu mua, nơi neo đậu thuyên của nước ta tương đối
đồng bộ nhưng chưa đạt hiệu quả cao , các cơ sở này được đầu tư ở các tỉnh có truyền
thống nghề cá ngừ ở miền Trung như cảng cá Thuận Phước (Đà Nẵng), cảng cá Sa
Huỳnh (Quảng Ngãi), cảng cá Tam Quan Bắc (Bình Định), cảng cá Tiên Châu (Phú
Yên)…Đặc biệt trong số này là cảng cá Tiên Châu được đầu tư qui mô nhất, thiết kế ban
đầu của Tiên Châu cho phép cảng tiếp nhận hơn 300 lượt tàu thuyền ra vào mỗi ngày, tức
là tiếp nhận khoảng gần 10000 tấn cá. Song, cảng cá vẫn chưa hoạt động đúng chức năng
của mình khi trở thành một nơi tu sửa tàu thuyền mà chưa thật sự bổ trợ cho hoạt động
khai thác, thu mua cá. Đối với các tàu chuyên đánh bắt cá ngừ đại dương, vốn phải hoạt
động xa bờ nhiều ngày, thì hệ thống các cảng bến neo đậu tàu thuyền xa bờ và bến cảng
được xây dựng kiên cố tại các đảo như tại đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), quần đảo Trường
Sa (Khánh Hòa) đóng vai trò hết sức quan trọng.
Lạm phát là Lạm phát cao các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không đầu tư tái sản xuất mở
rộng và đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất của doanh nghiệp vì các doanh nghiệp sợ
không đảm bảo về mặt hiện vật các tài sản, không có khả năng thu hồi vốn sản xuất hơn
nữa, rủi ro kinh doanh khi xảy ra lạm phát rất lớn. Khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam khó có thể đẩy mạnh xuất khẩu và đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Tỷ giá hối đoái cũng ảnh hướng không hề nhỏ đối với hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp, nó tác động nhanh chóng và sâu sắc với từng quốc gia và từng doanh nghiệp nhất
là trong điều kiện nền kinh tế mở cửa khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu
và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm trên thị trường nội địa.
Các doanh nghiệp trong nước mất dần cơ hội mở rộng thị trường, phát triển sản xuất kinh
doanh. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá dẫn đến xuất khẩu tăng cơ hội sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp trong nước tăng, khả năng cạnh tranh cao hơn ở thị trường
trong nước và quốc tế bởi khi đó giá bán sản phẩm cá ngừ trong nước giảm hơn so với
đối thủ cạnh tranh nước ngoài
1.2.4.3 Nhân tố Chính Trị

Tình hình chính trị ổn định thì thị trường mới được ổn định, khi đó các yếu tố rủi do về
chính trị, bất ổn, chiến tranh ở mức thấp, quá trình xuất khẩu giảm bớt nguy cơ trong quá
trình xuất khẩu như lạm phát, đình trệ về hoạt động kinh tế, thủ tục hải quan,…
Xung đột chính trị giữa các quốc gia là vấn đề nghiệm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến xuất
khẩu khi các quốc gia đó trả đủa bằng thương mại, đặt ra những rào cản, cấm vận.


Tuy nhiên chính trị còn giúp các quốc gia nhích lại gần nhau hơn để hình thành các khối
kinh tế thế giới, khu vực như WTO, AFTA,…tháo bỏ những hàng rào thuế, phi thuế quan
tạo khu vực thuận lợi xuất khẩu cá ngừ đại dương với điều kiện tốt nhất, khi hiệp đinh
TPP có hiệu lực nhiều sản phẩm thủy sản của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản sẻ được
giảm thuế xuống mức 0% trong đó có cá ngừ Việt Nam và giỡ bỏ nhiều hàng rào phi thuế
quan, đó mở ra cơ hội rất lớn cho xuất khẩu cá ngừ đại dương, đồng thời tăng sức cạnh
tranh cho sản phẩm khi có thể cắt giảm chi phí.
1.2.4.4 Nhân Tố pháp luật
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải tuân thủ những quy định của pháp luật như:
- Các quy định của nhà nước đối với việc mua bán hàng hóa quốc tế: luật Thương mại
Việt Nam 1997…
- Các hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia: GATT, GATS…
- Các quy định nhập khẩu hàng hóa mà doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
- Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới xuất khẩu như luật bảo hiểm
quốc tế, luật vận tải quốc tế, quy định về giao nhận hàng…như: Incoterms…
Hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất mơ hồ về các quy định có liên quan
đến vấn đề xuất nhập khẩu mà mình có liên quan, đó làm điểm yếu của các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ nói riêng. Để có thể thuận lợi
xuất khẩu sản phẩm cá ngừ đại dương các doanh nghiệp cần nâng cao mặt này.
1.2.4.5 Nhân tố tự nhiên
Việt Nam có đường bờ biển dài 3260 Km và diện tích vùng Biển khoảng 1 triệu Km
nhiều đảo và quần đảo có chữ lượng cá ngừ đại dương ước tính khoản 600 ngàn tấn,
thuận lợi cho nghề khai thác cá ngừ đại dương.

2

Nước ta nằm trong khu vực Đông Nam Á có nhiều tuyến vận tải quốc tế đi qua, thuận
xuất khẩu đường biển.
Tình hình thiên tai: bảo, vòi rông, biển động… cũng gây không ích khó khăn cho quá
trình khai thác cá ngừ, không ít những tai nạn do thiên tai gây ra làm hậu quả thương tâm,
gánh nặng cho xã hội và tuột giảm sản lượng khai thát, gần đây nhất VASEP dự báo sản
lượng cá ngừ giảm do dòng hải lưu nóng đi qua khiến cá ngừ di cư.
1.2.4.6 Nhân tố khoa học công nghệ


Công nghệ là yếu tố rất được quan tâm trong khai thác cá ngừ đại dương hiện nay. Các
doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ đại dương hiện nay gặp nhiều khó khăn trong khâu
nguyên liệu, thậm chí giữ mùa khai thác cá ngừ, phải nhập khẩu nguồn nguyên liệu từ các
nước khác gây lãng phí do cá ngừ khai thác được không đạt chất lượng, không đảm bảo
nguyên nhân xuất phát từ việc khai thác và bảo quản với công nghệ lạc hậu, khi vào tới
đất liền chất lượng cá giảm, không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu như SSOP, HSCCP... Hiện
nay, các ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương đang dần thay đổi công nghệ đánh bắt, đầu
tư thuyên theo hướng công nghệ Nhật Bản để cải thiện chất lượng cá ngừ khai thác.
Đối với sản phẩm từ cá ngừ hiện nay tính tại 3 tỉnh trọng điểm chỉ có 36 cơ sở thu mua và
15 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn công nghệ, an toàn vệ sinh để chế biến xuất khẩu con số
này là quá ít so với lượng khai thác và tiềm lực vốn có.

Nguồn:
Bảng 1.2 Số cơ sở thu mua và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá ngừ đại dƣơng
đạt tiêu chuẩn vệ sinh năm 2014
Để đạt chẩn chất lượng xuất khẩu các doanh nghiệp phải trang bị đầy đủ công nghệ hiện
đai máy móc, thiết bị cấp đông tiếp xúc (CF), đông gió và hầm đông lạnh, đông rời (IQF)
đang được các nhà máy chế biến cá ngừ sử dụng để cấp đông sản phẩm. Thiết bị cấp
đông tiếp xúc (CF) chủ yếu cấp đông các sản phẩm cá ngừ lóc như thăn cá ngừ vằn hấp

chín, một số nhà máy chưa trang bị thiết bị cấp đông rời (IQF) sử dụng thiết bị này để
đông các loại sản phẩm Steaks, Saku, Cube; thiết bị đông gió chủ yếu cấp đông các sản
phẩm cá ngừ nguyên con và bỏ đầu; một số nhà máy có trang bị hầm đông lạnh, đông rời
(IQF) cấp đông sản phẩm Steaks, Saku, Cube. Hiện có doanh nghiệp đã trang bị thiết bị
cấp đông sâu (- 60°C) cấp đông các sản phẩm có chất lượng cao và có hàm lượng giá trị
gia tăng cao. Các nhà máy đều trang bị các thiết bị và dụng cụ chế biến đảm bảo điều


kiện về công nghệ chế biến và an toàn vệ sinh thực phẩm; một số nhà máy đã trang bị
thiết bị cắt, máy dán bao bì hút chân không, thiết bị băng chuyền vận chuyển bán thành
phẩm, xe nâng và vận chuyển thành phẩm.
Đối với các nhà máy chế biến đồ hộp đều phải trang bị thiết bị hấp và nồi hơi, thiết bị
ghép mí và thiết bị thanh trùng đảm bảo chế biến các sản phẩm đồ hộp đạt tiêu chuẩn
xuất khẩu sang các thị trưởng EU, Mỹ, Nhật...Một số nhà máy đã tự trang bị thiết bị và
sản xuất hộp và bao bì đóng hộp. Các nhà máy chế biến trang bị kho lạnh đảm bảo yêu
cầu kỹ thuật để bảo quản sản phẩm và kho mát để bảo quản nguyên liệu để chủ động
nguyên liệu cho chế biến, bảo quản bán sản phẩm trong quá trình sản xuất. Chất lượng
máy móc trang thiết bị được đảm bảo để sản xuất, thường xuyên được kiểm tra, duy tu,
bảo dưỡng để phục vụ sản xuất.
Yếu tố công nghệ hiện là sức ép cho ngành cá ngừ Việt Nam khi thiếu vốn đầu tư cơ sở,
thiết bị để có thể khai thác, chế biến đẩy mạnh xuất khẩu. Khoa học công nghệ vô tình là
rào cảo cho những doanh nghiệp thiếu vốn và là lợi thế, cơ hội cho những doanh nghiệp
đã được trang bị đâu tư công nghệ đầy đủ, mô hình chung dể dẫn đến những nhóm độc
quyền chi phối xuất khẩu cá ngừ.
1.3 Cơ hội và thách thức đối với cá ngừ đại dƣơng Việt Nam khi hội nhập toàn cầu
Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam không hội nhập và là
thành viên của nhiều tổ chức kinh tế như WTO, AFTA, ASEM, APEC… gần đây nhất là
TPP, theo đó mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho nên kinh tế nói chung, cá ngừ đại
dương Việt Nam nói riêng.
1.3.1 Cơ hội

Thuận lợi cho xuất khẩu cá ngừ đại dương ra thị trường quốc tees, doanh nghiệp xuất
khẩu cá ngừ Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế quan , xóa bỏ hàng rào phi thuế quan
và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho sản phẩm cá ngừ Việt Nam thâm nhập thị
trường thế giới. Tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương
lai. Khi xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn. Như vậy sẽ
có tác động tốt, tạo ra nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập của người lao động.
Hội nhập giúp doanh nhập khẩu nguyên liệu chế biến có nhiều cơ hội lựa chọn hơn, chủ
động hơn nguồn nguyên liệu nha.


Thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, nguồn hổ trợ cho ngư dân Việt Nam cải thiện
phương tiện đánh bắt xa bờ, kỷ thuật đanh bắt hiệu quả, giá trị thương mại của cá ngừ cao
hơn.
Hội nhập làm tăng vị thế của của cá ngừ Việt Nam trên trường quốc tế khi Việt Nam, là
tiền đề cho xuất khẩu cá ngừ, như khi doanh nghiệp xuất khẩu được sang thị trường EU
thì khi thâp nhập thị trường Nhật Bản sẻ dể dàng hơn.
1.3.2 Thách thức
Rào cản kỹ thuật: Với việc tự do hóa thương mại, thủy sản Việt Nam sẽ có lợi về thuế
quan, nhưng sẽ là đối tượng để các thị trường áp dụng các rào cản phi thuế quan nhằm
bảo hộ ngành sản xuất nội địa hoặc hạn chế NK. Những rào cản như thuế CBPG, thuế
chống trợ cấp, các quy định kiểm tra hóa chất, kháng sinh…đang và sẽ được tăng cường
áp dụng.
cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta với
doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài mà còn cạnh tranh trên chính thị
trường nội địa từ doanh nghiệp nước ngoài.
Bất cập giữ nền hành chính quốc gia và nền quốc tế gây ra nhiều khó khăn cho doanh
nghiệp xuất khẩu, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự ứng biến linh hoạt.
Sự bảo hộ thương mại: Sự cạnh tranh về giá cũng chính là “mối nguy” đối với sản phẩm
cá thịt trắng hay sản phẩm thủy sản tại một số nước. Do đó, nước NK sẽ sử dụng một số
rào cản mang tính chất bảo hộ như quy định về yêu cầu dán nhãn sản phẩm “an toàn cá

heo” của tổ chức Ell đối với sản phẩm cá ngừ tiếp tục là rào cản đối với DN XK cá ngừ
và thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm thủy sản Việt Nam.
CHƢƠNG II: THỊ TRƢỜNG NHẬT VÀ CÁ NGỪ ĐẠI DƢƠNG
2.1 Giới thiệu quốc gia Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia nằm phía Đông Châu Á với tổng diện tích 377835 km2 , khoảng
3.900 đảo lớn nhỏ. Năm 2014, dân số Nhật Bản hơn 127 triệu người, GDP bình quân đầu
người của Nhật Bản khoản 36200 USD/ năm.
Nhật Bản là nước phát triển với mức tổng thu nhập quốc nội cao. Tuy nhiên những năm
gần đây nền kinh tế Nhật Bản đi xuống GDP năm 2014 đạt 4.601,46 Tỷ USD giảm
6,47% so với năm 2013 do tác động của khủng hoảng nợ công ở nước, mức nợ công tới
227,2% GDP trong năm 2014.


Đvt: Tỷ USD

Nguồn:
Tình trạng giảm kéo dài gây
Hình Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Nhật Bản giai đoạn 2010-2012
2.2 Quan hệ thƣơng mại Việt Nam và Nhật Bản
Khi quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Nhật Bản được thiết lập vào tháng 9
năm 1973, quan hệ thương mại giữa hai nước đã có điều kiện phát triển mạnh. Đặc biệt là
kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa thị trường trong nước (1986)
thì quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được phát triển mạnh mẽ hơn bao
giờ hết. Kể từ đó đến nay, quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản đã đạt được những
thành tựu rất đáng khích lệ. Công cuộc đổi mới của Việt Nam với các chính sách phát
triển kinh tế đối ngoại năng động, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và lợi ích của
cả hai bên Nhật Bản và Việt Nam cộng với một môi trường quốc tế thuận lợi... là những
nguyên nhân cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, sôi động hơn và cũng ngày càng đi vào thế ổn
định hơn, vững chắc hơn.



Cho đến nay Nhật Bản hiện là bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam sau Trung Quốc và là thị
trường xuất khẩu đứng thứ 2 sau Mỹ. Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu (đến
90%) là sản phẩm thô hoặc có hàm lượng chế biến thấp, trong đó, dầu thô là sản phẩm
xuất khẩu chủ lực. Ngoài ra, còn xuất khẩu hàng tiêu dùng gia đình như dụng cụ gia đình,
va li, cặp, túi các loại... , những mặt hàng chế biến xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là
thủy sản, dây điện và cáp điện, sản phẩm gỗ và hàng dệt may. Đặc biệt, đồ gỗ xuất khẩu
của ta vào thị trường Nhật Bản càng ngày càng có xu hướng tăng lên một cách vững
chắc, đứng thứ tư sau Trung Quốc, Đài Loan và Thái Lan về thị phần ở Nhật. Điều đáng
nói là trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu của nước ta đã đạt tốc độ phát triển tích
cực, tăng trung bình hàng năm từ 15 -19%, và luôn là nước xuất siêu.
Hiệp định đối tác kinh tế song phương Việt - Nhật (VJEPA) ký ngày 25-12-2008, cùng
với Hiệp định đối tác toàn diện Nhật Bản - ASEAN đã tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi
cho phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước, mở ra cơ hội thúc đẩy xuất khẩu hàng
hoá và lao động Việt Nam sang Nhật Bản. Cụ thể là: kim ngạch thương mại hai chiều
giữa Việt Nam - Nhật Bản năm 2002 đạt 4,9 tỷ USD, tới 2007 tăng lên 12,2 tỷ USD, gấp
2,5 lần so với 5 năm trước, sang 2008, với sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp hai
nước kim ngạch thương mại hai chiều đạt 17,3 tỷ USD, năm 2009 đạt 13 tỷ USD, cho
đến năm 2013 con số này là 24,8 tỷ USD. Số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục
Hải quan cho thấy, trong 8 tháng tính từ đầu năm 2015, tổng kim ngạch buôn bán hai
chiều giữa Việt Nam-Nhật Bản đạt gần 19 tỷ USD, giảm 21% so với cùng kỳ của năm
2014.Trong đó, tổng trị giá hàng hóa các công ty Việt Nam nhập khẩu hàng hóa xuất xứ
từ Nhật Bản là 9,7 tỷ USD, tăng mạnh 22% so với năm 2014 và chiếm 9% tổng kim
ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ. Nhóm
hàng máy móc, thiết bị và dụng cụ phụ tùng khác được nhập nhiều nhất trong 8 tháng
năm 2015 với trị giá 3,2 tỷ USD tăng 39% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, các
nhóm mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện... là một số mặt hàng có kim
ngạch nhập khẩu vào Việt Nam khá cao, chiếm hơn 33% tổng kim ngạch nhập khẩu vào
Việt Nam của các mặt hàng có xuất xứ từ Nhật Bản trong 8 tháng đầu năm 2015.

Ở chiều ngược lại, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của các công ty Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản trong 8 tháng năm 2015 đạt gần 9,3 tỷ USD, giảm 6% so với cùng kỳ
năm trước đó và chiếm 9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Trong 8 tháng từ đầu năm 2015, Nhật Bản là thị trường tiêu thụ quan trọng đối với các
sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: hàng dệt may (đạt 1,7 tỷ USD, tăng 6%
so với năm 2014); dầu thô (đạt 489 triệu USD, giảm 62% so với năm 2014); hàng thủy
sản đạt 650 triệu USD. Mặc dù vậy, có thể nói rằng, cho đến nay kim ngạch nhập khẩu
của Việt Nam từ Nhật Bản vẫn còn thấp so với tiềm năng của hai nước, mặt hàng nhập


khẩu còn đơn điệu khiến chúng ta vẫn chưa tận dụng được nhiều những trang thiết bị
công nghệ hiện đại từ một nước “công nghệ nguồn” như Nhật Bản.
Theo như Hiệp định đã ký, về thương mại, đến năm 2019, hai nước tiến tới đưa hơn 92%
giá trị xuất nhập khẩu được hưởng chế độ miễn thuế. Khoảng 94,53% kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam vào Nhật Bản sẽ hưởng chế độ giảm thuế và kim ngạch xuất khẩu của
Nhật Bản vào Việt Nam được hưởng chế độ này là 87,66% . Nhóm mặt hàng được hưởng
ưu đãi thuế cao nhất gồm: thủy sản, nông sản, dệt may, sắt thép, hóa chất và linh kiện
điện tử. Như vậy, để tận dụng sự ưu đãi của Hiệp định với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường
Nhật Bản một cách ổn định và lâu dài, Việt Nam phải nỗ lực tìm ra nhiều nguồn hàng
xuất khẩu chất lượng cao, giá thành hợp lý, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của thị trường Nhật
Bản, thay đổi cơ cấu mở rộng các mặt hàng xuất khẩu sang Nhật.
2.3 thị trƣờng Nhật Bản và cá ngừ đại dƣơng
2.3.1 Quy định nhập khẩu cá ngừ đại dương của Nhật Bản
Nhật Bản có quy định áp dụng chung cho ngành thủy sản và mặt hàng chế biến, hiện vẫn
chưa có quy định củ thể cho mặt hàng cá ngừ đại dương. Việc nhập khẩu các mặt hàng
thủy sản và thực phẩm chế biến vào thị trường Nhật Bản cần tuân theo các luật sau đây:
Luật thương mại quốc tế và trao đổi ngoại hối, Luật về an toàn vệ sinh thực phẩm và
Luật hải quan.
2.3.1.1 Luật thương mại quốc tế và trao đổi ngoại hối
Việc nhập khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản chịu những hạn chế nhất định, được

liệt kê dưới đây:
- Hạn ngạch nhập khẩu
- Phê duyệt nhập khẩu
- Xác nhận nhập khẩu (xác nhận trước/ xác nhận tại điểm làm thủ tục thông quan)
a) Hạn ngạch nhập khẩu
Việc nhập khẩu những mặt hàng thủy sản dưới đây cần tuân thủ theo hạn ngạch nhập
khẩu theo quy định của Luật thương mại quốc tế và trao đổi ngoại hối. Nhà nhập khẩu
các loại thủy sản này cần có giấy chứng nhận hạn ngạch nhập khẩu và phê duyệt nhập
khẩu của Bộ trưởng Bộ Thương mại.
- Cá trích (tiếng Nhật: nishin), cá tuyết (tiếng Nhật: tara), cá đuôi vàng, cá thu, cá ngừ,
horse mackerel, cá thu đao, sò điệp, mắt sò điệp, mực... (tươi sống, ướp lạnh, đông lạnh,
phi lê hoặc khô). Có bốn cách thức phân bổ hạn ngạch bao gồm phân bổ hạn ngạch dành
cho các công ty thương mại (cấp hạn ngạch dựa trên hoạt động trước đó), phân bổ hạn


ngạch dành cho các công ty kinh doanh thủy sản, hạn ngạch tiêu dùng và phân bổ hạn
ngạch trên cơ sở hoạt động lần đầu. Các công ty nhập khẩu mới bắt đầu hoạt động, về lý
thuyết, cần xin phân bổ hạn ngạch hoạt động lần đầu (việc phân bổ hạn ngạch có thể
được thực hiện theo hình thức bốc thăm), nếu không họ có thể nhận được phân bổ hạn
ngạch cấp lại từ các công ty đã được cấp hạn ngạch.
b) Phê duyệt nhập khẩu
Để nhập khẩu các loại thủy sản dưới đây, công ty nhập khẩu cần nhận được bản phê
duyệt nhập khẩu do Bộ Thương mại cấp từ trước:
- Cá ngừ vây xanh (bluefin) (những loại được nuôi ở Đại Tây Dương hoặc biển Địa
Trung Hải và các loại thủy sản tươi sống hoặc thủy sản ướp lạnh).
- Cá ngừ vây xanh miền Nam (các loại tươi sống hoặc ướp lạnh, trừ những loại được
nhập khẩu từ Ôxtrâylia, New Zealand, Philippines, Hàn Quốc hoặc Đài Loan).
- Cá ngừ mắt to và cá ngừ mắt to đã qua sơ chế (những loại được nhập khẩu từ Bolivia/
Georgia) và các loại cá, các loại giáp xác và các loại không xương sống và các loại thực
phẩm sơ chế từ các loại cá này, cũng như các loại thực phẩm làm từ động vật có sử dụng

cá, các loài giáp xác và các loại động vật thân mềm.
c) Xác nhận nhập khẩu cấp trước
Để nhập khẩu các loại thủy sản dưới đây, cần xin xác nhận nhập khẩu từ Bộ Thương mại
trước khi nhập khẩu hàng hoá:
- Cá ngừ vây xanh đông lạnh, cá ngừ vây xanh miền Nam, cá ngừ mắt to, và cá kiếm
- Cá ngừ (trừ các loại như cá ngừ albacore, cá ngừ vây xanh, cá ngừ vây xanh miền Nam
và cá ngừ mắt to) và cá maclin (trừ cá kiếm) được nhập khẩu bằng đường biển (cá tươi
sống, ướp lạnh và đông lạnh).
d) Xác nhận nhập khẩu tại điểm thông quan
Khi nhập khẩu các loại thủy sản dưới đây, các loại giấy tờ cần thiết phải nộp bao gồm:
giấy chứng nhận thống kê, giấy chứng nhận đánh bắt và giấy chứng nhận tái xuất khẩu để
được các cơ quan hải quan cấp xác nhận nhập khẩu
- Cá ngừ vây xanh (tươi sống/ ướp lạnh)
- Cá ngừ vây xanh miền Nam (tươi sống/ ướp lạnh)
- Cá kiếm (tươi sống/ ướp lạnh)
2.3.1.2 Luật an toàn vệ sinh thực phẩm
Để phù hợp với Thông báo số 370 của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội về "Tiêu
chuẩn đối với thực phẩm và phụ gia thực phẩm" được ban hành theo Luật an toàn vệ sinh
thực phẩm và các tiêu chuẩn đối với dư lượng thuốc trừ sâu... (bao gồm cả phụ gia thức
ăn động vật và dược phẩm dành cho động vật), thủy sản và các loại thực phẩm chế biến
cần tuân thủ theo các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm. Các biện pháp được tiến


×