Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.13 KB, 110 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VÕ THANH XUÂN

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC
Ở TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY
Chuyên ngành : Văn hóa học
Mã số

: 60 31 06 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS LÊ TRUNG KIÊN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ

Võ Thanh Xuân


MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN VỀ BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI Ở TỈNH
KIÊN GIANG

11

1.1. Một số khái niệm cơ bản về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa

11

1.2. Giá trị văn hóa của lễ hội trong đời sống cộng đồng

20

1.3. Truyền thống văn hóa tỉnh Kiên Giang

23

Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN
TRUNG TRỰC Ở TỈNH KIÊN GIANG

35

2.1. Sự ra đời của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực


35

2.2. Các giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực
2.3. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc

49

Nguyễn Trung Trực hiện nay
2.4. Đánh giá chung

60
63

Chương 3: XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA LỄ HỘI VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC
NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY

3.1. Xu hướng vận động của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực

68
68

3.2. Những vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
3.3. Một số giải pháp
3.4. Một số kiến nghị

72

75
92

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

97
100

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

USD

:

Đô la Mỹ

WON

:

Đơn vị tiền tệ Hàn Quốc


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong nền văn hóa Việt Nam tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành
nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời của ông cha ta. Ngoài ý nghĩa góp phần
tạo nên sự cố kết cộng đồng, hướng về cội nguồn giúp cân bằng đời sống tâm
linh đồng thời hàm chứa trong đó nhiều giá trị văn hóa truyền thống mà nổi bật
là giá trị giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân ta.
Khắp các địa phương trong cả nước ta thấy ở mỗi gia đình đều có bàn
thờ tổ tiên, dòng họ có nhà thờ họ, cộng đồng làng thì thờ thành hoàng. Thành
hoàng chính là vị thần cai quản che chở cho cả làng thường là người có công
khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc các Anh hùng dân tộc đã sinh hay mất
ở làng. Với quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần” dân ta luôn trân trọng, biết
ơn những người đã xả thân vì dân vì nước. Những phong tục thờ cúng đó trở
thành lễ hội và lễ hội đó đã trở thành một trong những biểu tượng văn hóa của
cộng đồng.
Hàng năm, trên đất nước ta có hàng ngàn lễ hội được tổ chức với nhiều
hình thức và quy mô khác nhau. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị
riêng nhưng bao giờ cũng là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc biệt
mang tính tập thể, cố kết cộng đồng dân tộc, giáo dục đạo đức con người
hướng về cội nguồn, hướng về cái cao cả thiêng liêng của dân tộc.
Lễ hội không chỉ là một không gian, một thời điểm, một hoạt động để
các thành viên được thỏa mãn nhu cầu cộng sinh mà còn là một thành tố cấu
thành nên bản sắc văn hóa của một cộng đồng. Trong lễ hội nhiều hoạt động
mang đậm nét truyền thống với phần lễ nhiều ý nghĩa và phần hội với các
hoạt động đa dạng, phong phú đã tạo nên tính đặc thù của văn hóa cộng đồng.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần bắt nguồn và phát
triển từ thực tiễn hoạt động của đời sống xã hội, sự giao lưu, tiếp biến của văn
hóa cộng đồng. Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hoá
truyền thống được bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hoá truyền thống


2

đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển
lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó chính là hệ
quả của cả quá trình lịch sử không chỉ một cộng đồng người. Đây chính là
tinh hoa được đúc rút, kiểm chứng và hoàn thiện trong chiều dài lịch sử của
bất cứ một cộng đồng cư dân nào. Lễ hội có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở
thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần được đáp ứng và thỏa nguyện
qua mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống
vật chất, tinh thần trong xã hội ở từng giai đoạn của lịch sử. Lễ hội biểu đạt
những sáng tạo văn hóa được tích lũy và trao truyền qua nhiều thế hệ, in dấu
trong các nghi lễ, nghi thức tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán, văn chương
nghệ thuật, lễ phục, ẩm thực, cúng tế, trò chơi, trò diển dân gian…
Lễ hội đáp ứng nhu cầu một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội,
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các vùng miền, dân tộc; đồng thời là
cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, là hình thức giáo dục, tri ân công đức các Anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và
giữ nước đấu tranh giải phóng dân tộc. Nó là tài sản vô giá trong kho tàng di sản
văn hóa phi vật thể, là sản phẩm tinh thần của nhân dân được hình thành và phát
triển trong quá trình lịch sử. Chính vì thế lễ hội góp phần bảo tồn các giá trị văn
hóa truyền thống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Đối với tỉnh Kiên Giang, ngoài các giá trị nêu trên lễ hội còn trở thành
một nguồn lực quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, là
phương tiện hữu hiệu để quảng bá, giới thiệu văn hóa, vùng đất con người
Kiên Giang, tạo nên thương hiệu du lịch đến đông đảo nhân dân cả nước và
bạn bè quốc tế.
Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở phía
Tây Nam của Việt Nam. Với diện tích tự nhiên 6.346 km2. Dân số 1.683.149
người. Là tỉnh có địa hình đồng bằng, rừng núi, biển và hải đảo. Kiên Giang
được nhiều người biết đến là vùng đất với nhiều danh lam thắng cảnh và địa



3
danh lịch sử như: Hà Tiên, Phú Quốc, vườn Quốc Gia U Minh Thượng, di
tích nhà tù Phú Quốc…Toàn tỉnh hiện có 360 cơ sở thờ tự, 43 danh thắng - di
tích lịch sử văn hóa được xếp hạng. Theo thống kê, hiện nay trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang có 389 lễ hội trong đó có 235 lễ hội tôn giáo, 31 lễ hội dân gian,
62 lễ hội lịch sử cách mạng và một số lễ hội khác. Đặc biệt hàng năm, cứ vào
ngày 26, 27 và 28 tháng 8 âm lịch, lễ hội truyền thống kỷ niệm ngày hy sinh
của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực được tổ chức trang trọng nhằm tri
ân và tôn vinh đức tài, chiến công của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực,
giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống yêu nước và tinh thần quật cường chống
ngoại xâm, bảo vệ đất nước, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng dân gian của nhân
dân; đồng thời là dịp để bà con nhân dân trong và ngoài tỉnh tham gia các hoạt
động giao lưu văn hóa, tăng cường tình đoàn kết gắn bó của các dân tộc sinh
sống trong cộng đồng, giới thiệu, quảng bá tiềm năng phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương. Lễ hội truyền thống Nguyễn Trung Trực đã có sức lan
tỏa ngày càng rộng, mỗi năm số lượt người dự lễ hội ngày càng tăng; nếu
năm 2005 có 400 ngàn người tham gia lễ hội đến năm 2012 có hơn 800
ngàn lượt người tham gia lễ hội [106]. Nét độc đáo mỗi khi nói đến lễ hội
Nguyễn Trung Trực hàng năm là trước ngày chính thức diễn ra lễ hội,
người dân khắp nơi về đây để làm công quả, chung tay sửa sang đình thờ,
dựng trại, đắp lò nấu cơm đãi ăn miễn phí cho tất cả du khách đến tham gia
lễ hội bằng tấm lòng tôn kính, thành tâm chăm lo ngày giỗ của Cụ Nguyễn.
Chỉ nhìn vào nguồn thực phẩm đem dâng cúng, kinh phí đóng góp của các
tổ chức, cá nhân mới thấy sức đóng góp của người dân rất lớn. Điều đáng
nói trong lễ hội Anh hùng Nguyễn Trung Trực là tinh thần của những
người tham dự lễ hội. Dân cư khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long về
dự lễ hội như là trở về gia đình mình, làm giỗ ông bà mình. Vì thế, tính
cộng cảm, cộng mệnh, cộng sinh được thể hiện rất rõ nét trong lễ hội này.
Đây là lễ hội mang tính cộng đồng rất cao và là nét đẹp văn hóa vô cùng

độc đáo ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.


4
Tuy hàng năm lễ hội thu hút lượng khách rất lớn nhưng chỉ diễn ra trong
thời gian ngắn và quy mô tổ chức chưa tương xứng, độc đáo, hấp dẫn du khách
đến với Kiên Giang. Phần nội dung tuy được cải tiến đổi mới, nhưng phần hội
vẫn còn mang tính hình thức, rập khuôn gây nhàm chán cho người dự lễ. Các trò
chơi dân gian còn hạn chế làm cho nét đẹp văn hóa truyền thống vốn có của các
dân tộc đang dần bị mai một. Việc tuyên truyền, vận động người dân tham gia lễ
hội, thực hiện quy định của lễ hội còn hạn chế. Từ đó chưa thấy được mình cần
phải làm gì để hưởng lợi bền vững khi biết cách giữ gìn bản sắc văn hóa, môi
trường sinh thái và có trách nhiệm, hành vi văn minh. Tình trạng mua bán lấn
chiếm vỉa hè, lòng lề đường, giữ gìn an ninh trật tự, mua bán lưu hành ấn phẩm
văn hóa không được phép xuất bản…vẫn còn xảy ra tại lễ hội.
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI viết:
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về
sở hữu trí tuệ, về bảo tồn phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn
hóa, văn nghệ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa với
phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá
sâu rộng các giá trị văn hóa trong công chúng đặc biệt là thế hệ trẻ
và người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa [28, tr.225].
Trong bối cảnh ấy, nghiên cứu việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa lễ hội
Anh hùng Nguyễn Trung Trực nhằm giới thiệu, quảng bá rộng rãi hơn về cuộc
đời, thân thế và sự nghiệp cũng như giá trị của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực là một việc làm có tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ
hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang hiện nay”

làm luận văn tốt nghiệp bậc cao học ngành Văn hóa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội đã được rất
nhiều học giả từ xưa đến nay nghiên cứu và giới thiệu dưới nhiều phương


5
pháp, mục đích và góc độ khác nhau. Trong những năm gần đây và đặc biệt
kể từ khi Nghị quyết TW 5 khóa VIII ra đời Đảng và Nhà nước đã quan tâm
sâu sắc đến việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
thì ngày càng có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lễ hội, ý nghĩa và
giá trị trong lễ hội được công bố.
Có thể đếm được một khối lượng khổng lồ hàng ngàn đầu sách, bài
báo, chuyên đề khoa học, nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về vấn đề này như:
Việt Nam văn hóa sử cương của tác giả Đào Duy Anh, Lễ hội truyền thống và
hiện đại của tác giả Thu Linh - Đặng Văn Lung, Lễ hội truyền thống trong
đời sống xã hội hiện đại, của các tác giả GS. Đinh Gia Khánh - GS.PTS Lê
Hữu Tầng…, Đình miếu và lễ hội dân gian của tác giả Sơn Nam, 60 lễ hội
truyền thống Việt Nam của tác giả Thạch Phương - Lê Trung Vũ, Một số giải
pháp quản lý lễ hội dân gian của tác giả Hoàng Nam, Văn hóa ẩm thực trong
lễ hội truyền thống Việt Nam của TS. Nguyễn Quang Lê… Trong quá trình
miêu tả các lễ hội, đi sâu giải mã về tín ngưỡng, tâm linh, các tác giả đã
nghiên cứu về các hoạt động văn hóa trong lễ hội tạo nên một nét đẹp đa dạng
phong phú giàu tính nhân văn sâu sắc.
Đối với đề tài nghiên cứu lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
ở Tỉnh Kiên Giang hiện nay chưa có nhiều. Chỉ có thể tìm thấy hình ảnh của
cuộc khởi nghĩa và thủ lĩnh Nguyễn Trung Trực qua một số thư tịch và các
công trình nghiên cứu chủ yếu sau:
Lịch sử 80 năm chống Pháp của Trần Huy Liệu (2003), Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội. Tác giả nghiên cứu lịch sử đấu tranh chống Pháp của nhân

dân Việt Nam từ năm 1858 đến khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập.
Dựa vào tài liệu này tác giả có thể tìm hiểu bối cảnh lịch sử đất nước ở thế kỉ
XIX, đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa chống xâm lược trong đó có khởi
nghĩa của Nguyễn Trung Trực.
Đại cương lịch sử Việt Nam - tập II, Đinh Xuân Lâm (Chủ biên)
(2006), Nxb Giáo dục. Ở chương I - Phần Một các tác giả đã nghiên cứu lịch


6
sử Việt Nam từ 1858 - 1896. Ở tài liệu này quá trình đấu tranh chống xâm lược
của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp được miêu tả một cách khá chi tiết.
Nhưng cuộc kháng chiến của Nguyễn Trung Trực không được đề cập nhiều.
Ở lĩnh vực nghiên cứu về thân thế cũng như sự nghiệp về Anh hùng
Nguyễn Trung Trực có thể kể đến những tác phẩm của Nhà giáo Lê Quang
Khai (bút danh Vĩnh Xuyên) ở Kiên Giang. Đó là:
Nguyễn Trung Trực (thân thế và sự nghiệp), Nxb Mũi Cà Mau, 2000 và
Nguyễn Trung Trực - Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Văn nghệ, TP HCM, 2008.
Cả hai tài liệu này cơ bản về nội dung nghiên cứu là giống nhau. Tác giả đã
giới thiệu về tiểu sử, gia phả, sự nghiệp cũng như một số truyền thuyết được
người dân địa phương truyền miệng về Nguyễn Trung Trực một cách khá chi
tiết. Đây là nguồn tài liệu rất có giá trị cho những người muốn nghiên cứu về
Anh hùng Nguyễn Trung Trực.
Nguyễn Trung Trực (diễn ca), Nxb Mũi Cà Mau, 2000. Trong đó tác
giả miêu tả lại tất cả cuộc đời, sự nghiệp, những địa danh, nhân vật cũng như
những sự kiện lịch sử có liên quan đến Nguyễn Trung Trực. Đây là quyển
sách mà tác giả Vĩnh Xuyên thể hiện lịch sử thông qua thơ ca, bằng cách này
lịch sử được tái hiện một cách dễ đọc, dễ hiểu dễ nhớ nhưng vẫn đảm bảo
được sự thật lịch sử.
Tuy nhiên, ở các tác phẩm này, tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu chi
tiết cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực ở các nơi khác mà chủ yếu là

miêu tả lại hai chiến thắng tiêu biểu của Nguyễn Trung Trực là đốt tàu giặc
trên sông Nhật Tảo và đánh chiếm đồn Rạch Giá.
Nguyễn Trung Trực - Anh hùng kháng chiến chống Pháp của Giang
Minh Đoán (1991) viết trong quá trình sưu tập tài 1iệu, đi khảo cứu một số
đình, đền, các di tích thờ phụng cụ Nguyễn trên đất Rạch Giá - Hà Tiên cũ,
cùng những chuyện ghi chép được từ các kỳ lão - Nxb TP.HCM. Tác giả cũng
trình bày về tiểu sử, chiến công của cụ Nguyễn.
Công trình Tìm hiểu Kiên Giang của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh
Kiên Giang do Dương Tấn Phát chủ biên (1986). Đây là nguồn tài liệu rất quí


7
cho những người muốn nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát
triển của tỉnh Kiên Giang trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, tài liệu cũng có
một phần trình bày về cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực tại Kiên
Giang cũng như sự thờ cúng Ông ở địa phương.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nguyễn Trung Trực do Bảo tàng Kiên Giang
tổ chức (1989). Tham dự hội thảo có các nhà nghiên cứu, các nhà sử học, khoa
học và những người quan tâm đến cuộc đời và sự nghiệp của Anh hùng Nguyễn
Trung Trực. Tuy nhiên, trong tham luận của những người tham dự hội thảo, có
những ý kiến khác nhau về một vấn đề chẳng hạn về tiểu sử, quê hương, hoạt
động... đây là nguồn tư liệu rất có giá trị trong việc nghiên cứu sâu hơn về
Nguyễn Trung Trực và cuộc kháng chiến của Ông ở miền Tây Nam bộ.
Bản thảo kỷ yếu hội thảo về Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực (2009) với nhiều ý kiến đề xuất
phát huy vai trò của lễ hội đối với đời sống người dân Kiên Giang nhằm xây
dựng lễ hội trở thành lễ hội tiêu biểu của cả nước.
Tất cả các công trình kể trên chỉ có thể tham khảo để tìm hiểu về thân
thế và cuộc đời sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Chưa có
công trình nào nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Anh

hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
nhằm góp phần bảo tồn và phát huy vốn văn hóa truyền thống của tỉnh Kiên Giang.
3.2. Nhiệm vụ
- Sưu tầm, khảo sát các tư liệu liên quan đến lễ hội Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực; xác định ý nghĩa lịch sử - văn hóa và những nét đẹp độc
đáo trong lễ hội.
- Phân tích thực trạng vấn đề khai thác, bảo tồn giá trị văn hóa trong lễ
hội này.


8
- Đề xuất một số giải pháp mang tính tổng thể, đồng bộ, thiết thực, góp
phần bảo tồn phát huy vốn văn hóa trong lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung nghiên cứu: lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.
- Giới hạn về phạm vi không gian nghiên cứu: là các giá trị văn hóa tiêu
biểu trong lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang.
- Giới hạn về phạm vi thời gian nghiên cứu: Đánh giá hoạt động văn
hóa của lễ hội từ năm 1998 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về văn hóa - xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để xem xét đánh giá giá trị văn hóa của lễ hội Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang.
Phương pháp cụ thể: Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
liên ngành, đa ngành như: văn hóa học, dân tộc học, xã hội học, quản lý văn hóa;
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp nghiên cứu tư liệu,...
Để thực hiện luận văn này, tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp:
Phương pháp tổng hợp nhiều nguồn tài liệu, thư tịch của Pháp, các tác
giả Việt Nam là những nhà sử học theo phương pháp luận Mácxit, hay các


9
nhà sử học Miền Nam dưới nhiều góc độ khác. Phương pháp đối chiếu, so
sánh giữa các nguồn tư liệu, từ đó tiếp tục phân tích rút ra nhận thức. Phương
pháp điền dã, nghiên cứu trên thực địa, thu thập tư liệu, phương pháp phỏng
vấn chuyên sâu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên giới thiệu một cách có hệ thống đầy đủ
giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực; những đề
xuất trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng
dân tộc Nguyễn Trung Trực.
Thông qua luận văn nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học góp
phần minh chứng được tính phong phú, đặc sắc của văn hóa lễ hội dân gian
của từng vùng miền ở nước ta;
Kết quả đề tài nghiên cứu là kênh tham khảo giúp cho nhân dân địa
phương hiểu đúng nội dung, ý nghĩa, giá trị văn hóa, lịch sử qua các hoạt

động và tính cộng đồng trong lễ hội ở địa phương mình, qua đó nâng cao tính
đoàn kết, cố kết cộng đồng, tình yêu quê hương, góp phần vào việc giáo dục
truyền thống yêu nước, tính năng động sáng tạo, giữ gìn nếp sống văn hóa
trong lễ hội hôm nay. Dự báo xu hướng vận động và phát triển của lễ hội
nhằm đưa ra những kiến nghị góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.
Làm tài liệu tham khảo cho những tác giả quan tâm đến lĩnh vực văn
hóa lễ hội ở tỉnh Kiên Giang, cũng như giá trị, vai trò của tinh thần gắn kết
cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm rõ các giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực nhằm góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội.
Thông qua nội dung của luận văn, người đọc sẽ tìm hiểu được một số
giá trị văn hóa tiêu biểu của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực .
Những xu hướng, dự báo, đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá


10
trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực góp phần giữ gìn
giá trị di sản văn hóa của tỉnh. Từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Kiên Giang một cách bền vững.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 11 tiết.


11
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN
VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI

Ở TỈNH KIÊN GIANG
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ DI SẢN VĂN HÓA

1.1.1. Văn hóa và di sản văn hóa
Văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng
tạo ra nhằm phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển. Do cách tiếp cận, góc độ
nghiên cứu trên từng lĩnh vực khác nhau nên có nhiều cách hiểu khác nhau về
Văn hóa. Hiện nay trên thế giới có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Năm
1982, Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của liên hiệp quốc
(UNESCO) đã tổ chức Hội nghị về văn hóa ở Mexico và đã đưa ra một định
nghĩa chung nhất về văn hóa:
Văn hóa theo nghĩa chung nhất là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của
một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng [97].
Trong mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942-1943), Hồ
Chí Minh đã viết:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn [60, tr.431].


12

Như vậy, nói đến văn hóa bao gồm cả vật chất và tinh thần. Văn hóa
vật chất là toàn bộ sản phẩm vật chất mà con người sáng tạo ra như các công
trình điêu khắc, kiến trúc; công cụ lao động sản xuất và sinh hoạt; thức ăn,
trang sức, các phương tiện vận chuyển…các sản phẩm văn hóa ở dạng vật
chất ấy gọi là văn hóa vật thể.
Văn hóa tinh thần là toàn bộ các sản phẩm do con người sáng tạo ra
như: văn học và nghệ thuật, các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo…
đây chính là dạng văn hóa phi vật chất còn gọi là văn hóa phi vật thể.
Luật di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 xác
định: di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật
thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được
lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam [71, tr.32].
Đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, nghị
quyết trung ương 5 khóa 8 cho rằng: di sản vǎn hóa là tài sản vô giá, gắn kết
cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá
trị mới và giao lưu vǎn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy
những giá trị vǎn hóa truyền thống (bác học và dân gian), vǎn hóa cách mạng,
bao gồm cả vǎn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng
những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại.
Trong những năm gần đây, vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn
hóa được đặc biệt quan tâm. Đảng và Nhà nước đã xác định di sản văn hóa
Việt Nam chính là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là
một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Khi đề cập đến một nền văn hóa, người ta thường quan tâm đến những
giá trị đặc sắc của nền văn hóa đó. Hay nói cách khác là bản sắc và giá trị của
nó tạo nên sự khác biệt giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác, giữa dân
tộc này với dân tộc khác.



13
Trong những giá trị đó thì di sản văn hóa có sự lan tỏa và thu hút đặc
biệt sự quan tâm của cộng đồng. Bởi vì nó chính là toàn bộ quá trình lao
động, sáng tạo của các thế hệ đi trước để lại. Trong di sản văn hóa được chia
ra là di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan; có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng; không
ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diển và hình thức khác.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh, di vật, bảo vật quốc gia [70, tr.33].
Mặc dù được phân chia thành hai loại: văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể
nhưng 2 loại này luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó mật thiết lẫn nhau.
Vì vậy, trong công tác bảo tồn các di sản văn hóa cần phải tiến hành
một cách song song thì mới mang lại giá trị thiết thực.
PGS.TS Đặng Văn Bài trong vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa của lễ hội truyền thống cho rằng: Nhận diện di sản văn hóa là tiền đề
khoa học cho hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội. Từ góc độ di
sản văn hóa có thể khẳng định, lễ hội - một yếu tố văn hóa phi vật thể đã và
đang có những đóng góp quan trọng vào việc tạo lập, duy trì và phát huy “sức
mạnh tinh thần Đại Việt”, với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và với lòng tự
tôn dân tộc, ý thức liên kết cộng đồng…
1.1.2. Quan niệm về bảo tồn
Theo từ điển tiếng Việt: “bảo tồn” là “giữ lại không để cho mất đi” [94,
tr.261]. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo
dạng thức vốn có của nó, bảo tồn là không để mai một không để thay đổi,
biến hóa hay biến thái.

Quan niệm của GS.TS. Trần Ngọc Thêm thì: Bảo tồn chính là hoạt
động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại,


14
hay nói cách khác bảo tồn có nghĩa là bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện
trạng và hãm xuống cấp của kết cấu đó [79, tr.289].
Đề cập đến vấn đề này, GS.TS. Ngô Đức Thịnh quan niệm bảo tồn là
những nổ lực nhằm gìn giữ các giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp vốn có (truyền
thống) của mỗi dân tộc, quốc gia [84, tr.252].
Khi con người hiểu được những tác động trong cuộc sống sẽ làm ảnh
hưởng đến quá trình tồn tại của các giá trị văn hóa thì họ đã nghĩ đến việc bảo
tồn. Do đó, trong tiến trình lịch sử, hoạt động bảo tồn di sản văn hóa xuất hiện
ngay từ khi con người ý thức được giá trị của di sản văn hóa trong đời sống,
đồng thời hiểu được mối nguy hại do tác động của thiên nhiên và chính con
người gây ra, họ đã không ngừng tìm kiếm các biện pháp bảo tồn.
Công tác bảo tồn di sản văn hóa có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm
các hoạt động như: bảo tồn nguyên trạng, trùng tu, gia cố, tái định vị, phục
hồi, quy hoạch bảo tồn. Tuy nhiên, cần phải hiểu bảo tồn di sản văn hóa là
việc bảo vệ, giữ gìn những giá trị liên quan từ quá khứ đến hiện tại làm cho di
sản văn hóa giàu có hơn và tất yếu, cái được bảo tồn phải phù hợp với thời đại
để nó có thể tiếp tục song hành cùng xu hướng đi lên của cuộc sống. Bảo tồn
chính là những nổ lực nhằm đảm bảo sự an toàn, phát triển qua việc giới
thiệu, trưng bày, khôi phục, tôn tạo, quảng bá và phát triển nhằm phục vụ các
hoạt động tiến bộ của con người trong xã hội.
1.1.3. Quan niệm về phát huy
Phát huy được hiểu là những tác động làm cho cái hay, cái đẹp, cái tốt
được lan tỏa và tiếp tục nảy nở, lan rộng, nhân lên từ ít đến nhiều, từ hẹp đến
rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa

sáng tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm” [94, tr.664].
Như vậy có thể hiểu rằng phát huy chính là việc làm cho cái hay, cái
đẹp tiếp tục phát triển một cách có hiệu quả. Vấn đề phát huy xuất phát từ nhu
cầu thực tế, con người mong muốn sản phẩm của họ tạo ra phải được nhiều
người cùng biết đến hoặc đem về những lợi ích kinh tế thiết thực. Phát huy


15
cũng hiểu là phát triển những giá trị tốt đẹp, những thế mạnh của sự vật, hiện
tượng. Phát huy giá trị di sản văn hóa là một hoạt động có tính đồng bộ. Đòi
hỏi có sự tham gia của liên ngành, có tiêu chí chung, mục đích là nhằm phục
vụ cho sự tiến bộ của xã hội, cho việc phát triển du lịch bền vững và góp phần
quan trọng trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc đồng thời là nhịp cầu nối với các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Cách thức phát huy của mỗi di sản, mỗi thời điểm có khác nhau, điều đó tùy
thuộc vào văn hóa của mỗi vùng, vào nhận thức của từng người. Nhưng tất cả
các hoạt động này điều phải dựa vào giá trị sẵn có của di sản, làm tôn vinh vẽ
đẹp và phát triển các giá trị văn hóa đó. Hình thức chủ đạo của phát huy là đề
cao các giá trị văn hóa vốn có của nó. Đồng thời tăng cường quảng bá hình
ảnh của di sản trên mọi phương diện nhằm khai thác, thu hút khách đến tham
quan, đầu tư. Từ đó giúp cho việc phục hồi tối đa các giá trị văn hóa truyền
thống, tạo cơ hội giao lưu giữa các nền văn hóa khác nhau góp phần hiểu biết
lẫn nhau và tăng cường mối quan hệ quốc tế vì hòa bình, vì sự phát triển của
xã hội. Mặt khác, nếu biết phát huy lợi thế của di sản văn hóa thì đây được
xem là một tiềm lực kinh tế.
1.1.4. Quan niệm về giá trị văn hóa của lễ hội
1.1.4.1. Khái niệm giá trị
Trước hết, giá trị xã hội là một khái niệm thuộc về văn hóa. Xã hội học
văn hóa là chuyên ngành tiếp cận và nghiên cứu nhiều về vấn đề này. Theo
quan điểm của nhà nghiên cứu Đoàn Văn Chúc thì giá trị xã hội được xem xét

trong hệ thống các khái niệm khác như : Tiêu chuẩn (criterion) - Chuẩn mực
(norm) - Giá trị (value). Trong đó, giá trị là cái ao ước, là biểu hiện nhu cầu
của cá nhân hay nhóm xã hội, trở thành mục đích hành động của cá nhân và
nhóm xã hội đó. Giá trị có vai trò định hướng chung cho hành động. Chuẩn
mực là một bước cụ thể hoá cái giá trị. Nó là quy tắc cư xử, quy định cách
thức hành động của cá nhân và nhóm. Nó biểu hiện dưới dạng các thể chế
(institution) thành văn (như luật của nhà nước) hay không thành văn (như
phong tục, tập quán…). Còn các tiêu chuẩn chính là những khuôn mẫu ứng


16
xử trong các tình huống cụ thể cho các cá nhân và nhóm xã hội. Nó là cái gắn
với thực tế vô cùng đa dạng và phong phú của đời sống. Nó bảo cá nhân hay
nhóm xã hội phải làm gì, như thế nào.
Ngoài ra, giá trị còn có hàng trăm định nghĩa khác. Ví dụ: nhà Nhân
học C.Kluckhohn (1905-1960) theo đó giá trị là “quan niệm thầm kín hay bộc
lộ về cái ao ước, riêng của một cá nhân hay một nhóm, chi phối đến sự lựa
chọn các phương thức, các phương tiện và các mục đích khả thể của hành
động”. Giá trị có thể được phân loại theo nhiều cách. Đó là: giá trị vật chất và
giá trị tinh thần. Chúng ta có thể dựa vào hai lĩnh vực cơ bản của đời sống con
người mà phân ra các giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Các giá trị về vật
chất như giàu có, khoẻ mạnh, sống lâu…Các giá trị về tinh thần như giá trị về
thờ cúng tổ tiên, giá trị thờ thần (ví dụ khi hành lễ phải tôn nghiêm, ăn mặc
quần áo truyền thống, làm theo những nghi thức được quy định)…Phân loại
giá trị dựa vào việc đáp ứng nhu cầu xã hội. Chúng ta có các hệ giá trị:
Giá trị thuộc lĩnh vực tự nhiên như sức khoẻ, môi trường, tuổi thọ;
giá trị kinh tế (giàu có, sang trọng, biết làm ăn...); giá trị tri thức
(hiểu biết, học vấn...); giá trị tâm linh (tôn giáo, tín ngưỡng...); Giá
trị chính trị (hệ tư tưởng, cách tổ chức...) [34, tr.25-26].
Ở nước ta hiện nay thường dùng thuật ngữ giá trị là để chỉ phẩm chất,

phẩm giá, đức tính (giá trị đạo đức). Giá trị gắn liền với cái tốt, cái hay, cái đúng,
cái đẹp, nhưng không nên và cũng không thể “đạo đức hóa” toàn bộ các giá trị.
Bởi lẽ, chỉ riêng cái tốt đã là thuộc tính của rất nhiều các giá trị khác nhau chứ
không đơn thuần là thuộc tính riêng của đạo đức. Bất kỳ sự vật nào cũng có thể
được coi là “có giá trị”, dù đó là vật thể hay tư tưởng, là thực vật hay vật ảo nếu
nó được các thành viên xã hội thừa nhận và xem xét như một biểu tượng quan
trọng trong đời sống tinh thần của họ và cần đến nó như một nhu cầu thực thụ.
Giá trị có thể là lý tưởng xã hội cần vươn tới, là mục tiêu chính trị cần
đạt được, là sự đam mê nghề nghiệp, là danh dự, tình yêu, sức khỏe, tiền bạc,
du lịch, vui chơi, giải trí. Giá trị là nhân tố nền tảng góp phần quyết định nhận


17
thức và hành động các nhân cách; đóng vai trò điều chỉnh các nguyện vọng và
hành động của con người và cộng đồng; là chỗ dựa để đánh giá hành động của
người khác và để định đoạt lợi ích xã hội của các thành viên trong cộng đồng.
Do đó, giá trị xác định tiêu chuẩn của thang bậc xã hội. Hệ giá trị (hay bảng
giá trị) là một tập hợp các phạm trù giá trị khác nhau, được cấu trúc theo
những thứ bậc khác nhau, và có mối liên hệ có tính lịch sử cụ thể với nhau để
thực hiện một hay một số chức năng nhất định. Nó có tính chất phát triển nội
tại và có khả năng chuyển hóa sang một hệ thống khác, nhằm thích ứng với
điều kiện và môi trường lịch sử - xã hội.
Hạt nhân của mỗi nền văn hóa là hệ thống giá trị. Có thể coi hệ thống giá
trị là chỉ số đánh giá trình độ và tính chất đã đạt được của một nền văn hóa.
1.1.4.2. Khái niệm lễ hội
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa của nhân dân, mang đậm
phong tục tập quán và bản sắc văn hóa của từng vùng, miền khác nhau. Nó đã
ăn sâu vào tiềm thức của tất cả mổi người trên mỗi quốc gia, dân tộc.
Từ lâu các nhà nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa, quan niệm khác
nhau về lễ hội. Trên thế giới khi nghiên cứu những đặc tính và ý nghĩa của lễ

hội ví dụ như ở nước Nga, M.Bachie (trong Lễ hội một nét đẹp trong sinh
hoạt văn hóa cộng đồng) cho rằng: Thực chất lễ hội là cuộc sống được tái
hiện dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là cuộc sống lao động và chiến đấu
của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể thành lễ hội
được nếu như chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế
giới của tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của
những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai
thoát ly tạm thời thực tại hữu hiệu, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó mọi thứ
đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả.
Nói đến lễ hội trong quyển “Việt Nam văn hóa sử cương” học giả Đào
Duy Anh thì gọi là đại hội (vào đám hay vào hội). Còn Toan Ánh trong cuốn
“Hội hè đình đám” thì quan niệm hội hè đình đám là những cuộc tổ chức hội


18
họp tại các thôn xã nhân dịp vào đám và trong dịp vào đám này có nhiều trò
mua vui cho dân thôn giải trí.
Cách quan niệm trên đã nhấn mạnh ý nghĩa tích cực của hoạt động vui
chơi sinh hoạt tập thể có ý nghĩa giải trí, các yếu tố thuộc về nghi thức mang
tính tâm linh tín ngưỡng thì chưa được đề cập sâu.
Các nhà nghiên cứu như Đinh Gia Khánh, Lê Hồng Lý, Nguyễn Khắc
Dương, thì coi đó là hội lễ, coi danh từ hội lễ như một thuật ngữ văn hóa. Ý
nghĩa của thuật ngữ này được xác định trên cơ sở ý nghĩa của hai thành tố hội
và lễ. Hội là sự tập hợp đông người trong một sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Lễ là tín ngưỡng (các niềm tin thiêng liêng) và các nghi thức đặc thù gắn với
các tín ngưỡng ấy trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Như vậy, lễ hội có thể có nhiều cách gọi khác nhau nhưng cơ bản thống
nhất và tập trung ở từ “lễ hội”. Xét về mặt nghĩa của từ, nó bao gồm hai thành
tố “lễ” và “hội”.
Trong “Từ điển tiếng Việt” do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên: Lễ là

những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu một kỷ niệm, một sự việc sự kiện
nào đó. Hội là cuộc vui, tổ chức chung cho đông đảo người dự theo phong tục
hoặc nhân dịp đặc biệt [68, tr.222].
Việc phân tích các quan niệm về lễ hội trên dựa vào cấu trúc lễ hội,
theo đó lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội tuy nhiên cách phân chia này chỉ
mang tính tương đối. Lễ hội là một hiện tượng văn hóa xã hội tổng thể, do
vậy nếu phân chia lễ và hội một cách máy móc cơ học thì sẽ dẫn đến không
thể hiểu được bản chất của lễ hội thậm chí hiểu sai lệch về lễ hội.
Như vậy lễ trong lễ hội cần phải hiểu là nghi thức, cách thức tiến hành
những quy tắc, luật lệ nhất định mang tính biểu trưng để đánh dấu kỷ niệm
một sự kiện, nhân vật nào đó với mục đích cảm tạ, tôn vinh, ước nguyện với
mong muốn nhận được sự may mắn tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những
đối tượng siêu hình mà người ta thờ cúng. Đó là những sinh hoạt tinh thần của
các cá nhân hay tập thể, là sinh hoạt cả cộng đồng người trong đời sống tín
ngưỡng, tâm linh, đồng thời cũng là cách ứng xử của các tầng lớp nhân dân


19
dành cho thần, hướng về thần trong mối quan hệ “Người - Thần” vốn luôn tồn
tại trong tâm thức và hành động của con người. Từ những phân tích trên nhằm
hiểu đúng bản chất của “lễ”, tránh cách hiểu chưa đúng, hoặc những quan
niệm thông tục coi lễ chỉ là lễ bái, lễ vật, lễ lạt…
Xét về mặt cấu trúc và cội nguồn thì lễ và hội luôn gắn chặt với nhau,
không có lễ thì không có hội và hội ở đây cũng mang tính nghi lễ chứ không
phải hội chỉ là “đám vui chơi đông người”. Nhìn một cách tổng thể, thì lễ hội
thuộc phạm trù cái thiêng của thế giới thiêng liêng. Ngôn ngữ lễ hội là ngôn
ngữ biểu tượng, vượt lên trên đời sống hiện hữu thường nhật. Vì vậy, phần
hội luôn gắn với phần lễ, là bộ phận phái sinh của phần lễ, nó gắn với cái
thiêng liêng với vị thần, nhân vật mà con người thờ phụng. Các sinh hoạt vui
chơi, giải trí, trò diễn trong các lễ hội như đua thuyền, các trò diễn mang tính

phồn thực…thì nó vẫn mang tính nghi lễ phong tục chứ không phải trò, chơi
trò diễn thuần túy trần tục, mà trò diễn ở đây đã được thiêng hóa. Theo GS,TS
Ngô Đức Thịnh cho rằng:
Lễ hội là một hiện tượng tổng thể, không phải thực thể chia đôi
(phần lễ, phần hội) một cách tách biệt như một số học giả quan
niệm mà nó hình thành trên cơ sở cốt lõi nghi lễ, tín ngưỡng nào đó
(thường là tôn thờ một vị thần linh lịch sử, hay một thần linh nghề
nghiệp, thần linh huyền thoại…) rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các
hiện tượng sinh hoạt văn hóa phái sinh để tạo nên một tổng thể xã
hội. Cho nên trong lễ hội phần lễ là phần gốc rễ, chủ đạo, phần hội
là phần phái sinh tích hợp [84, tr.336].
Đối với người dân Việt Nam, lễ hội là một trong những loại hình sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng lâu đời nhất. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và
khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử.
Lễ hội là một tổng thể thống nhất không thể chia tách. Lễ là phần tín
ngưỡng, là phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con người. Còn hội là
phần tập hợp vui chơi giải trí, là đời sống văn hóa thường nhật, phần đời của


20
mỗi con người, của cộng đồng. Hội gắn liền với lễ và chịu sự quy định nhất
định của lễ, có lễ mới có hội.
1.2. GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG

Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hoá tinh thần đặc biệt mang tính
tập thể phản ánh nhiều mặt của đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội của cộng
đồng. Nó là sản phẩm tinh thần, là di sản văn hoá phi vật thể có giá trị to lớn
trong đời sống tinh thần của nhân dân. Lễ hội trong đời sống xã hội hiện nay
có thể khái quát thành năm giá trị cơ bản: Giá trị cố kết cộng đồng dân tộc,

giá trị giáo dục, giá trị tâm linh, giá trị bảo tồn nền văn hoá dân tộc, giá trị
kinh tế. Từ các giá trị đó cho thấy, vai trò của lễ hội có giá trị rất lớn trong đời
sống văn hóa hiện nay. Qua lễ hội hoạt động tinh thần gắn kết mọi người đến
với nhau để cùng chung một niềm tin cùng hướng về tổ tông dòng tộc, cùng
chung một thần linh, thành hoàng.
Các phong tục, tập quán, tín ngưỡng gắn với ngôi đình, mái chùa cùng
với lễ hội là cái nôi giữ gìn bảo tồn văn hoá Việt Nam. Lễ hội là một hình
thức tái hiện cuộc sống quá khứ thông qua các hoạt động tế lễ, các trò diễn.
Bản chất lễ hội nói lên việc ứng xử của con người trong đời sống văn hóa
cộng đồng. Quá trình con người ứng xử với thần linh thể hiện ý thức về cội
nguồn đó là phần lễ. Phần hội, mọi người gặp gỡ, vui chơi với nhau tạo thành
nét văn hóa đặc sắc. Lễ hội với sự tham gia của nhiều cá nhân, nhiều tổ chức
xã hội, một mặt đã tạo nên tinh thần đoàn kết, sự cố kết cộng đồng nhưng
đằng sau nó cũng đã ngầm ẩn những mâu thuẫn, xung đột, va chạm giữa các
cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với các tổ chức…Trên thực tế, các xung
đột trên xét cho cùng chính là sự mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, giữa cái
thiêng và cái trần tục, giữa việc bảo lưu và việc cải tiến…Vấn đề đặt ra là làm
sao chúng ta có thể dung hòa được các mối quan hệ xã hội phức tạp đó để lễ
hội thực sự là môi trường cho con người cùng nhau hưởng thụ, thỏa mãn nhu
cầu tâm linh của mình.
Các hoạt động ấy trong lễ hội không những tái hiện cuộc sống mà nó
góp phần giữ gìn và bảo tồn nền văn hoá dân tộc, được lưu giữ từ đời này


21
sang đời khác. Nói một cách khác lễ hội là kết quả của quá trình lịch sử hoá
quá khứ và hiện tại, kết hợp quá trình huyền thoại hoá những nhân vật là sự
kiện lịch sử được nhân dân thờ phụng. Đồng thời còn là kết quả của quá trình
sân khấu hoá đời sống xã hội và quá trình xã hội hoá trong tiến trình lịch sử.
Quá trình mô phỏng tái hiện cuộc sống quá khứ và những nhân vật sự kiện

lịch sử trong lễ hội đã đạt đến tính xã hội hoá cao. Hình thức và nội dung của
lễ hội phản ánh khá đầy đủ và sinh động đời sống vật chất là tinh thần xã hội
trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Đồng thời qua quá trình hình thành và tồn
tại, lễ hội đã tác động mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn thể cộng
đồng trong một khu vực làng xã, một vùng, một dân tộc, một quốc gia, tuỳ
theo tính chất và mức độ của lễ hội ấy. Và như vậy lễ hội góp phần bảo tồn
văn hoá dân tộc ngay trong chính tâm thức của cộng đồng.
Tính cố kết cộng đồng ấy thể hiện qua sự cộng mệnh và cộng cảm.
Cộng mệnh là sự gắn bó giữa con người trong cộng đồng thông qua vận mệnh
của cộng đồng, thể hiện ở việc cả làng cùng suy tôn, cùng tôn thờ một sức
mạnh siêu nhiên bảo vệ cho sự tồn vong của cả cộng đồng. Đó là Đức quốc
Tổ Hùng Vương trong lễ hội Đền Hùng; Thành hoàng làng trong các lễ hội
Đình; Đức Phật, Thánh Mẫu trong các lễ hội, tôn giáo. Cộng cảm là sự thể
hiện có chung thái độ tình cảm của các cá nhân và cả tập thể trong ứng xử văn
hoá với tự nhiên, thần thánh và con người.
Trong lễ hội các hoạt động của lễ và hội đều thể hiện tính cộng mệnh
và cộng cảm, tính quần thể. Các lễ hội còn thấm đượm tinh thần đoàn kết, dân
chủ và nhân bản sâu sắc. Khi tham dự lễ hội đứng trước thần linh hay nhân
vật thiêng liêng thì dù là người tổ chức hay người dân tham gia lễ hội hay bất
kỳ cương vị nào cũng đều bình đẳng trước thánh thần và bình đẳng với nhau
trong tư cách người tham gia. Bất kể một lễ hội nào cho dù là lễ hội nông
nghiệp, lễ hội lịch sử, lễ hội tôn giáo suy tôn các vị thần linh hay Anh hùng
dân tộc thì các lễ hội ấy bao giờ cũng là lễ hội của một cộng đồng; biểu
dương các giá trị văn hoá và sức mạnh của cộng đồng trên mọi bình diện.
“Mọi hoạt động diễn ra trong các lễ hội ấy đều thể hiện tính cố kết cộng đồng,


×